PDA

View Full Version : Tuổi Canh : Lộc Quyền Khoa Kỵ



htruongdinh
05-10-10, 20:30
Tứ Hóa Lộc Quyền Khoa Kỵ được an theo thứ tự : Dương Vũ Âm Đồng hay Dương Vũ Đồng Âm là chuyện tranh cãi lâu nay của người xem tử vi. HTD tìm thấy một lá số hay để nghiệm lý trường hợp tuổi Canh thông qua lời giải đoán của chú cymbidium ở diễn đàn vietlyso.com

http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/1/223005091980/1/abc.jpg

htruongdinh
05-10-10, 20:31
Người này Mệnh có Thiếu dương Thiên Không thì quá thông minh,sắc sảo,thêm Đồng Âm thì rất mềm mại uyển chuyển trong ứng xử nhưng cá tính thay đổi xoành xoạch,tâm tư luôn biến động tính toán để lân lướt người khác trong cuộc sống nhưng khéo che dấu.Vì có Kình nằm sẵn thì tính cho lắm thì càng vướng chuyện thị phi(Hoá kỵ) và kết cục không ra chi,dể mất đi sự tin cậy của người khác.Nếu hắn thuận theo đường Tứ đức ứng xử đường hoàng không tính toán quá mức thì sức khoẻ có kém nhưng mọi chuyện sẽ tốt với hắn hơn trong cuộc sống.Khuynh hướng thứ hai hơi khó xảy ra nhưng cháu cứ kiểm tra lại xem thì rõ?

Mệnh có Đào Thân có Hồng thêm Đồng Âm thì hắn thuộc loại có bề ngoài hút hàng đối với giới Nữ vì cái dáng nho nhả khéo chìu của hắn,đi với Kỵ thì đúng là kết cục cũng không có gì,lại dể mang tiếng không tốt về tính cảm.

Đường công danh có Cơ tại Quan là rất biến động(Hoả),thêm Đào Hồng Hỉ là có nhiều khả năng hắn thích hợp làm trong ngành biểu diễn nghệ thuật vì chốn này rất đa đoan trôi nổi,lắm chuyện thị phi thì hợp cho cá tính của hắn.Có Tuần thì thành bại cũng thất thường khó ổn định công việc.

Cung Di tốt do thấy hắn cũng được khá nhiều sự tin cậy(Khoa) và nâng đở từ người khác(Quang Quí) khi giao tiếp ngoài xả hội,có nhiều quan hệ tốt với giới Nữ(Nguyệt Đào Hồng Hỉ) nhưng không bền lâu và tốt đẹp vì có Hình Kình Riêu Linh Kỵ.Dư âm còn lại thường không mấy tốt đẹp.

Cha mẹ và anh em đều khá giả thành đạt,chỉ có hắn là cuộc sống hơi lạc quẻ,trôi nổi không giống ai,ít hợp với người thân.Có rất nhiều khả năng hắn là dân nghệ sỹ vì toàn bộ lá số đều phản ảnh các mặt tương đối phù hợp.Quaminhn nhớ hồi đáp để anh em nghiệm lý.

Cung Tài có Hao là hắn tiêu phí quá mạnh,có Cự hãm thì chuyện tiền bạc thường vướng vào tranh chấp mỏi miệng.Thời trẻ rất dể bị thường xuyên rỗng túi.May là Cung Nô có Tử Phủ Mã Lộc Quyền nên hắn có khả năng được bạn bè khá giả giúp đở về tiền bạc,cuộc sống vật chất.Đành phải chịu cảnh ăn theo lúc vất vả khó khăn.

Cung Thê có Triệt chặn đầu thì khó lập gia đình sớm,rất dể bị cảnh hai đời.Mệnh hắn có Kỵ Đào cũng có chỉ dấu về chuyện này.Thân cư Thê cho thấy cuộc sống hắn sau này tuỳ thuộc và phải gắn bó vào người vợ để cuộc sống có khấm khá hơn vì Thê có Khoa Lộc Xương Khúc là vợ có học làm ra tiền và khá danh giá.Mách nước cho hắn là nếu muốn chắc cú và có cuộc sống tốt trong hậu vận thì nên chọn người lớn hơn ba đến bốn tuổi(Lương Thọ) thuộc loại "second-hand" càng tốt(Hồng Quả)...hi.hi...Hôn nhân sẽ có cơ bền vững nhờ Chị dắt em đi và cả hai cùng hưởng cái tốt của bộ Khoa Lộc Xương Khúc.Coi như hậu vận có sung sướng đầy đủ hơn Tiền vận rất nhiều nếu biết chủ động xoay hướng thuận theo Thiên Mệnh.

Nguồn : vietlyso.com

htruongdinh
05-10-10, 20:33
Chào các bạn,chuyện an Tứ hoá theo mới hay cũ đã được bàn ì xèo nhiều trên các diễn đàn Lý số.Tôi có theo dõi nhưng chưa thấy thuyết phục lắm nay bổng nhiên vào ca này thì thấy rõ hơn vì nó làm chuyển biến lá số quá mạnh.Nay tiếp tục giải lại theo trường hợp Khoa đi với Đồng để thấy nó chuyển hướng như thế nào khi luận giải.

Cái tính cách hay thay đổi của người có Đồng thì vẩn vậy nhưng có Khoa là thuốc đặc trị của Thiên Không thì cái tính khôn ngoan sắc sảo vẫn còn thể hiện dưới dạng khiêm tốn,biết hết mọi mưu đồ của kẻ chơi xấu mình.Chơi vô chiêu tránh đòn nhẹ nhàng chứ không nhằm lấn lướt hay làm tổn thương người khác,dù hoàn toàn có khả năng phản đòn chí tử(Kình).Mặt khác Thiên Không là dạng có trực giác mạnh,nhạy bén(Thiếu Dương) đôi khi là không tưởng(yếu tố cần thiết cần cho những người muốn học lên Tiến sỹ).Thêm Đào Hoa là người có tài hoa lạ,hút hàng giới Nữ..Kình hảm địa tại Dậu là chỉ dấu cho thấy cuộc sống sẽ có nhiều phen gián đoạn trong đó có chuyện sức khoẻ kém.Tóm lại Hoá Khoa đã xoay hướng toàn bộ tính cách và khả năng của đương số.

Đại hạn 22-31 có Lộc nên cái máu bốc đồng muốn kinh doanh nổi dậy nên đương số lao vào kinh doanh,gặp Hao Nhật hãm nên không bền,khi tan hàng giải quyết hậu quả cũng điều tiếng tranh chấp không vui(Riêu Hình Linh Cô Quả Cự..).Cũng trong thời gian này Mệnh có Khoa mà đi hạn có Xương Khúc Quang Quý Thai Toạ thì tính chuyện học hành lên cao là trúng cách.Mệt vì tiền nếu lao vào kinh doanh(Cung Tài kém cũng là một yếu tố) nhưng sẽ được lợi nếu theo đường Khoa bảng.

Cung Di có Nguyệt Đào Hồng chiếu thì đương số khi giao tiếp ngoài xả hội được rất nhiều giới Nữ chú ý,giao tình khá đậm(Quang quý Đào Hồng Hỉ) nhưng có Nguyệt Hình Kỵ Khúc thì cũng dể bị mấy ẻm cho leo cây mệt xỉu..hi..hi.Có tiếng mà không có miếng.

Cung Thê có Triệt Cô Quả là có khó khăn về hôn nhân(xa thì nhớ ,gần dể mỏi miệng) nhưng vì Triệt vuốt đuôi ảnh hưởng kém và Lương hợp cho Mộc mạng nên có thể bền vững được.Kỵ không còn đi với Đồng Đào tại Mệnh nên tính cách đa đoan,thị phi trai gái,yếu tố quan trọng không còn chi phối tính cách của đương số nên mới đưa đến kết luận như trên về hôn nhân.Thân cư Thê là chỉ dấu hắn cũng rất yêu thương và chịu gắn bó với người phối ngẩu nên cũng là yếu tố góp phần vào quan hệ bền vững,

Tổng hợp lại thì người này hoàn toàn không thích hợp về chuyện kinh doanh kiếm tiền vì cá tính không ham lợi lộc và cung Tài kém.Có thế mạnh về đường khoa bảng nhưng Quan có Tuần,Thân gặp Triệt nằm trong Tam hợp Thiếu Âm là dạng đào giếng cho người khác uống thì nên theo đường dạy học là tốt nhất,kế đó là chuyên viên tham mưu cao cấp cũng hợp.Nếu có được đề bạt thì nên làm Phó là bền hơn làm Xếp.Còn chuyện làm trưởng bộ phận thì không có vấn đề gì.

Đại hạn 32-42 nằm tại Cung Điền có Phá miếu là có nhiều biến động đi lên trong cuộc sống,là hạn Thái tuế nên sẽ được nhiều may mắn thành tựu nhưng sẽ có nhiều cản trở khó khăn mạnh do Tuần chặn đầu nên mức độ hài lòng chỉ tương đối,Vẫn là hạn tốt đi kèm nhiều thử thách.Có nhiều điều lý thú để phân tích thêm về rất nhiều góc cạnh của đương số nhưng thời gian có hạn nên chỉ đi vào các vấn đề chính yếu.

Kết luận cuối cùng với ca nghiệm lý này là Đồng luôn đi với Khoa đối với tuổi Canh như các sách Tử Vi Việt đã mặc định.Chào thân ái.

cymbidium
Nguồn : vietlyso.com

htruongdinh
05-10-10, 20:40
Thông tin : người này không theo con đường nghệ thuật mà theo đường giáo dục và kinh doanh thêm bên ngoài. Trong cơ quan nơi làm việc, hắn cũng là trưởng 1 bộ phận. Ngoài ra cũng tự lập công ty riêng để làm. Sau đó thì chuyển nhượng và đi làm tiến sĩ ở nước ngoài. Năm sau sẽ về nước. Hắn đã lấy vợ năm 27 tuổi, hai vợ chồng bằng tuổi nhau, nhưng có vẻ không được ổn lắm.

phươngmai06
10-10-10, 16:42
Con gái PM tuổi Canh hiện đang ở đại vận cung sửu có âm dương quang quí . Nhưng PM theo dõi thì có hilẽ đi với Kỵ thì nhiều hơn là Khoa vì theo PM nhận định thì “
- Nếu đi với Khoa thì học hành có lẽ phải là ưu tiên hang đầu của nó trong đại vận này. Nhưng theo nhận định của PM nó cũng chả chăm chỉ chuyên cần gì lắm tuy vẫn đang học lớp chất lượng cao của trường FTU đấy.
- Theo bác vuivui có lần xem nếu đi với kỵ thì chị em gái có chuyện không hay , nhưng xem lá số cô chị thì bác ấy khẳng định âm đi với khoa . Tuy có một chi tiết lá chị gái cháu bị mất ngay khi chào đời . Chị cháu tuy là người có kiến thức rất rộng , nhanh nhẹn nhưng có lẽ không gặp may trong việc thi cử , ví dụ như đi thi đại học năm đầu thi được đúng một môn rất tốt rồi bị sốt dịch nên 2 môn sau gọi là chỉ cố có mặt cho đủ bài chứ không thể thi được . Vậy là phải thi lại năm sau và đỗ á khoa . thế nhưng đến ngày bảo vệ tốt nghiệp vẫn truc trặc do nhầm lịch ngày duyệt đề tài gì đó vậy là phải bảo lưu chậm lại
- Ngay khi bắt đầu đại vận , cháu vường ngay vào thị phi một chuyện không đâu do thầy chủ nhiệm hiểu lầm nên có thái độ trù dập nên bố mẹ buộc phải chuyển trường cho cháu từ một trường điểm lớp chọn sang một trường kém hơn ,lớp thường . PM đã lo ngay ngáy suốt 3 năm học phổ thông của cháu sợ cháu bị sốc không vào được đại học .
- Từ khi vào đại vận này cháu học kém hơn so với đại vận trước , đại vận trước cháu hay đi có giải trong thi cử hơn, mà toàn những giải bố mẹ và thầy cô không bao giờ ngờ đến vì con bé này vốn học cũng khá nhưng chưa bao giờ lọt vào tầm ngắm của thầy cô vì nó không thể hiện ý chí học tập rõ rệt như các bạn khác trong cái tập thể trường chuyên lớp chọn của nó , chắc gặp may do có phi hổ tại mệnh thôi.
- Tính tình từ khi vào đại vận này nói năng với bố mẹ khó nghe hơn, nhiều lúc PM cứ phải gắt lên : con không thể nói năng cho nhẹ nhàng hơn à ? trước kia nó không vậy, PM cư nghĩ không hiểu do sự biến đổi của lứa tuổi teen hay do ảnh hưởng của hoá kỵ nên như vậy. Chứ hồi nhỏ nhiều người cứ hay trêu để nghe giọng nó nói dễ thương lắm
http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/0/204531121990/1/PN.jpg

PM link thêm lá số cô chị để chị htruongdinh tham khảo
http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/0/181506101985/1/VM.jpg

vuivui
10-10-10, 17:26
Cuộc tranh luận âm đồng khoa kỵ hay là âm đồng kỵ khoa liên miên bất tuyệt không có hồi kết. Về cơ bản do những nguyên nhân chính sau đây:
-Luận số, việc xác định đương số ứng với sao nào, cách cục nào là không đồng nhất. Khi luận mệnh, chẳng hạn, người giải số thường cảm tính, cho rằng đương số ăn vào sao này mà không ăn vào sao kia. Sự xác định này thực tế đã đưa luận giải có tính định hướng. Để khắc phục, người ta đã sử dụng các lý thuyết nhằm "sự ăn sao" có tính khách quan hơn. Như sao thủ mệnh đồng hành với hành của bản mệnh được xem như là mệnh người có số ăn vào sao đó. Như sử dụng ngũ hành hình tướng để xác định ăn sao nào. Như dùng thế đứng của cách cục để định ra "đường đi" của một lá số. Như dùng sao Treo. ... Mỗi phương pháp khác nhau, sẽ đưa người giải số đi tới những kết luận mang tính định hướng, thiên vị. Tức là, những luận giải có liên quan đến tuổi canh liên hệ tới âm đồng hóa ra sao tất sẽ bị thiên vị sâu xa rồi.
-Nghiệm lý một cách hình thức. Đó là vì, khi xác định biến cố, chúng ta thấy có hình thái giống như dự đoán liền cho rằng đã chính xác. Nhưng thực về bản chất thì chưa chắc đã đúng như vậy. Như nói đến Khoa, thường thì chỉ nghĩ đến khoa là danh vọng, hanh thông. Khi có một biến cố được xác định là tạo danh, hay công việc được hanh thông. Người giải số đã tự thỏa mãn cho rằng đã ứng mà không xét kỹ càng thêm. Chưa nói đến chuyện, khi đó chính tinh hóa khoa đó có ứng hay không, hay là biến cố đó được tạo danh hoặc hanh thông là do cụm sao khác.
Chẳng hạn có thể thấy, nếu âm hóa khoa thì khi luận đoán gặp biến cố thì cứ hay cho rằng phải có khoa bảng này nọ, có danh tiếng mới được. Nếu không thấy có lập tức nghi ngờ ngay, cho rằng âm hóa kỵ đây. Không phải, thứ nhất phải xem người đó có thwujc ăn vào thái âm hay không cái đã. Khi xác định đúng là ăn vào thái âm thì việc hóa khoa sẽ gắn với sự thông minh, ham hiểu biết, đầu óc sáng láng. Thường khi đó, nếu thấy có khoa bảng là người giải đoán cứ yên trí đó là âm hóa khoa. Cũng chưa hẳn vậy. Bởi vì âm hóa khoa là cái gốc của khoa bảng, danh vọng. Nhưng nếu không có Cát tinh trợ lực thì làm sao có thể khoa bảng, danh tiếng được. Hoặc giả, nếu bị Đà ám chiếu hoặc xâm phạm thì chỉ là người thông minh, nhưng rất khó có khoa bảng, hiểu biết nhiều mà không có đất dụng võ. Biện chứng là ở chỗ đó. Vì thế, nếu nghiệm lý hình thức thì không thể quyết đoán được âm khoa đồng kỵ hay ngược lại được.
-Hóa là biến hóa. Vì vậy giải đoán có liên quan đến Hóa, tất phải xem xét dưới dạng biện chứng dịch lý, chứ không thể xem hiện tượng mà nói được. Đừng thấy kẻ có số nghiện ngập, ăn nói thiếu minh bạch mà mệnh có âm hóa thì buộc âm phải hóa kỵ. Vì khi đó, chỉ cần âm hội hỏa tinh mà âm là hãm địa thì dù âm có hóa khoa đi chăng nữa cũng vẫn nghiện như thường, khi ấy cần phải xét cái nghiện bản chất, chứ không xét hình thức. Chẳng hạn đó là người nghiện có thú tao nhã, như nghiện rượu ra thơ của Lý Bạch, hay mắc bệnh lao hoặc ung bướu thần kinh xung động như bị kinh phong, nhưng thần thơ, tính chất nghệ sỹ thoát tục kiểu Hàn mặc tử chẳng hạn. Chi khi xem xét tới tận gốc của thông tin được giải mới có thể phân định được.
Sơ lược vài điểm như vậy. Chứ viết về vấn đề này cho trọn ý thôi cũng dài lắm. Không nên kết luận vội vã, hoặc cứ tự cho rằng minh đã nghiệm lý rồi thì cho đó là đúng.
Cần phải, Đúng chỉ khi nghiệm lý đúng, nghĩa là biết cách nghiệm lý. Cần phải, Đúng, khi có lý luận đúng đắn dẫn đường và dám mạnh dạn đặt ra những định đề chống lại chính bản thân mình. Cần phải xem xét vấn đề được khảo sát công tâm như một viên quan tòa. Mỗi kết luận của quan tòa là cái giá phải trả của một cuộc đời.
Thân ái.

htruongdinh
10-10-10, 22:01
Tuổi Canh : Thiên Đồng Thái Âm Hóa Khoa hay hóa Kỵ là chuyện dài tranh cãi của những người xem tử vi. HTD cũng chỉ đưa ra nghiệm chứng từ bài luận giải một lá số ở vietlyso . Trường hợp con gái nhỏ của chị phuongmai thì đại hạn 15-24 hội tụ nhiều sát tinh và cũng là thời gian của tuổi teen bướng bỉnh nên khó xác định Thái Âm hóa Khoa hay hóa Kỵ.

phươngmai06
12-10-10, 12:34
Những trường hợp khoa kỵ không năm trong tam giác mệnh tài quan có lẽ còn dễ xác định hơn, Nếu xét về tập đoàn sát tinh dang ở bên ngoài đại vận của con gái PM thì nhiều lúc PM nghĩ chắc chắn phải có khoa tại đó , vì trộm vía tới giờ PM thấy mọi việc với cháu vẫn xuôn xẻ . Nhưng vẫn lo cho những đại vận tới vì PM nhớ lời bác vuivui nói , đại ý : " đại vận này còn trong sự che chở của bố mẹ, đại vận tới sẽ bước vào một cuộc trường chinh cam go nhưng sẽ thành công "

vuivui
16-10-10, 22:34
Xưa nay tôi vẫn xác định tứ hóa theo Vân Đằng Thái Thứ Lang, cho nên tuổi Canh, Nhật Vũ Âm Đồng tương ứng với Lộc Quyên Khoa Kỵ. Sự phân biệt Nhật Vũ Âm Đồng hay là Nhật Vũ Đồng Âm sẽ trở nên dễ dàng hơn khi nghiệm lý, nếu như ta biết cách giải đoán theo lưu tứ hóa. Đấy là nói lý thuyết thì như thế. Nhưng thực tế bên cạnh phải xác định có đúng là người giải đoán biết cách dùng lưu tứ hóa hay không, còn có sự tham gia của các cung khác nữa. Như giải đoán niên hạn, có ít nhất ba cung theo truyền thống là lưu niên đại hạn mà ta có thể xem đó là mệnh trong hạn - phép lưu cung. Lưu thái tuế - hình như có người gọi là phép thái tuế nhập quái. Lưu niên tiểu hạn. Hiện nay đa phần, hoặc dùng một cung là trọng, có nơi dùng hai cung, chứ dùng đến ba cung thì đã khó lắm rồi. Huống hồ lại còn hệ thống sao lưu, theo truyền thống thì có 9 sao lưu từ Thái tuế, Lộc tồn, Kình, Đà, Mã, Khốc, Hư, Tang, Hổ. Sao nào cũng mạnh mẽ. Sự đóng góp của chúng vào hạn thật không thể lường hết được. Thành thử, với những cấp bậc chưa sử dụng nổi ba cung trong đoán hạn, bàn đến nghiệm lý chỉ làm trò cười cho thiên hạ mà thôi.
Tôi, trong thực tế luận đoán, cả ba cung đều quan trọng như nhau. Bỏ qua bất cứ cung nào, đều đưa sự giải đoán vào gượng ép và võ đoán. Không thể thấy được những mắc mớ, cắc cớ bên trong của sự kiện. Nhưng trong bài toán can Canh an tứ Hóa, nếu chỉ dừng ở mức giải đoán đồng thời trên ba cung của niên hạn, cũng vô cùng khó khăn trong việc nghiệm lý can Canh. Nhưng mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản, trực giác khi mà chúng ta biết được khi nhập niên hạn, sao nào phát động, sao nào rung, hay cách cục nào rung. Chẳng hạn như nếu đồng âm tại tý hoặc hợi. khi đồng âm cùng nhập hạn, thì ta sẽ thấy, đồng âm hay âm đồng cũng sẽ không phân biệt, cho dù chúng ta có sử dụng triệt để cả ba cung đoán hạn, bởi khi ấy, âm hóa khoa, đồng hóa kỵ và đồng hóa khoa âm hóa kỵ sẽ vẫn như nhau khi âm đồng đồng cung. xem xét cách cục để giải đoán, cúng ta vẫn nhìn thấy âm đồng khoa kỵ đồng thời. Ngay cả thế âm đồng xung chiếu cũng dưa chúng ta những khó khăn về phân biệt trong giải đoán. Song khi xác định được sao Rung, nhập niên hạn, sao Rung sẽ đi với âm hay đồng mà thành cách, hoặc chính âm hay đồng là sao Rung. Khi ấy, âm hóa khoa hay đồng hóa khoa rất dễ phân biệt.
Lập tức sẽ có câu hỏi, vật thì giả sử âm là sao rung, khi ấy thiên đồng không phải là sao rung, chúng ta sẽ sử lý nó như thế nào ?. Hay là "bỏ quên nó" ?. Đến đây lại thuộc về phương pháp giải đoán cao cấp hơn nữa. Vì thế, giải đoán tử vi, nếu không nắm được tối đã các phương pháp giải đoán mà lại cứ muốn nghiệm lý này nọ, phê phán lý thuyết này lý thuyết nó, thì chẳng khác gì dùng Gậy khoắng hồ nước rồi phán thể tích, dung lượng chứa của hồ nước, hay phán về nông sâu, sạch bẩn, ... của nước trong hồ vậy.
Cho nên, cái đáng phê phán. Không phải là biết hay không biết tối đa phương pháp giải đoán, mà là việc người ta khi chưa nắm vứng các phương pháp giải đoán, ngay chỉ một phương pháp giải đoán như lưu tứ hóa, mà tôi tin thậm chí ngay các tác giả Đài loan cũng chưa nắm vững. Thử hỏi, lấy cơ sở nào mà nghiệm lý ?. Đài loan đã vậy, VN, hỏi có mấy ai ?.
Thân ái.

htruongdinh
17-10-10, 10:46
Tuổi Canh thì được Tam Hóa Liên Châu. Nghiệm lý các lá số tuổi Canh mà Đồng hóa khoa, Âm hóa Kỵ thì đều đắc cách Tam hóa liên châu.

Theo như một người kể lại :


Trong "tử vi đẩu số" của cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang xuất bản năm xưa , xảy ra cái sơ xuất nói rằng hóa kị tuổi canh an theo Thiên Đồng là do những người làm bên in ấn thời bấy giờ , sau khi những bản in hoàn tất , cụ VĐTTL mới phát hiện ra , và cảm thấy rất áy náy về điều này . Vì vậy đã in thêm 1 tờ đính chính về sai sót này và kẹp vào trang cuối của từng quyển sách, nhưng cuối cùng lại một lần nữa do sự tắc trách của những ng bên chế bản, mà có những quyển đc kẹp đến 2 tờ , trong khi có những quyển lại chẳng có tờ nào , vì vậy âu cũng là cơ duyên đối với huyền học của mỗi người khác nhau vậy.

Nguồn : tuvilyso.net

htruongdinh
17-10-10, 10:52
Ở diễn đàn tuvilyso.net, bác VDTT đã trở lại và đưa cho mọi người cách ứng dụng Thái Tuế nhập quái ở Đài Loan:

Ông Trần Thế Hưng (Đài Loan) thuộc thế hệ 5x, là lớp nổi lên sau ông Tử Vân (Đài Loan). Theo lời tự thuật thì ông bắt đầu với khoa Tử Bình, từng theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian và có qua lại với Liễu Vô cư sĩ, nhưng sau nhờ một thầy khác mới được “mở hai mạch nhâm đốc”, mạnh dạn vừa làm thầy xem Tử Vi vừa viết sách Tử Vi dương danh thiên hạ. Các sách của ông Hưng nhắm vào những lá số người thật có cùng nét đặc biệt như “Vi hà bất hôn thiên” (vì sao không lập gia đình), “hôn ngoại tình thiên” (những kẻ ngoại tình). Bài sau đây được chọn vì có xử dụng cả hai kỹ thuật sau:

-Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.

-Phép “Thái Tuế nhập quái” : Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.

Định nghĩa vài thuật ngữ:
Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…

Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.

Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.

Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng :

Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.

Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.

Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão

http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/0/053026031955/1/Duong.jpg

Nguồn : tuvilyso.net

htruongdinh
17-10-10, 10:55
http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/0/053026031955/1/Duong.jpg

Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.

Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.

Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.

Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.

Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.

Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.

Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?

1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.

2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.

Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?

“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.

Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.

Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.

Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.

Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.

Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.

Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.

htruongdinh
17-10-10, 11:04
Giải thích các đại vận

Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.

Mậu Dần (16 đến 25 tuổi):Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).

Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?

Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.

Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!

Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.

Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.

Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.

Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.

Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.

Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.
Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.

Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.

Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.

Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.

Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!

Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.

Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.

Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.

Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).

Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?

Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.

Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.

htruongdinh
17-10-10, 11:06
Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi):

Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).

Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.

Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.

Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.

Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.

Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.

Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.

Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.

Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.

Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.

Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.

Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?
Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?

Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.

Các hạn về sau:

Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.

Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).

Lời kết:

Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:

Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.

Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.

Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.

Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.

Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.

Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.

Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.

Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.

Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.


Nguồn : tuvilyso.net

vuivui
17-10-10, 13:27
Tuổi Canh thì được Tam Hóa Liên Châu. Nghiệm lý các lá số tuổi Canh mà Đồng hóa khoa, Âm hóa Kỵ thì đều đắc cách Tam hóa liên châu.

Theo như một người kể lại :


Trong "tử vi đẩu số" của cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang xuất bản năm xưa , xảy ra cái sơ xuất nói rằng hóa kị tuổi canh an theo Thiên Đồng là do những người làm bên in ấn thời bấy giờ , sau khi những bản in hoàn tất , cụ VĐTTL mới phát hiện ra , và cảm thấy rất áy náy về điều này . Vì vậy đã in thêm 1 tờ đính chính về sai sót này và kẹp vào trang cuối của từng quyển sách, nhưng cuối cùng lại một lần nữa do sự tắc trách của những ng bên chế bản, mà có những quyển đc kẹp đến 2 tờ , trong khi có những quyển lại chẳng có tờ nào , vì vậy âu cũng là cơ duyên đối với huyền học của mỗi người khác nhau vậy.

Nguồn : tuvilyso.net
Lời giải thích này xem ra rất hợp lý về mặt thường lý :0401:. Cũng vẫn rất thường lý, có thể có một lời phản biện lời giải thích trên. Có thể trình bày như sau: Nếu đúng là VDTTL có sai sót, khi phát hiện ra, thay vi in thêm tờ đính chính, việc sửa bản in không khó và in lại chính trang đã có sai sót đó. Nếu như việc in ấn và đóng sách đã hoàn tất, nhưng chưa đưa ra thị trường, ngoài việc in thêm bản đính chính, người ta vẫn phải có những đính chính hay lưu ý trên phương diện khác. Bởi sách in vào 1956 hoặc muộn nhất cũng vào năm 1957. Lý do vì VDTTL viết lời nói đầu hoàn tất sách vào năm Bính Thân. Trong khi chế độ miền nam thọ tới năm 1975. Đồng thời trên bản in thêm đã đính chính, thế tất phải có những dấu hiệu đã được đính chính bởi chính tác giả, để tránh tam sao thất bản, làm dối. Vì vậy, cho dù sách có sai thì vẫn có những văn bản hợp pháp để đối chứng, xác thực việc đã có sửa chữa. Đến khi việc tranh luận đồng âm hay âm đồng xảy ra trong giới lý số, thế tất cái bản in và những biện pháp thông báo việc sửa chữa đó phải được công bố chứng minh người thực việc thực, chứ không phải là chứng minh theo kiểu kể lại. Ngay bản in mà không có xác chứng của chính tác giả, thì cái bản in thêm đó cũng khó có thể tin tưởng.
Ngày nay, nếu thực sự có việc đó thì cái việc công bố bản in thêm có sự chứng thực của chính tác giả trên mạng truyền thông, hơn ai hết, chính công ty sách DAINAMCO phải làm cái việc này.
Nhưng chúng ta đã thấy. Chỉ có lời kể không hà !.
Hay là vì ... vạn lý do, chung quy chẳng coi cái sự này ra cái gì nên chẳng ai quan tâm, chẳng có ai có trách nhiệm làm cái việc minh định đó. Thế là cái áy náy của VDTTL trở nên vô duyên chăng ?.
Đấy là nói thường lý. Mà ở đời, chả ai dùng cái thường lý rất ư là tắc trách đó để biện minh cho một vấn đề thuộc về kiến thức. Đó chỉ là chuyện của kẻ CHỢ mà thôi. Muốn kiểm định kiến thức, phải dùng chính kiến thức minh định. Đó là điều bắt buộc như về nguyên tắc. Bất di bất dịch.
Thân ái.

vuivui
17-10-10, 13:31
Nếu như có điều kiện, chúng ta sẽ kiểm chứng bằng thực tiến trên vài lá số người thực việc thực.
Xin lưu ý. Không nên dùng lá số danh nhân, người nổi tiếng đã chết, hoặc chúng ta chỉ biết qua các phương tiện truyền thông. Bởi những thông tin đó đa phần bị méo mó không mấy đáng tin khi đi tìm sự cụ thể, chi tiết để biết bản chất của sự việc. Nên dùng, ví dụ, nếu là cha mẹ thì dùng lá số của con cái mình, hoặc dùng chính lá số của mình thì đáng tin cậy và dễ xác quyết hơn.
Thân ái.

vuivui
17-10-10, 14:38
Nay chúng ta thảo luận mấy bài htruongdinh post từ TVLS sang đây, tác giả là một tử vi gia nổi danh của xứ Đài, Trần Thế Hưng. Do ông VDTT dịch và loan tải bằng tiếng Việt.
Trước hết, chúng ta hãy xem xét cách xác định vận của ông TTH. Ông ta xác định như sau:
Vận Kỷ Sửu (6-15). Vận Mậu Dần (16-25). Vận Kỷ Mão (26-35). Vận Canh Thìn (36-45) sau đó viết thêm Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quí Mùi. Ý hẳn là vận Tân Tị (46-55). Vận Nhâm Ngọ (56-65). Vận Quí Mùi (66-75).
Khoan nói đến cách tính vận có đúng hay không. Mà nói đến chuyện ông ta có tính đúng hay không cái đã. Đại vận đầu tiên ông ta xác định là Kỷ Sửu, tiếp theo là Mậu Dần, theo nữa lại là Kỳ Mão. Từ đó đi tiếp đến Canh, Tân, Nhâm, Quí. Có lý do gì để ông ta xác định Can của vận hết ngược lại xuôi. Từ Kỷ Sửu đến Mậu Dần là ngược về Thiên can, thuận về Địa chi, nhưng tiếp theo từ Mậu, Kỷ, Canh ... đều thuận về thiên can, địa chi cũng thuận. Vậy thì vận Kỷ Sửu, phải chăng ông ta tính sai. Đáng lẽ ra vận 6-15 phải là Đinh Sửu, chứ không phải là Kỷ Sửu.
Nhưng nếu bảo đó là do sơ xuất thì không hợp lý, mà rõ ràng là ông ta đã xác định như vậy. Cho nên, Kỷ mới có Tứ hóa là Vũ hóa Lộc, Tham hóa Quyền, Lương hóa Khoa, và Khúc hóa Kỵ đúng như ông ta đã sử dụng để giải đoán. Trong khi đó, nếu là Đinh thì tứ hóa phải là Nguyệt Đồng Cơ Cự. Khi ấy, giải đoán sẽ hoàn toàn khác, chứ đâu có dùng theo kiểu:
Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.


Bằng chứng này minh xác ông ta đã bói dựa, cố gọt chân cho vừa giày. Nhưng phương pháp giải đoán là cố định. Xem xét các giải đoán vận sau, chúng ta vẫn thấy ông ta không thay đổi phương pháp luận giải. Có nghĩa là phương pháp ấn định. Vậy thì khi có một mắt xích sai lạc, chúng ta hoàn toàn có thể nghi ngờ về chính phương pháp giải đoán của ông ta. Cho dù, phương pháp lưu tứ hóa và thái tuê nhập quái là tồn tại. Nhưng kỹ thuật sử dụng phương pháp của ông ta rõ ràng là không đúng.
Thân ái.

htruongdinh
17-10-10, 17:52
Tuổi Canh thì được Tam Hóa Liên Châu. Nghiệm lý các lá số tuổi Canh mà Đồng hóa khoa, Âm hóa Kỵ thì đều đắc cách Tam hóa liên châu.

Theo như một người kể lại :


Trong "tử vi đẩu số" của cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang xuất bản năm xưa , xảy ra cái sơ xuất nói rằng hóa kị tuổi canh an theo Thiên Đồng là do những người làm bên in ấn thời bấy giờ , sau khi những bản in hoàn tất , cụ VĐTTL mới phát hiện ra , và cảm thấy rất áy náy về điều này . Vì vậy đã in thêm 1 tờ đính chính về sai sót này và kẹp vào trang cuối của từng quyển sách, nhưng cuối cùng lại một lần nữa do sự tắc trách của những ng bên chế bản, mà có những quyển đc kẹp đến 2 tờ , trong khi có những quyển lại chẳng có tờ nào , vì vậy âu cũng là cơ duyên đối với huyền học của mỗi người khác nhau vậy.


Câu chuyện do một người ẩn danh kể lại, HTD copy từ tuvilyso.net sang huyenkhonglyso.com .



Lời giải thích này xem ra rất hợp lý về mặt thường lý :0401:. Cũng vẫn rất thường lý, có thể có một lời phản biện lời giải thích trên. Có thể trình bày như sau: Nếu đúng là VDTTL có sai sót, khi phát hiện ra, thay vi in thêm tờ đính chính, việc sửa bản in không khó và in lại chính trang đã có sai sót đó. Nếu như việc in ấn và đóng sách đã hoàn tất, nhưng chưa đưa ra thị trường, ngoài việc in thêm bản đính chính, người ta vẫn phải có những đính chính hay lưu ý trên phương diện khác. Bởi sách in vào 1956 hoặc muộn nhất cũng vào năm 1957. Lý do vì VDTTL viết lời nói đầu hoàn tất sách vào năm Bính Thân. Trong khi chế độ miền nam thọ tới năm 1975. Đồng thời trên bản in thêm đã đính chính, thế tất phải có những dấu hiệu đã được đính chính bởi chính tác giả, để tránh tam sao thất bản, làm dối. Vì vậy, cho dù sách có sai thì vẫn có những văn bản hợp pháp để đối chứng, xác thực việc đã có sửa chữa.

Vân Đằng Thái Thứ Lang là một nhân vật đặc biệt, không ai biết rõ thân thế và mặt mũi của ông. Ông chỉ xuất hiện một lần duy nhất khi đưa xuất bản Tử Vi đẩu số toàn thư rồi sau đó biến mất. Tất cả sách in lại sau này đều căn cứ bản in năm 1956.

htruongdinh
17-10-10, 17:57
Diễn đàn tuvilyso.net là nơi ngọa hổ tàng long. Có rất nhiều người tài giỏi, nhưng đa phần họ ẩn danh, chỉ xuất hiện vài lần nhưng những điều của họ viết rất bổ ích. Còn những người huyênh hoang, hay khoác lác thì kiến thức chẳng là bao. Vì vậy, vuivui không chịu nổi nên bỏ đi.

Trong tuvilyso.net , có nhiều cuộc cọ xát và quả thật nhiều bài viết bổ ích. Kiến thức tử vi của HTD tăng lên nhờ tuvilyso.net .

htruongdinh
17-10-10, 18:04
MỆNH CUNG có Địa chi và Thiên Can , xưa nay chúng ta thường sử dụng Địa chi để luận đoán mà nhiều khi quên mất Tính cách của Thiên can . Nay xin phụ bổ 1 ít Tính chất của Thiên Can của Mệnh cung ( MC ) .
Như vậy , chỉ cần biết MC Thiên can của 1 người là ta có thể đoán sơ được vài Cá tình căn bản của họ mà chưa cần phải nhìn vào lá số .

Làm thế nào để biết Mệnh cung Thiên can là gì ?

Dùng Lịch của Năm sinh mà truy , ví dụ sinh năm 1980 , Mệnh cung tại THÌN thì Mệnh Can ( Mệnh cung Thiên Can ) là CANH .
Can Chi của Mệnh cung như vậy là Canh Thìn , Canh Thìn có Nạp Âm là KIM , và Kim ở đây chính là CỤC số .
Nếu không thì dùng Ngủ Hồ độn :

GIÁP KỶ chi niên BÍNH tác đầu .( BÍNH là Thiên can Tháng Giêng )
ẤT CANH = MẬU ( Mậu là Thiên can của Tháng Giêng , từ đó suy ra những tháng tiếp theo )
BÍNH TÂN = CANH
ĐINH NHÂM = NHÂM
MẬU QUÝ = GIÁP .

Mệnh Can còn có những đặc tính sau :

MỆNH CUNG là GIÁP =

Là người có cá tính độc lập , độc lai độc vãng , không thích ai bao che cho mình , giúp ai thì giúp nhưng cũng không muốn vướng bận .

ÂT =

Thường được phái nữ chung quanh bao che và ủng hộ , nhưng vẫn thích tính cách độc lập , cuộc sống thường dễ chịu , có thể khắc Mẹ/ Vợ .

BÍNH =

Đàn ông thường được Mẹ/ Vợ / Tình nhân / bạn bè nữ giới / nữ chủ nhân giúp đỡ .Nhưng dễ bị hiềm khích .

ĐINH =

Có tính cách độc lập , dám làm dám chịu , không sộ hậu quả cũng như hậu hối .

MẬU =

Giúp đỡ, che chở cho người thì nhiều , mà thọ lãnh sự giúp đỡ của người thì ít ,hay nể/sợ đàn bà , cá tính ổn trọng thâm trầm , nhiều cao vọng .

KỶ =

Cũng thường bao che người khác , người khác thường làm hao phí tiền bạc của mình .hoặc dễ bị lường quịt tiền bạc .

CANH =

Thích tư thế độc lập , giúp người mà không mong người giúp .

TÂN =

Thích thể diện , trọng tình cảm , có tâm hồn nghệ thuật .

NHÂM =

Tính cách độc lập và tự phụ rất cao , nắm được Thiên thời nên dễ chiếm tiện nghi .

QUÝ =

Dễ bị hao tổn , thích biến động , bỡi Quý là Can duy nhất không muốn dựa vào thế lực của Thiên / Địa / Nhân mà chỉ trông mong vào sư nổ lực của chính mình , cho nên ưa thích những ngành nghề tự do , khởi phục cao độ .

***TAM TÀI phối với MC THIÊN CAN :

Các Lý Thuyết về TAM TÀI lâu nay bị bưng bít , 1 vài Trưởng lão thủ đắc được chiêu Tam Tài cứ lâu lâu đem ra HÙ 1 tiếng làm bọn Hậu bối giựt mình , chơi như vậy là không công bằng , nên hôm nay tui xin được công bố , vì thế Quý vị không nên xem thường Chiêu này , nếu không có chỗ dùng tại sao người ta lại dấu kỹ như vậy ???

GIÁP ẤT BÍNH = Thiên .

ĐINH MẬU KỶ = Địa

CANH TÂN NHÂM = Nhân .

Thiên Địa Nhân

QUÝ là chỗ Vị trí không dựa vào thế lực của THIÊN / ĐỊA / NHÂN ( TAM TÀI ).

Ví dụ muốn biết GIÁP là gì , ta thấy theo chiều NGANG thì GIÁP = Thiên .
Từ chữ GIÁP nhìn theo chiều DỌC xuống dưới cùng ta thấy chữ Thiên .
Như vậy GIÁP = Thiên chi Thiên .

KỶ , theo chiều Ngang = Địa / theo chiều Dọc = Nhân .
Vậy KỶ = Địa chi Nhân .

THIÊN = Thiên thời
ĐỊA = Địa lợi
NHÂN = Nhân hòa

Cứ dựa theo ý của 3 chữ trên mà diễn đạt .

HÀNG NGANG LÀ CẤP SỐ .
HÀNG DỌC LÀ BẢN VỊ

* HÀNG DỌC = BẢN VI :


1/ GIÁP ĐINH CANH = THIÊN THỜI

2/ ẤT MẬU TÂN = ĐỊA LỢI

3/ BÍNH KỶ NHÂM = NHÂN HÒA


GIÁP ĐINH CANH nắm được THIÊN THỜI vì có BẢN VỊ là chữ THIÊN .

ẤT MẬU TÂN nắm được ĐỊA LỢI vì BẢN VỊ là chữ ĐỊA .

BÍNH KỶ NHÂM nắm được NHÂN HÒA vì BẢN VI là chữ NHÂN .


* HÀNG NGANG = CẤP SỐ .

Chữ THIÊN/ ĐỊA / NHÂN theo hàng NGANG có thể hiểu là THƯỢNG / TRUNG / HẠ , VÌ ĐỂ CHỈ CẤP SỐ .

*** ĐIỂM CHÍNH YẾU LÀ HÀNG DỌC / HÀNG NGANG CHỈ LÀ CẤP SỐ .



Như chữ ĐINH , Bản vị là THIÊN cho nên nắm được THIÊN THỜI , và có Cấp số là ĐỊA ( TRUNG ) Nên gọi là ĐỊA chi THIÊN = Có được Thiên thời , nhưng chỉ ở mức TRUNG ĐẲNG . Chưa phải là Cao nhất vì cao nhất là Thiên chi Thiên .

Như chữ TÂN = ĐỊA LỢI ,
Nhưng Địa lợi ở CẤP ĐỘ nào thì xem HÀNG NGANG = NHÂN ( HẠ ĐẲNG ).


Ví dụ MC TC có NHÂM = Nhân ,
Có nghĩa là người này nắm được , sở hữu được tính Nhân hòa , tức là được lòng người chung quanh ( Bà con, hàng xóm .. tuy rằng ở Mức độ không cao vì chỉ có Cấp số là NHÂN ( HẠ đẳng ).

Nếu QUAN có chữ NHÂM = Được cấp trên đề bạt / đồng nghiệp giúp đỡ ..v.v

TÀI có chữ NHÂM = Tiền bạc làm ra là nhờ yếu tố nhân sự, nhân hòa , chẳng hạn như mở Quán Phở , tài nghệ nấu nướng thì dưới trung bình ,quán lại ở trong hẻm nhưng vẫn sống được vì cả xóm đa số đều ủng hộ.

Như vậy khi MC TC = NHÂM , tức đương sự nắm được yếu tồ Nhân hòa .

NHÂN chi THIÊN = Nắm được THIÊN THỜI , nhưng ở Mức THẤP NHẤT ( chữ NHÂN ) .

TAM TÀI ỨNG DỤNG TRONG ĐẠI/ TIỂU HẠN :

Ví dụ :

LƯU ĐẠI HẠN QUAN có TC = ĐINH , Tức L.QUAN được hưởng Thiên thời , nhưng nếu Tiểu Hạn là các năm NHÂM / QUÝ thì Thủy sẽ khắc Hỏa của ĐINH làm cho GIẢM / hoặc MẤT Thiên thời .

Như LƯU ĐẠI HẠN TÀI có TC = ẤT , tức L.TÀI hưởng được Địa lợi , nếu Tiểu hạn là năm TÂN , Kim khắc Mộc ,làm giảm mất phần Địa lợi trong Cung Tài .

Cũng vậy , Tiểu Hạn tại Cung Dần có chữ BÍNH , tức được Nhân Hòa , nhưng nếu đó là năm 1992 = Nhâm Thân , thì Nhâm sẽ khắc Bính làm mất đi lợi thế Nhân hòa . ( Phải an Thiên Can theo Năm sinh, bắt đầu từ Cung Dần chạy Thuận vòng cho đến cung Sửu )

Ngược lại , những năm nào SINH cho Tam Tài thì Tốt , cứ theo lý Ngũ Hành sinh khắc mà suy .

NGUỒN GỐC CỦA TAM TÀI :

THIÊN Khai tại TÝ
ĐỊA Khai tại SỬU
NHÂN Khai tại DẦN

Tý Sửu Dần 3 Cung là nơi khai thủy của Tam Tài , Tử vi là môn nghiên cứu về Nhân sự , mà Dần là cung khởi thủy của Nhân , do đó lấy Dần làm Chính cung để định Thân/ Mệnh .

CHỖ SỞ CƯ CỦA TAM TÀI :

THIÊN cư tại TÝ NGỌ MÃO DẬU = ứng với Thượng Hào .
NHÂN cư tại DẦN THÂN TỴ HỢI = Ứng với Trung Hào .
ĐỊA cư tại THÌN TUẤT SỬU MÙI = Ứng với Hạ Hào

Do vậy , cứ theo Đia chi mà nói thì nói thì cứ mỗi TAM HỢP đều có đủ Tam Tài .

ỨNG DỤNG CỦA TAM TÀI :

MC Tam Tài dùng xem xét số phận 1 người được hưởng Thiên thời / Địa lợi / Nhân hòa như thế nào , cao thấp ra sao , nhằm giúp quyết đoán Cách cục của 1 lá số .

Tại Vận trình ( Đại / Tiểu Hạn ) Tam Tài dùng để xem xét Thời Thế như thế nào , có nên lộ mặt ra ( làm ăn , hoạt động ..) hay không hay nên ẩn nhẫn , nên làm gì trong Đại/ Tiểu Hạn này , mức độ thành công cao thấp như thế nào .v.v

Tác giả : ma y cung
Nguồn : tuvilyso.net

htruongdinh
17-10-10, 18:16
Khoan nói đến cách tính vận có đúng hay không. Mà nói đến chuyện ông ta có tính đúng hay không cái đã. Đại vận đầu tiên ông ta xác định là Kỷ Sửu, tiếp theo là Mậu Dần, theo nữa lại là Kỳ Mão. Từ đó đi tiếp đến Canh, Tân, Nhâm, Quí. Có lý do gì để ông ta xác định Can của vận hết ngược lại xuôi. Từ Kỷ Sửu đến Mậu Dần là ngược về Thiên can, thuận về Địa chi, nhưng tiếp theo từ Mậu, Kỷ, Canh ... đều thuận về thiên can, địa chi cũng thuận. Vậy thì vận Kỷ Sửu, phải chăng ông ta tính sai. Đáng lẽ ra vận 6-15 phải là Đinh Sửu, chứ không phải là Kỷ Sửu.

Mười hai cung nhưng chỉ có mười thiên can. Vì vậy, sẽ có những cung trùng thiên can.
Trường hợp cô Dương : Tuổi Ất Mùi nên tháng 1 là Mậu Dần. Tháng 2 là Kỷ Mão. Tiếp tục đến tháng 10 là Đinh Hợi. Tháng 11 là Mậu Tý. Tháng 12 là Kỷ Sửu. Cô Dương mệnh tại Sửu. Vậy mệnh cung thiên can của cô Dương là Kỷ Sửu. Cô Dương là Âm nữ nên đại vận theo chiều thuận, đại vận 1 là Kỷ Sửu, đại vận 2 là Mậu Dần, đại vận 3 là Kỷ Mão,...

vuivui
17-10-10, 19:48
Mười hai cung nhưng chỉ có mười thiên can. Vì vậy, sẽ có những cung trùng thiên can.
Trường hợp cô Dương : Tuổi Ất Mùi nên tháng 1 là Mậu Dần. Tháng 2 là Kỷ Mão. Tiếp tục đến tháng 10 là Đinh Hợi. Tháng 11 là Mậu Tý. Tháng 12 là Kỷ Sửu. Cô Dương mệnh tại Sửu. Vậy mệnh cung thiên can của cô Dương là Kỷ Sửu. Cô Dương là Âm nữ nên đại vận theo chiều thuận, đại vận 1 là Kỷ Sửu, đại vận 2 là Mậu Dần, đại vận 3 là Kỷ Mão,...

Việc áp dụng can chi cung cho việc tính đại vận cho ra kết quả trên. Đại vận nhập mệnh cung chính là can chi của Cục số. Nhưng đại vận tại mệnh cung bao giờ cũng là đại vận khởi đầu, trong khi can chi cung thì cố định xác định cho mệnh cung. Nếu lấy lý cung đại vận là mệnh vận thì khi đại vận dịch chuyển, tức là mệnh vận dịch chuyển theo đó can chi mệnh vận cũng phải dịch chuyển. Tức là nếu đại vận 1 là kỷ sửu thì đại vận hai theo sự dịch chuyện của mệnh vận phải là Canh Dần, chứ không thể áp đặt là mậu dần được. Làm như thế là tự mình gây mâu thuẫn cho mình.
Đó là chưa kể, việc xác định vận đó là vận kỷ sửu, ông ta dựa vào tứ hóa thấy Thiên ri cung của cô D Vũ hóa lộc, Tham hóa quyền, Khúc hóa kỵ mà kết luận
Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.
thì rất khó thuyết phục. Chẳng hạn, nếu tam hóa làm cho Ri động thì có thể là ra ngoài nhiều bằng việc ông ta vứt bỏ tác dụng của Triệt, cho rằng thích nổi bởi cách Tham quyền Xương cũng có thể đại khái cho qua - vì chúng ta không phải là người khán trực tiếp cô D. Nhưng Khúc Kỵ thì có ý nghĩa gì đây ?. Sao có thể cho rằng ở nhà không thuận lợi được. Mà phải xét đoán là ra ngoài bất lợi mới phải chứ. Theo thuyết tứ hóa, hóa từ sao nào thì phải lấy gốc của sao đó mà phán xét. Nay Kỵ từ Khúc hóa ra, thế tất phải lấy Khúc Xương hóa thành Kỵ mà luận. Khúc Xương ở Mùi bỏ Triệt là miếu vượng, được Lộc tồn chiếu về. Lại ở đại vận, nay hóa thành Kỵ, thế thì khi xét vào niên vận, chỉ cần gặp hung sát tinh là Họa vì tiền tới liền. Việc đi ra ngoài nhiều, còn bé, gia đình lại không khá giả gì, cô D phải tự lập từ nhỏ. Chỉ xét về thường lý cũng đã dễ thấy rất nhiều khả năng gặp họa vì tiền. Nhưng không thấy Tác giả biên nhân, điều này cho thấy cô D trong đại vận này không hề có họa về tiền bạc. Trên lý sô, niên vận rất dễ xảy ra họa tiền bạc. Nhưng thực tế là không có. Vì thế việc Khúc hóa Kỵ là gốc của tai họa hoàn toàn không được đáp ứng. Điều này cho phép chúng ta diến giải rằng đại vận này không thể Khúc hóa Kỵ được. Mà như thế thì can chi đại vận không thể là Kỷ Sửu được. Chưa nói tới Thái tuế nhập quái liền gặp ngay Linh Tuế phá chủ tai ách do nghịch phá đưa thêm một bằng chứng về sự hợp lý của luận giải cần phải có sự thống nhất, chứ không thể có chuyện cung nọ mâu thuẫn với cung kia như có với không được.
Khi có thời gian, chúng ta sẽ đi sâu vào những luận đoán của tác giả này.
Thân ái.

vuivui
17-10-10, 19:58
Vân Đằng Thái Thứ Lang là một nhân vật đặc biệt, không ai biết rõ thân thế và mặt mũi của ông. Ông chỉ xuất hiện một lần duy nhất khi đưa xuất bản Tử Vi đẩu số toàn thư rồi sau đó biến mất. Tất cả sách in lại sau này đều căn cứ bản in năm 1956.

Nếu đã có những loạt bản in sau năm 1956, thế tất phải có loạt bản đã được chỉnh sửa nghiêm túc. Cho dù khi ấy VDTTL đã mất, thì nhà in cũng phải in lại theo bản viết đã được cập nhật chỉnh sửa. Điều này cho đến nay không được thấy một cách công khai lại càng cho thấy thông tin trên khó mà tin tưởng cho được.
Thân ái.

htruongdinh
17-10-10, 21:08
Bên trên là HTD copy lại cách dùng Thái Tuế nhập quái của Đài Loan. Đúng sai tùy mỗi người nghiệm lý. Cách này khá mới mẻ ở VN. Tuy nhiên theo anh MINHMINH nói thì : "THUYẾT THÁI TUẾ NHẬP QUÁI NÀY THÌ TỪ NĂM 1977 LÚC MINHMINH CÒN TRONG TÙ CẢI TẠO , ĐÃ GẶP ÔNG ĐẠI ÚY TRẦN VĂN NỮ ÔNG NÀY TUỔI TÂN TỴ , LÚC ẤY ÔNG ĐÃ ÁP DỤNG VÀ NGHIỆM LÝ TRONG TÙ RỒI VÌ TRONG ẤY THA HỒ MÀ CÓ CÁC LÁ SỐ MẪU VỚI NGƯỜI THẬT VIỆC THẬT. "

Hiện nay, trong làng Tử vi trăm hoa đua nở, tuy nhiên HTD thấy cần nhắc lại ý kiến của long nguyen quang :


Lại mạo muội nêu thêm một vấn đề nữa, mong rằng có ích cho những ai đang học tử vi. Các bạn có đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung chăng? Trong võ lâm có 2 bộ kinh võ thuật, 1 bộ kinh gọi là "Cửu âm chân kinh" tập trung những tuyệt chiêu võ thuật thượng thừa, những kẻ luyện thành pho kinh này đề trở thành cao thủ của võ lâm. Còn bộ kia là "Cửu dương chân kinh" là nội công tâm pháp thượng thừa, căn bản của võ học, ai luyện dược pho kinh này thì có nội công hùng hậu, nếu học thêm võ thuật thì xuất chiêu không ai đở nỗi. Còn ai học được cả 2 bộ kinh thì...hic...hic...trở thành minh chủ võ lâm !
Trở lại môn tử vi, "cửu âm chân kinh" chính là cách cục của các bộ sao, nếu ai học làu thông thì trở thành cao thủ tử vi. Còn "cửu dương chân kinh" trong tử vi chính là cái lý âm dương, ngũ hành sinh khắc chế hóa, tính lý của các sao, nếu ai thông hiểu được thì cũng trở thành cao nhân. Nếu ai học được trọn vẹn cả hai thì các bạn biết sẽ như thế nào rồi, phải không các bạn?
Nhưng tiếc thay, bộ "cửu dương chân kinh" kia đã thất lạc từ lâu lắm rồi, mỗi nhà còn lưu giữ vài ba trang còn sót làm cho kẻ hậu học không biết đường nào mà luyện công !
Các bạn có thấy trong cách luận số của những ai gọi là tiền bối hay cao thủ hiện nay đều có chút dấu vết của " cửu dương chân kinh ", đôi khi cũng rất thuyết phục, nhưng đem áp dụng rộng rãi thì vẫn còn khập khiểng, khiếm khuyết nhiều. Đó là nỗi đau khổ của môn tử vi cũng như nỗi đau khổ của người học tử vi vậy !
Ước gì tại diễn đàn này mỗi nhà góp vài trang bí kíp để lập thành bộ " Cửu dương chân kinh" thì hay biết mấy !

long nguyen quang

Nguồn : vietlyso.com

vuivui
17-10-10, 21:24
htruongdinh thân mến.
Tôi không phản biện htruongdinh. Tôi biết htruongdinh post bài từ tvls sang đây. Đây là điều mà mọi người quan tâm nên ghi nhận và cám ơn htruongdinh. Tôi chỉ làm cái việc nhận xét để chúng ta có cái nhìn nhiều chiều. Chứ không có ý gì khác.

Bên trên là HTD copy lại cách dùng Thái Tuế nhập quái của Đài Loan. Đúng sai tùy mỗi người nghiệm lý. Cách này khá mới mẻ ở VN. Tuy nhiên theo anh MINHMINH nói thì : "THUYẾT THÁI TUẾ NHẬP QUÁI NÀY THÌ TỪ NĂM 1977 LÚC MINHMINH CÒN TRONG TÙ CẢI TẠO , ĐÃ GẶP ÔNG ĐẠI ÚY TRẦN VĂN NỮ ÔNG NÀY TUỔI TÂN TỴ , LÚC ẤY ÔNG ĐÃ ÁP DỤNG VÀ NGHIỆM LÝ TRONG TÙ RỒI VÌ TRONG ẤY THA HỒ MÀ CÓ CÁC LÁ SỐ MẪU VỚI NGƯỜI THẬT VIỆC THẬT. "



Cách này không có gì mới mẻ ở VN cả. Theo tôi được biết, và chính tôi cũng đã dùng từ lâu. Song có thể ghi nhận là tất cả những phương pháp như lưu tứ hóa, thái tuế nhập quái, mượn cung, như chúng ta vừa được đọc ở trên thì ở VN rất ít người biết. Số người nắm vững nó lại càng ít hơn nữa. Qua những gì tôi đọc từ các bài ông VDTT post lại thì thậm chí tôi có thể nhận định những phương pháp này, người đài cảng đa phần nắm không vững. Có thể do họ không nắm được yếu quyết, tự sáng chế ra. Song việc phân tích phản biện cái sai của họ có nhiêu điều tế nhị. Hơn nữa, trong phản biện, rất cần có người bảo vệ tương xứng. Có như thế mới có thể sáng tỏ được các vấn đề. Thành thử, các bạn có đọc được, nhưng sự lĩnh hội sẽ bị hạn chế. Đó mới là điều đáng tiếc.
Thậm chí, nếu tôi nhớ không lầm, đâu như đã khá lâu rồi, ngày tôi còn ở bên VLS, cũng đã từng giao thủ giải đoán liên quan đến các phương pháp này với Longnguyenquang rôi.
Thân ái.

htruongdinh
17-10-10, 21:27
Cám ơn vuivui. Để phản biện, có lẽ vuivui cần vào bài của VDTT ở tuvilyso. net :0010:

vuivui
18-10-10, 15:59
Cám ơn vuivui. Để phản biện, có lẽ vuivui cần vào bài của VDTT ở tuvilyso. net :0010:

Cám ơn htruongdinh gợi ý. Tôi có một cá tính là, khi đã muốn phản biện một công trình hay bài báo nào đó thì chỉ muốn phản biện với chính tác giả của nó. Dù người đó có khó tìm thì tôi cũng cố gắng. Chẳng hạn như khi thuyết Tâm Vũ Trụ của anh Đỗ Xuân Thọ được anh Quangnx loan tải bên Lý học đông phương. Tôi không phản biện, mà cố gắng tìm đến tác giả. May thay khi tôi vào trang vatlyvietnam thì gặp anh Thọ ở đó dưới Nick là songythuc. Tôi đã đăng nhập nick tammuoihoa và thực hiện phản biện với anh ấy. Chỉ bằng một vài bài, anh Thọ đã xác nhận đối tượng của anh ấy được thực hiện trên các phép toán không đúng với bản chất của nó. Nghĩa là lý thuyết của anh ấy đang ở trong tình trạng: Râu ông nọ cắm cằm bà kia.
Thế là đủ, Tôi không cần phản biện xa hơn nữa. Người biết là thấy ngay, chứ không cần phải đi tới tận cùng như cho trẻ đọc a bờ cờ.
Các bài viết của ông VDTT chỉ là những bài dịch và được ông loan tải bằng tiếng việt, chứ ông ta không phải là tác giả hay đồng tác giả. Nếu ông ta biên tập và đưa tư tưởng, ý kiến của chính ông ta vào bài viết thì tôi mới phản biện. Như ngày trước Tôi đã từng có ý kiến sẵn sàng phản biện bộ sách Tư vi khoa học của ông ấy, nhưng ông ấy đã có nhã ý từ chối.
Hơn nữa còn một lý do Tôi đã phát tâm không trở lại diễn đàn tvls nữa, nay chỉ vì một vài bài báo mà trở lại thì thật không đáng.
Thân ái.

VONGOCHONG
26-10-10, 19:22
Chàu phương mai06.
Bạn có đứa con canh ngọ thuộc vào hàng thượng lưu cả về nhân cách phẩm hạnh, vừa giỏi vừa giàu,làm rạng rở gia đình giòng họ. Một gia tộc có 1 lá số như vây cũng phỉ chí lắm rồi. kg lăn tăn gì cả. cháu có khả năng làm mọi thứ
mình muốn mà ai cũng ngưỡng mộ. Đấy là người thực tài chân giá trị luôn được nhiều người ngưởng mộ. Bảo đảm 100/100 là rất có hiếu, kg chỉ cho bậc sinh thành.Chỉ khổ 1 điều duy 1 là cha mẹ lúc nào cũng khôn hơn con,bắt nó phải nghe mình, nếu cải thì là bấy hiếu, sự thật nghe theo cha mẹ trong trương hợp nầy thì thật là tai hại. . . chắc gì bạn hơn con bạn(có chăng là vốn của quá khứ đem cho chăng ai thèm,thì sao quí nhân của bạn chị nghe?!). sau 35 cháu sẽ thành danh rạng rở tổ đường nội,ngoaị. . .Cháu sửu thì nên theo chuyên môn chuyên nganh cho yên thân,số kg có cơ hôi bon chen,tranh thương, tình cảm cũng kg được suông sẽ... Số bạn vậy là diễm phúc về con rồi còn gì!
Có của quí mà còn kg biết mừng ,học tư vi chi mất thời giờ hi hi hi

phươngmai06
26-10-10, 20:50
Cám ơn ban vongochong đã xem cho PM , PM ngại cho cô con gái canhngo cái cung tật và cả cung tử nữa , cho PM vài lời nữa đi.Cảm ơn nhé

alan
10-05-12, 08:36
xin chào Htruongdinh
Dả lâu không lên diển dàn, trước dây tôi có hân hạnh duọc bạn và anh vuivui luân cho lá số của tôi nhưng tôi vẩn cón thắc mắc mệnh vòng thái tuế khônng phát. dại vận sắp tới 53 -44 là thất sát phá quân trên vòng thiên không, vòng thái tuế không phát vậy thì vòng thien không còn thê thảm hơn phải không? bạn dả so sánh lá số của tôi và anh tuhepluong dều giống nhau nhưng lại khác rất nhiều tôi sanh ngày 25 tháng 3 năm 1960 giò tý (al)
Xin bạn co 1 thể giải dùm thắc mắc không
cám ơn nhiều

htruongdinh
10-05-12, 13:00
Chào anh alan, HTD copy lại nhận định của anh vuivui giải thích vì sao anh vào vận Thái Tuế mà không phát.


Khi luận vận trình thái tuế của anh alan, Tôi có nêu ra ba điểm, làm yếu tố chủ đạo để khẳng định sự suy thoái, phá tán của vận đó. Bao gồm:
-Mệnh – Thân đồng cung chính tinh thủ thuộc nhóm CNDL, gặp vận cung VCD – một cách tổng quát – được Nhật Nguyệt sáng chiếu (trường hợp của anh alan) (Tôi không xét hóa khí, vì chỉ dùng lý của tiền nhân, trước cả cụ Thiên lương) là bế tắc, không phát triển được, thiếu may mắn. Nên nhớ tôi không khẳng định về sự phá sản do cái lý này !!!.
-Mệnh Thân đồng cung có Cơ Lương miếu thủ đắc là đẹp, nhưng ngộ Tuần, theo TTL là phản ngược, sáng thành tối. Nên xấu. Bản thân Tôi không cực đoan như vậy, nên chỉ khẳng định mệnh thân cơ lương sáng sủa ngộ tuần là mệnh yếu. Vì thế, vốn khi sáng sủa gặp vận trình cung VCD thì đã bế tắc, khó phát triển. Nay Mệnh bị Tuần án thì yếu, gặp hoàn cảnh không thuận thì đương nhiên sẽ tăng nặng, dẫn đến suy thoái. Vâng, suy thoái, chứ không phải là phá sản, cơ đồ, sự nghiệp đi tong.
-Chỉ khi vào vận, đã VCD, lại có hung tinh, sát tinh hạng nặng – Bạch hổ thủ (trường hợp của anh alan), cho là miếu địa (theo TTL và nhiều sách cũng đồng ý Bạch hổ đắc địa tại Thân) thì về lý thuyết chung, mệnh thân yếu, gặp vận trình có sát tinh thủ nòng cột (xin hãy hiểu nòng cốt ở đây không phải là nòng cốt như là trụ cột của mệnh, để buộc nó phải đồng hành với hành của bản mệnh, mà phải hiểu rộng hơn, đó là sao thủ vai chính cho vận. Vì thế, với cung VCD, như lý thuyết tổng quát khẳng định rằng, cung VCD mà có Sát tinh thủ, thì Sát tinh đó sẽ thủ vai chính cho cung đó. Nếu Sát tinh đó hãm, thì cung đó xấu, nếu sát tinh đó đắc địa thì cung đó như được cứu, nghĩa là sẽ tốt). Bởi vậy, Vận VCD có Bạch hổ đắc thủ, là được cứu. Nhưng Mệnh Thân yếu, nên không thể thủ đắc được, tất phát rã như lôi. Có phát tất rã.
Tổng hợp ba điều trên, có thể phán rằng, Vận thái tuế của anh alan tất phát, rồi tất phá sản. Cụ thể vào thời gian nào thì với lý luận này phải xét vào từng niên vận cụ thể, khó có được cái nhìn tổng quan vào thời gian nào như lý hóa khí, hay lý mệnh chủ. Nhưng như tôi đã nói, Tôi chỉ dùng lý của tiền nhân.
Như vậy, xét ba lý trên, đều xem cung hạn của anh alan như là một cung bình thường, không quan tâm tới sự có mặt của Thái tuế hay không !!!.


http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/1/004520041960/1/alan.jpg

alan
15-05-12, 11:11
....................................

vuivui
20-06-12, 16:36
Anh alan thân mến.
Bài giải thích trên mà htruongdinh dẫn lại chỉ là một cách nhìn theo lý của tiền nhân. Nói cách khác là nói theo sách vở mà thôi. Đương nhiên là có những "cục nghẹn" khó mà thông cổ cho được. Khiên cưỡng chấp nhận thì cho nó là như thế.
Thực ra, theo lý hoá vận, trường hợp của cả hai anh rất rõ. của anh alan thì vận thái tuế đến của anh hoá hung, còn anh THL lại hoá cát. Anh nhìn sẽ thấy rõ ngay. vận 44-53 của anh là vận giáp thân, giáp liêm phá vũ nhật. Nhật hoá kỵ với chủ cách là nhật nguyệt thì là hung trong khi cũng vận đó của anh tử hiệp lương lại hoá khoa hội xương chủ vận thành thử cát hoá chủ về giấy tờ, hợp đồng mà khởi sự, chuyển hung hoá cát là thế.
Thân ái.

alan
28-06-12, 05:10
chào anh vuivui
rất là vui mừng dược nói chuyện với anh again. tôi rất khâm phục kiến thức cùa anh và anh nói rất dúng trong vận 44-53 công danh và tiền bac như là lâu dài cát mà thôi sup dổ rất nhanh không có nắm` dược lâu dài. Tôi có coi rất nhiều người tại california nhung tôi không vừa ý vì khọ không nói dươc chi tiết của dai vận SPLT53-64 của tôi chỉ nòi chung chung thôi không có diểm nào nhấn mạnh và chi tiết cụ thể có lẻ họ chưa dủ kiến thức dể luận hay là kinh nghiệm chua dủ. Xin phép anh nếu có thời gian anh có thể cho tôi biết thêm chi tiết của dại vận 54-63 như thế nào về cong danh tiền bac và diền sản. dối vói 1 người lớn tuổi ở Mỷ rất dể bị mất việc làm và quan trọng là phải có 1 ngôi nhà dể ở khi tuổi về già. Dó là nổi lo của nhiểu người khi sống ở xứ Cờ Hoa Xin chân thành cám ơn anh
tôi củng xin cám ơn chi HDT rất nhiều dã dã quan tâm dến lá số của tôi xin cám on hai vị thật nhiều

htruongdinh
28-06-12, 14:19
Chào anh vuivui, Mệnh Thân của anh alan Cơ Lương bị Tuần. Tuần càng lúc càng mạnh, liệu anh alan có cơ hội nào khác trong hậu vận? Bàn về "đức năng thắng số" thì HTD nghĩ là trong cuộc đời anh alan cũng làm nhiều điều tốt để cuối đời không đến nổi thất vọng !

vuivui
29-06-12, 16:49
Anh alan thân mến.
Như câu hỏi của anh, theo phép luận nhân cách thì thấy đó là người thất chí, thân mệnh đồng cung, cơ lương thủ vào vận liêm phá tất sẽ có biến động mạnh, người thất chí càng nên lưu tâm điểm này. Nhưng vào vận liêm phá, thấy lộc tồn nhập vận, cái lộc này khá đặc biệt. Lộc hội song hỉ phùng đào hồng thì thế nào cũng có duyên với người khác phái mà có lộc, gặp luôn quang quý là lộc trời cho, nhưng cũng là người "ăn oản" thì phải biết thờ tự. Cách minh lộc ám lộc vận, phúc vận chế được tài vận mà tài khí vận thuộc loại lớn thì thế nào cũng phát, giàu to, nhưng chỉ sợ không giữ được thôi.
Hai kình nhập mệnh trong vận này cùng liêm phá, tài cung hai lần hóa kỵ, nên vận này của anh chủ về lo toan tiền bạc, đồng tiền hay bị thất thoát hao tán làm "gầy người" rất khổ. Vận này, số anh có tiền cũng không sướng, Anh nên tâm niệm có tiền lo cho gia đình hơn là tích cóp làm giàu thì giải tỏa được cái không hay này, nếu thấy tiền bạc đội nón ra đi thì đi theo dạng như tôi nói, lo cho gia đình, thì sẽ thấy thanh thản.
Vận này, bởi minh lộc ám lộc, số lại gặp đào hồng hỉ thì anh sẽ nhờ người đàn bà mà kinh doanh, nếu làm thuê thì cũng là làm thương mại, chứ không làm chuyên môn như trước đây đâu - cũng là một nỗi khổ của anh vậy, ứng với tiền bạc hóa kỵ, mệnh ngộ kình không lo, phiền không được. Nhưng cũng không phải là có tình đâu, mà anh muốn cũng không được, bởi có quang quý ngự ở đó rồi. Nên minh bạch trong quan hệ thì dễ với người ta, khỏi tự làm khó cho mình. Càng như vậy thì lộc càng lớn, tiền bạc càng dễ dãi. dẫu có phải thực thi những việc "đen đen" thì cũng là sự đồng cảm với nhau, cùng chung trách nhiệm mà làm, cho đỡ khổ cái mệnh cơ lương văn khúc của anh.
Được như vậy, cái thất chí cũng đỡ, như được ân quang thiên quý giải đỡ phần nào vậy.
Theo số thì cũng sặp ứng rồi đấy, muộn lắm thì cũng 2014 là cùng. Anh sẽ khởi phát.
Chúc anh mãn ý.
Thân ái.

TuHepLuong
29-06-12, 18:49
Chào anh Alan,

Chụi khổ sẻ hết khổ, hưởng phước sẻ hết phước. Chúc anh đuọc may mắng và mãn ý. Theo như anh Vuivui luận thì anh sẻ có cơ hội trờ mình rồi. :5548::5548:

htruongdinh
29-06-12, 21:16
Nhưng vào vận liêm phá, thấy lộc tồn nhập vận, cái lộc này khá đặc biệt. Lộc hội song hỉ phùng đào hồng thì thế nào cũng có duyên với người khác phái mà có lộc, gặp luôn quang quý là lộc trời cho, nhưng cũng là người "ăn oản" thì phải biết thờ tự. Cách minh lộc ám lộc vận, phúc vận chế được tài vận mà tài khí vận thuộc loại lớn thì thế nào cũng phát, giàu to, nhưng chỉ sợ không giữ được thôi.
Hai kình nhập mệnh trong vận này cùng liêm phá, tài cung hai lần hóa kỵ, nên vận này của anh chủ về lo toan tiền bạc, đồng tiền hay bị thất thoát hao tán làm "gầy người" rất khổ. Vận này, số anh có tiền cũng không sướng, Anh nên tâm niệm có tiền lo cho gia đình hơn là tích cóp làm giàu thì giải tỏa được cái không hay này, nếu thấy tiền bạc đội nón ra đi thì đi theo dạng như tôi nói, lo cho gia đình, thì sẽ thấy thanh thản.


Vận này anh alan gặp Đại Hao, tất nhiên sẽ hao của. Tuy nhiên, tùy quan niệm sống của mọi người. Vấn đề là anh có được bảo hiểm hưu trí để yên tâm vào cuối đời.

alan
01-07-12, 12:27
cám ơn anh vuivui rat nhiều dã mở ra phần nào thắc mắc của tôi. anh luận quá cao nên khi dùng hệ thống sao lưu cho nên tôi không hiểu hết tại sao lại như vậy có phải giống như bên huyền khong phong thủy sử dụng phi tinh dể xem vận khí của 1 căn nhà còn bát trạch giống như 12 cung cố dịnh của tử vi
xin lổi vì căn bản còn non kém cho nên khong hiểu cách anh sử dụng sao dể luận số. Rất cảm ỏn anh dã bỏ thời gian dể giải số tôi phải nghiền ngẩm dể tiêu hóa những gì anh nói.
cám ỏn rất nhiều và chúc anh và gia dình duọc hanh phúc

alan
01-07-12, 12:34
hello tuhepluong
anh có khỏe kg tôi vừa kiếm dược viêc làm dược 6 tháng rồi, cũng dỡ hơn trước ngồi ăn bám vợ con, chổ làm tôi bây giờ lương không bằng xưa nhung cũng phải làm thôi kinh tế khó khăn mà mong rằng duợc như anh vuivui luận
dại vận kế tiếp dỡ hơn dể còn vuơn lên cú chót trước khi về hưu

alan
01-07-12, 12:37
chào chi hdt
cám ỏn chị dã giúp tôi rất nhiều mong chị duoc vui ve và thành công trên dường nghiên cứu số mệnh

yennhi
04-11-14, 17:08
Cháu xin chào các Bác!
Cháu cũng rất mong muốn biết chính xác cháu ăn theo hoá khoa hay hoá ky thiên đồng.
Bởi cháu cũng đã từng hỏi nhưng vẫn chưa có đáp án ạ.
Cháu thân mệnh đều là Thiên Đồng cư tuất.
Cháu sinh ngày 10/9/90 giờ Tý AL ạ.
Mong các Bác cứ hỏi và nghiệm lý.