PDA

View Full Version : Phep Lưu Cung trong đoán Hạn



vuivui
06-11-10, 03:47
Kể từ lúc ông VDTT phỏng dịch một số bài luận tử vi của ông Trần Thế Hưng, một tử vi gia xứ Đài mà theo thông tin của ông VDTT thì tử vi gia này cũng khá nổi danh. Nội dung của các bài đó có đề cập tới một phương pháp luận vận hạn. Đó là phương pháp lưu cung. Tôi đã có ý định viết một bài giới thiệu về phương pháp này. Không phải nhằm "chạy đua" với những tử vi gia xứ Đài, mà nhằm mục đích lưu ý những người học tử vi cần lưu ý tới những ngộ nhận và sai lầm về sự vận dụng của tác giả đối với phương pháp này. Nhưng công việc bận rộn, cứ lần chần mãi. Mới rồi lại thấy có người cũng có tinh thần cầu thị, nhưng sở học chưa tới đã vội sử dụng phương pháp này và trình bày luận đoán của mình theo phương pháp đó. Sai mà lại không biết là Sai, lại còn phê như sau:


Tác giả VuiVui không sao hiểu cách Lưu Cung và các chuyển vận rất động rất tinh tế, nên có lời phê bình ấu trỉ và ganh tị nhắm vào lão HC tại VietLySo cách nay chừng 2-3 ngày . Đó là sự thiếu sót quê mùa đến đáng buồn của lý số gia hàng nội dập theo1 khuôn mà lại cho mình là đỉnh cao của thiên hạ .


Nguồn TVLS.net
.............
Quả nhiên sự lấn cấn của tôi là hợp lý. Tôi thật không hiểu, khi người ta học tử vi lâu năm, lại còn tham gia nghiên cứu mà lại có thể hiểu sai và vận dụng sai một phương pháp sơ đẳng như vậy. Thực ra phương pháp lưu cung không mới. Nói như những người lâu năm lăn lộn trong lĩnh vực bói toán hay nghiên cứu tử vi thì phương pháp này được xem như là phương pháp cổ lỗ. Cổ lỗ cả về hai nghĩa;
-Nghĩa thứ nhất. Cổ quá rồi. Trở thành chuyện "xưa như trái đất" khi mà bàn đến nó.
-Nghĩa thứ hai. Nó không những đơn giản mà còn đầy khiếm khuyết, cần phải được nhiều phương pháp khác bổ trợ một cách trực tiếp. Chứ không phải là bổ trợ theo kiểu như: Anh dùng tử, tôi dùng tử bình, còn anh kia dùng nhân tướng, anh nữa xài Hà Lạc, ... rồi chúng ta ráp lại với nhau để có sự luận giải chung nhất, hy vọng đưa ra kết quả luận đoán chính xác nhất có thể.
Nói một cách đơn giản nhất, sự phối hợp, chẳng hạn như: phối phép lưu cung với phép lưu thái tuế và các sao lưu.
Đọc những dòng trên của người lầm lẫn bởi sự thiếu mạch lạc trong tư duy, thiếu căn cơ vững chắc không chỉ nền tảng lý học đông phương mà ngay trong lĩnh vực tử vi cũng mơ hồ. Chung quy cũng chỉ vì học thuật không có căn bản. Nay tôi trình bày ở đây, hy vọng hóa giải phần nào cho các bạn học tử vi, kẻo sai lầm.
Trước hết tôi trình bày phép luận hạn tổng quát. Cái này được trình bày ở hầu hết các sách vở tử vi. Tuy nhiên mức độ hệ thống có khác nhau, chỉ bởi vì nó phụ thuộc vào trình độ thực có của tác giả.
Trước hết nói về Đại vận 10 năm.
Chúng ta cứ thừa nhận đại vận 10 như một sự tất nhiên, đó là giai đoạn 10 năm của mỗi con người trong cả một đời người. Chúng được sắp xếp theo một trật tự xác định, khởi từ mệnh, lấy theo số Cục mà định. Ví dụ, cục thủy là số 2, thì 10 năm đại vận đầu tiên sẽ ở mệnh cung, tính từ tuổi 2 đến hết năm 11 tuổi. Các đại vận kế tiếp được sắp xếp theo quy luật: dương nam âm nữ xếp theo chiều thuận, nghĩa là đại vận kế tiếp, ví dụ 12-21 sẽ ở cung phụ mẫu, tiếp nữa là đại vận 22-31 nhập cung phúc đức, và cứ thế ta an tiếp các đại vận tiếp theo. Đối với âm nam dương nữ thì an ngược lại, đại vận 12-21 nhập cung bào, đại vận 22-31 nhập cung phu/thê, và cứ thế tiếp tục cho các đại vận sau nữa.
Đến đây chúng ta phải tự hỏi. Xác định cung an mệnh trên lá số. Nếu không lý đến vận trình, rõ ràng cung an mệnh, đúng là cung an mệnh của lá số xác định toàn bộ cuộc đời. Nói cách khác, cung an mệnh là một cung cuộc đời. Phải chăng, cung mà đại vận 10 năm nó nhập sẽ là cái gì ?. Câu trả lời sẽ rất tự nhiên, nó chính là Cung Vận đại diện cho cung an Mệnh khi Mệnh "trôi" tới đó. Mà người xưa – hãy nhớ là người xưa, chớ không phải là người nay, chứng tỏ rằng tư tưởng, chuyển thành phương pháp, đã Cổ lắm rồi – mới nói, đó là Mệnh Vận. Lẽ tự nhiên, Người xưa cũng dễ dàng coi rằng, Mệnh như "tâm" của lá số, hay nói cách khác, như là Tâm Vị của 12 cung lá số. Vây thì, khi mệnh trôi, tức là mệnh vận dịch chuyển, thì chẳng có lý do gì ngăn cản các cung khác không dịch chuyển theo theo cái thế tương quan bắt buộc. Cái thế tương quan này nó nằm trong luật nhân quả chi phối trong việc xây dựng lá số tử vi. Cái này, khi có dịp trao đổi về triết đông trong bài toán tử vi, tôi sẽ đề cập tới sau.
Theo lẽ đó, khi có mệnh vận, đương nhiên tương ứng sẽ có 11 cung vận là phụ mẫu vận, phúc vận, điền vận, ....
Nếu chỉ dừng tới đại vận 10 năm. Sẽ rất là đơn giản, và cũng chẳng có gì đáng phải bàn. Vấn đề sẽ phức tạp hơn ở chỗ, khi ta xét đến vận lưu niên, rồi ứng dụng nó để đoán vận. Hiểu đúng, hay bá láp là ở chỗ này nó lòi ra ngay.
Bởi vì. Chẳng hạn, khi xét vận lưu niên. Chúng ta có ba cung. Lưu niên đại vận, Lưu niên tiểu vận và cung Lưu thái tuế an vị. Có câu hỏi tự nhiên bật ra: Vậy trong ba cung này, cung nào sẽ là Mệnh vận lưu niên đây ?.
Chỉ mới tới đây thôi, đã thấy ngay cái người viết nói tôi phê bình ấu trĩ và ganh tị thực đã không hiểu gì về vấn đề này. Chúng ta hãy thực nghiệm khi ông ta luận lá số Đặng Tiểu Bình, về hạn Bố của Đặng chết.


Năm cha của Đặng bị Thổ Phỉ chặt đầu là năm 1938 tức năm Mậu Dần, tức các thứ sau đây giải thích tại sao cha chết:
1. Đặng lúc đó đuợc 1938 - 1904 = 35 t AL, gốc DH tại Hợi, tức Lưu cung Phụ tại Tý .
2. Năm Mậu an Lưu Kình trực xạ vào Lưu Phụ tại Tý, gia Lưu Đà La, Tang Hổ cố định, Lưu Tang, Lưu Khốc, Lưu Hư là cách khóc cha .
3. TH năm Mậu Dần an tại cung Thân tức Lưu Phụ tính theo TH, an tại Dậu cũng hứng Kình Đà Kỵ Kiếp Sát Thái Duơng, cũng là cách chết cha .
Nên nhớ Tuần Triệt của lá số Đặng ăn mạnh vào cung Duơng nên thiếu thời Đặng gian nan nếm mùi tân khổ, xa cách cha (Triệt an giữa Mệnh và Phụ) còn Tuần vào Di phá Thiên Mã nhiều lần, gia hại Lộc Tồn làm cho cách Mã Lộc Khốc Khách kém hay, thất bại ê chề . Ngay cả khi hạn hành vào cung Di tức lúc này Tuần và Triệt có cơ hội phá nhau để Đặng đuợc tháo gỡ Triệt tại Mệnh nhưng lúc đó Đặng đã hơn 60 tuổi thì Triệt đâu còn gì để Tuần phá nên Tuần siết cung Di, làm hại Mã, thất Lộc rất nhiều đối với Lưu Mệnh của Đặng .


Nguồn TVLS.net
................
Chỉ cần với những gì tôi đã trình bày ở trên, các bạn cũng đã có thể vạch được chỗ ấu trĩ của lời luận giải này. Xin mời các bạn tự nhiên, rồi tôi sẽ tiếp tục. Chúng ta sẽ đi tiếp tới mục tiêu nhận chân lời giải của Trần Thế Hưng.
Xin nhớ, đây không phải là sự phản biện, mà chỉ là đóng góp giúp các bạn học tử vi nhận rõ đường lối trong việc học tử vi. Khả dĩ nhận ra đúng sai của cái gọi là Lý trong tử vi luận. Bởi như tôi đã nói, tôi chỉ phản biện trực tiếp với tác giả, chứ không muốn phản biện qua bất cứ trung gian nào.
Xin cám ơn sự quan tâm của các bạn.
Thân ái.

vuivui
07-11-10, 18:08
Chúng ta tiếp tục.
Theo cái lý trên, chúng ta thấy sự xuất hiện các cung lưu, như phụ mẫu lưu, huynh đệ lưu, phúc lưu, ... có vẻ như rất tự nhiên. Và chính đó là lý do hết sức thuyết phục về sự tồn tại của các cung này. Điều này đưa tới sự đòi hỏi vận dụng chúng vào giải đoán vận hạn. Song cần nhớ rằng, đó không phải là những chứng minh sự tồn tại của các cung lưu, mà chỉ là những lời biện giải thuyết phục mà thôi. Việc chứng minh bài toán cung lưu phức tạp và khó khăn nhiều. Ta có thể hình dung nó tương tự như việc bổ đề Langlands. Cái bổ đề này được xem là đúng đắn khá là tự nhiên, nhưng đối với các nhà toán học, sự tự nhiên một cách cảm tính, cho dù đó là những cảm tính thiên tài, thì vẫn không thể nào làm cho các nhà toán học yên tâm được, cũng như không thể bảo đảm cho sự đúng đắn tuyệt đối của cái bổ đề ấy. Việc chứng minh các bổ đề ấy khó, vì thế, đã qua hơn 30 năm kể từ khi bổ đề ấy được phát biểu, chẳng có ai chứng minh được nó. Cho dù các nhà toán học vẫn cứ thừa nhận và sử dụng nó. Cuối cùng, người chứng minh nó là NBC, và giải thưởng fields đã dành cho người chứng minh được nó. Vì vậy, chúng ta hãy cứ thừa nhận các cung lưu như một sự tự nhiên, còn chứng minh nó một cách chặt chẽ thì ... đành phải chờ một ai đó, nếu như tôi không công bố phép chứng minh của tôi.
Tuy nhiên cần phải nói trước rằng thừa nhận là một chuyện. Còn sử dụng được chúng trong đoán vận lại là một chuyện khác. Sẽ có nhiều người, do sử dụng không được có thể đi tới sự phủ nhận chúng. Nếu sử dụng được chúng hiệu quả, tất sẽ thấy sự hay ho ở chúng. Nhưng cũng có người sử dụng sai. Khi ấy ngoài sự hồ nghi – đó là tốt nhất và chỉ có người thông minh mới có thể được như vậy – còn có người cứ mù quáng tin tưởng theo, rồi giải đoán công ra gà, gà ra vịt. Sai mà không biết mình sai, đó mới là điều nguy hiểm.
Như trên, tôi có đặt ra câu hỏi, trong ba cung niên vận. Cung nào là Mệnh vận lưu niên ?.
Thực ra câu trả lời này rất dễ, và cũng rất tự nhiên. Đó chính là cung Đại vận lưu niên. Cái lý rất đơn giản, bởi vì nó được khởi từ đại vận 10 năm tính đi. Khi cung đại vận lưu niên xuất hiện, bây giờ ta gọi là mệnh vận lưu niên cũng được. Đương nhiên, các cung lưu niên cũng sẽ xuất hiện theo đó. Có người nói rằng, xem như vậy thì dường như mỗi hạn ta đều có một lá số mới chồng lên lá số cũ. Mà muốn xem tới vận lưu niên, tức là ta đã có ba lá số chồng lên nhau. Đó là các lá số: Lá số đầu tiên là lá số tổng quát, lá số thứ hai là lá số lưu đại vận 10 năm, lá số thứ ba là lá số đại vận lưu niên. Cùng với nó có tiểu vận lưu niên và cung có thái tuế nhập. Thêm bao nhiêu sao lưu nữa thì ... chúng ta sẽ tá hỏa bởi chỉ mới đoán đến vận lưu niên thôi mà đã quá ư là phức tạp. Làm sao xử lý được tới ba lá số chồng đống lên nhau. Rồi các sao sẽ được an vị thế nào ?. Tại sao khi lá số lưu xoay chuyển như thế mà các sao lại "đứng ỳ ra đó", chỉ có một số sao là dịch chuyển, đó là các sao lưu mà thôi ?.
Chúng ta đã thấy sự phức tạp, và đưa tới ngày càng mơ hồ, khiến cho những ai muốn học và nghiên cứu tử vi cũng phải phát nản lòng ?.
Thực ra không phải như vậy. Đó là bởi vì, chúng ta đã có ý niệm sai ngay từ đầu rằng kết quả giải đoán đến vận lưu niên là đã có ba lá số chồng lên nhau. Cũng như bài toán lưu cung. Việc chứng minh hoàn toàn không đơn giản. Nhưng chúng ta có thể tạm đồng ý với nhau bởi vì những lý do sau:
-Lý, mệnh và vận phân ly. Cái lý này, như tôi đã có nghe, ngày trước ông VDTT đã có đề cập tới đó là ý kiến của một số tử vi gia Đài cảng. (tôi tôn trọng trình tự thời gian vì nó đã được công bố trước, chứ thực ra cái lý này tôi đã biết từ khi mới bắt đầu học tử vi, rất lâu trước khi sự kiện này được ông VDTT nhắc đến)Theo ý kiến này, sự thiết lập ba lá số chồng lên nhau là tự nhiên, từ đó đương nhiên, người ta có thể xét chỉ một lá số lưu cuối cùng mà thôi. Nhưng sẽ khiên cưỡng, bởi vì từ đó phải tuyệt đối an sao lưu toàn bộ. Nhưng với những sao an theo năm thì còn có thể. Những sao an theo tháng, ngày giờ thì lấy cái gì để an đây ?. Chả nhẽ lại suy từ ngũ hành của cung an mệnh vận ?. Đây là điều bất khả do tính đa trị cuả nó, cũng như về lý rất khiên cưỡng.
-Lý, mệnh vận liên kết. Sẽ đưa tới sự lược bỏ rất lớn đối với các lá số lưu, khiến chúng ta, suy cho cùng kỳ lý – bởi sự không nắm được bản chất cấu trúc của tử vi – thì sẽ lược bỏ vô tội vạ, cuối cùng thì chẳng có một lá số lưu nào cả, hay chỉ là những cung lưu về mặt hình thức mà thôi.
Nhưng thực tế thì, cả hai lý trên đều đúng. Có điều, nghiêng hẳn bất cứ về cái lý nào, cũng đều cực đoan cả. Trong tử vi luận, khác với lý luận hay lô gíc thông thường của khoa học là khi suy luận giải các bài toán khoa học, người ta thường "làm quá" các giả thiết, hay các chứng cứ, cũng như điều kiện của bài toán để tìm ra lời giải của bài toán, thì tử vi luôn không được phép làm như vậy. Tại sao vậy. Giải thích nôm na rằng làm như vậy là vi phạm cái lý âm dương. Nhưng để hiểu được thì không đơn giản tý nào.
Đây là một điều rất khó cho người viết khoa học về tử vi, bởi mỗi bước đi phải có chứng minh chặt chẽ. Muốn làm được việc đó, cần phải trình bày hệ thống lý thuyết từ "a đến z". Trong một bài như thế này là không thể, chỉ còn có cách là chúng ta cứ phải thừa nhận những điều, ít nhất là có thể xem như rất hiển nhiên mà thôi.
Quay trở lại hai lý trên, chúng ta đương nhiên phải chọn giải pháp "trung dung". Nhưng trung dung tới mức độ nào, lại còn phụ thuộc vào trình độ của tử vi gia. Ở trình độ này, người giải sẽ phải vận dụng thêm nhiều phép phối hợp khác. Một trong các phép đó, chính là bên cạnh lưu cung còn có lưu sao ?. Nên nhớ, cung tiểu hạn lưu niên và lưu thái tuế là do tự thân nó có, chứ không phải là sự phối hợp thêm do yêu cầu của bài toán lưu cung.
Theo lý đó, tử vi gia phải thiết lập một sự phối hợp sao cho việc giải đoán các biến cố sao cho biến cố được giải đoán phải có những biến cố không được phép xảy ra nhiều lần trong đời. Chẳng hạn như trong lá số của họ Đặng. Biến cố cha chết bị chặt đầu không thể được xuất hiện từ hai lần trở lên. Đến đây, chứng ta thấy ngay, với lối giải đoán mà tôi trích dẫn trên, chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra và thời điểm mà cha ông ta bị chặt đầu, có nghĩa là phải chết vài lần, thậm chí theo kiểu chết không toàn thây.
Thật vậy. Xét ngay trong đại vận ở Hợi cung, lấy năm mậu dần để thể hiện sao lưu chúng ta thấy lý luận của anh ta thế này:
-Năm 1938 mậu dần Đặng 35 tuổi, đại vận đương nhiên nhập cung Hợi, phụ mẫu lưu sẽ ở cung Tý – đúng.
-Năm mậu lưu Kình trực xạ vào cung phụ mẫu lưu tại Tý, gia lưu Đà cùng tang hổ cố định. Lưu Tang hợp chiếu từ thìn cung, gia hội lưu khốc lưu hư từ tam hợp chiếu về Tý cung lưu phụ mẫu. Nên nhớ, Lưu tang ở tam hợp !.
Chúng ta xét 8 năm sau, đó là vào năm Bính Tuất. Lưu Kình Lưu Đà như lưu năm có can Mậu, vì thế ta cũng sẽ nói được, lưu kình trực xạ vào cung Tý nơi phụ mẫu họ Đặng lưu trú 10 năm. Tang Hổ cố định thì đương nhiên 10 năm cha họ Đặng lưu trú ở đó, tất gặp luôn luôn. Năm bính tuất, lưu khốc lưu hư cũng nằm ở thìn và thân cung, chỉ khác chiều là năm mậu dần thì lưu khốc ở thìn, lưu hư ở thân, năm bính tuất thì lưu hư ở thìn còn lưu khốc ở thân. Nhưng lưu Tang lưu hổ thì mới khiếp, nhè ngay cung Tý, nơi cha Đặng ở mà phạm, chứ không tam hợp chiếu mỗi Tang lưu như năm Dần.
-Còn Tiểu hạn, năm Dần rơi vào Mệnh tại cung thân, kêu rằng lưu phụ mẫu theo tiểu hạn là cung Dậu – học không đến nơi đến chốn, lại còn bịa ra chi tiết này – rồi luận ép rằng: Hứng kình đà kỵ kiếp sát thái dương là cách chết cha. Xin hỏi, thái dương đồng cung thái âm, thái dương ở sửu vượng hơn thái âm, sao chết cha mà không chết mẹ ?.
Nay xét năm bính tuất, cứ theo cái lý luận đó thì lưu phụ mẫu theo tiểu hạn lưu niên sẽ là cung Tị, xơi luôn Đà Kỵ Thái dương Kiếp sát Kiếp Không (điạ) cùng thiên không hội thêm nhị hao bại địa. (địa kiếp địa không vỗ mặt)
Chúng ta hãy so sánh:
Năm mậu dần và năm bính tuất, những tiêu chí như nhau là lưu kình trực xạ. Nhưng lưu đà cùng tang hổ cố định, tang lưu và khóc hư lưu thì năm bính tuất nặng hơn nhiều, cũng là lưu đà, nhưng tang hổ hội cả lưu tang lưu hổ nhập cung phụ mẫu lưu, đây mới là cách tang tóc (nhưng nếu chỉ như vậy cũng chưa đủ tang tóc xảy ra, huống chi là nhẹ hơn thì càng khó xảy ra). Còn lưu khốc lưu hư thì như nhau. Vậy xét lưu can chi năm thì năm bính tuất nặng hơn năm mậu dần.
Tiểu hạn năm Dần, rơi vào thân cung, thì năm tuất ở thìn cung. Xét về vị trí thì như nhau – nếu không để ý đến triệt. Thực ra triệt ở đây sẽ làm giảm cái xấu đi, còn năm tuất thì không có triệt, nên cái xấu y nguyên. Nhưng thôi, không xét đến triệt nữa. Nếu năm dần, lưu phụ mẫu cung tại dậu hứng kình đà kỵ kiếp sát, thì năm bính tuất lưu phụ mẫu cung sẽ chịu đà kỵ kiếp sát cùng địa không địa kiếp nhị hao, phối hợp với cách tang tóc lưu tang gặp tang, lưu hổ gặp hổ thì dễ quyết đoán tang cha hơn nhiều so với năm mậu dần. Cùng cách thái dương đà kỵ mà không bị triệt ngăn trở. Như thế theo cùng cách xét như nhau, để khỏi ngụy biện vì nó thế này, còn cái kia thì thế khác, chúng ta cũng thấy tiểu hạn lưu phụ mẫu năm bính tuất cũng nặng hơn năm mậu dần. Chúng ta hãy nhớ, năm bính tuất họ Đặng 43 tuổi là năm cuối của cùng đại vận ở Hợi cung, chung đại vận với năm 35 tuổi.
Như thế, theo cái kiểu xem số như trên,trong một đại vận, cha họ Đặng bị chặt đầu ít nhất là hai lần ?. Rõ ràng là vô lý.
Chúng ta cứ theo cái kiểu lý luận lưu cung ấy, dù muốn biện bạch kiểu gì thì cũng thấy năm bính tuất nặng hơn năm mậu dần. Nhưng cha họ Đặng chết năm 1938 là thực tế, chúng ta không thể dịch nó sang năm bính tuất để mà nói năm mậu dần nhẹ hơn năm bính tuất, nên cha họ Đặng suýt chết năm mậu dần, mà đến năm bính tuất mới chết.

vuivui
07-11-10, 18:09
Bây giờ chúng ta quan tâm tới lưu niên tiểu vận.
Có câu hỏi, tại sao xem vận lưu niên lại có lưu niên tiểu vận, mà xem vận 10 năm – ít nhất là như vậy – thì lại không có lưu niên kiểu như tiểu vận vậy ?. Tức là xem đại vận 10 năm, chỉ có hai cung, mệnh vận và thái tuế lưu chứ không có ba cung như xem lưu niên vận.
Trả lời câu hỏi này không dễ, nhưng có thể nói đại lược đó là do tính ước lệ của thời gian. Từ cái điểm khác nhau này chúng ta có thể trả lời tiểu vận lưu niên không phải là mệnh vận lưu niên, mà chỉ có đại vận lưu niên mới là mệnh vận lưu niên mà thôi. Đã không là mệnh vận thì làm sao lấy đó để mà xuất hiện thêm lưu cung phụ mẫu được chứ ?!.
Cũng có thể có người ngụy biện rằng, năm mậu dần cha Đặng đã chết, thì dù năm bính tuất có nặng hơn thì lấy đâu ra người cha nữa để mà chết. Chẳng có gì đảm bảo là những năm sau năm mậu dần họ Đặng không bị nhiều tai ách nặng hơn ?.
Xin thưa rằng, đó là xem mệnh, biến cố tại mệnh, chứ không phải là xem biến cố cho phụ mẫu. Chả thế mà Thái thứ Lang đã nói. Xem hạn chết là phải tìm đến đại vận xấu nhất, rồi tìm đến năm xấu nhất, tiếp tìm đến tháng, rồi ngày, rồi giờ xấu nhất. Tìm đủ như vậy, khi đó mới dám quyết là hạn chết. Bởi vì, cái chết chỉ có một lần thôi. Còn như tìm không được, chỉ trách đó là vì mình tìm không được cái Xấu Nhất mà thôi.
Thân ái.

meoxep
07-11-10, 22:01
Cháu cảm ơn chú vuivui rất nhiều. Các bài viết của chú đã giúp cháu sáng tỏ thêm rất nhiều điều. Cháu có vài câu hỏi liên quan đến các cung hạn, rất mong chú trả lời. Cảm ơn chú rất nhiều.

1) Lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) không phải là mệnh vận lưu niên nhưng ta vẫn xét đến nó khi giải đoán cho mệnh. Nhưng khi xem như thế ta có cân nhắc đến ảnh hưởng của các cung tam hợp và xung chiếu của cung lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) lên mệnh không ạ?

2) Theo chú viết thì khi xem đại vận thì ngoài mệnh vận còn có lưu thái tuế phải không ạ? Đây là điều mới đối với cháu nên cháu hỏi cho chắc ạ.

vuivui
07-11-10, 23:17
Lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) không phải là mệnh vận lưu niên nhưng ta vẫn xét đến nó khi giải đoán cho mệnh. Nhưng khi xem như thế ta có cân nhắc đến ảnh hưởng của các cung tam hợp và xung chiếu của cung lưu niên tiểu hạn (và lưu thái tuế) lên mệnh không ạ?

Tam hợp và xung chiếu là các quan hệ tạp thành cách cục trong tử vi, nó giống như các phép toán trong các công thức toán học vậy. Sau khi cách cục hình thành, người ta mới dùng để luận giải. Cách cục hình thành từ mệnh vận thì luận đoán cho ra thông tin của mệnh tại vận đó. Có câu hỏi xuất hiện tự nhiên rằng : Luận cách từ mệnh vận cho thông tin của mệnh trong vận đó, vậy thì luận cách cục từ LNTH và Thái tuế thì cho ra thông tin về cái gì ?.
Đây là câu hỏi tự nhiên, nhưng là câu hỏi mang tính chất rất trừu tượng, do đó mà câu trả lời cũng không thể hy vọng có tính chất rạch ròi, như hai chia hai bằng một được. Ta nên hiểu như thế này.
Phàm những gì được giải đoán từ lá số tất thảy đều thuộc về những biến cố cuộc đời của đương số. Đoán về mệnh vận dài hạn, cũng như mệnh vận ngắn hạn. Có khi đều cho ra những biến cố cụ thể, mà những biến cố đó chỉ xảy ra trong thời gian một năm, thậm chí còn thời gian ít hơn một năm, nghĩa là chỉ vài tháng thôi. Nhưng cho dù chỉ là vài tháng, chúng ta cũng chỉ thấy nó thể hiện trong đại vận 10 năm, vậy mà trong vận một năm hay nhiều năm trong đại vận đó lại chẳng thấy nó xảy ra. Nhưng rồi trong một năm nào đó, và trong năm đó, chỉ có vài tháng là xảy ra. Chúng ta nói rộng ra cho dễ hiểu, chẳng hạn có số nào đó bị tù đày, nhìn trên số tổng quát thấy rõ là số bị tù. Nhưng trong thực tế thì người có số chỉ bị tù vài năm thôi, chứ không bị tù cả đời. Và vài năm đó chỉ xảy ra trong đại vận nhất định nào đó mà thôi. Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Cho nên mới có câu hỏi: Số bị tù, nhưng khi nào mới bị tù ?.
Đấy là nói về vận. Còn với LNTH và Lưu thái tuế thì hiểu thế nào ?.
Trên tinh thần hiểu như trên khi nói tính tương đối của Vận, thì cái gọi là thông tin từ LNTH và LTT cũng là thông tin về Mệnh tại vận đó. Một sự tổng hợp thông tin có được từ cả ba cung đó, sẽ cho ta một bức tranh toàn diện hơn về các biến cố đối với mệnh trong bối cảnh toàn diện của các quan hệ mọi mặt của đời sống, hơn là khi mà ta chỉ khu trú, giới hạn trong việc xét thông tin mỗi một cung vận của mệnh. Vì thế, khi thấy một cách cục trong một cung, không nên võ đoán vội ra tiêu chí ngay, mà phải xem xét trên tổng thể, nếu thấy chúng xuất hiện với tần xuất nhiều lần thì tiêu chí, hay biến cố sẽ càng chắc chắn xảy ra. Thay vì chỉ có một lần xuất hiện ở một cung, mệnh vận lưu niên chẳng hạn, thì không nên vội kết luận. Điều này càng có ý nghĩa trong hóa giải. Chẳng hạn như mệnh vận lưu niên thấy tai nạn giao thông xảy ra, nhưng tiểu hạn lưu niên lại thấy được hóa giải và lưu thái tuế lại thấy chẳng hạn như vợ con yên bình thì có thể đoán quyết là tai nạn sẽ không xảy ra, mà chỉ hú hồn thôi, hoặc giả tai nạn có xảy ra nhưng nhẹ và được cứu thoát kỳ lạ, ... Cho nên gặp những trường hợp đó rất khó nói ra, bởi khi nói ra rất dễ làm trò cười cho thiên hạ nghe giải đoán, hoặc lại bị cho là hù dọa lấy tiền, lấy danh, ... mà không nói ra thì ...đáng tiếc những trường hợp như thế lại gặp rất nhiều trong giải số.

Theo chú viết thì khi xem đại vận thì ngoài mệnh vận còn có lưu thái tuế phải không ạ? Đây là điều mới đối với cháu nên cháu hỏi cho chắc ạ.

Đúng vậy.
Thân ái.

meoxep
08-11-10, 01:05
Cháu cảm ơn chú nhiều ạ. Chú có thể giải thích kĩ thêm dùm cháu cách xem lưu thái tuế ảnh hưởng đến vợ con như thế nào không ạ? Tại lưu thái tuế không phải là mệnh vận lưu niên nên cháu không biết nó ảnh hưởng thế nào đến các cung khác ngoài mệnh ạ (vì theo cháu hiểu thì phải là mệnh vận hay mệnh vận lưu niên mới có các cung lưu, không biết cháu có hiểu sai không). Có phải là mình cũng chồng nó vào mệnh vận (cung đại vận) không ạ?

vuivui
08-11-10, 14:45
Cháu cảm ơn chú nhiều ạ. Chú có thể giải thích kĩ thêm dùm cháu cách xem lưu thái tuế ảnh hưởng đến vợ con như thế nào không ạ? Tại lưu thái tuế không phải là mệnh vận lưu niên nên cháu không biết nó ảnh hưởng thế nào đến các cung khác ngoài mệnh ạ (vì theo cháu hiểu thì phải là mệnh vận hay mệnh vận lưu niên mới có các cung lưu, không biết cháu có hiểu sai không). Có phải là mình cũng chồng nó vào mệnh vận (cung đại vận) không ạ?
Vận dụng giải đoán bằng cung lưu thái tuế cũng như các cung vận là không đơn giản, cần phải được trải qua nhiều kinh nghiệm để rèn luyện kỹ năng mới có thể hiểu thấu được những gì thu được, rằng tại sao lại đoán như thế, tại sao lại là cách cục này mà không phải cách cục kia và trên hết là tại sao đối với cùng một lá số, hai người sinh đôi, hay cùng một lá số mà khi giải đoán lại thấy giải đoán mỗi khác, đồng thời phối hợp chế hóa các cách cục trên các cung vận khác nhau để luận đoán.
Vì thế, câu hỏi của cháu muốn trả lời được cần phải thông qua những trường hợp cụ thể, sau khi thực sự luận giải được vài trường hợp, người học giải số sẽ nhận thức được vấn đề.
Cho nên, trong chủ đề này, chú cũng đã có ý định đi vào phân tích - phân tích chứ không phản biện - những bài luận của các ông TTH và TV do ông VDTT đăng trên TVLS, nhằm mục đích cho các Bạn học tử vi hiểu được những kiến thức mà các ông ấy phô bày, dù rằng là đơn sơ. Đồng thời, trong quá trình phân tích, chú cũng sẽ cố gắng trình bày các phương hướng khả dĩ phát triển - mà có thể các vị đó cũng đã đạt được rồi - về kỹ thuật luận giải và những lý luận phát khởi.
Từ từ rồi chú sẽ viết ra.

Có phải là mình cũng chồng nó vào mệnh vận (cung đại vận) không ạ?
Không ai làm thế cả.
Thân ái.

meoxep
08-11-10, 23:32
Cháu cảm ơn chú. Chờ những bài viết tiếp theo của chú :).

vuivui
09-11-10, 13:54
Chào các bạn quan tâm.
Đáng lẽ như đã nói ở trên, lần lượt chúng ta trao đổi các bài của ông TTH, sau đó mới đén TV. Nhưng hiện nay, xem ra các đề tài của ông TV đang "nóng", vì thế, tôi nghĩ nên chăng chúng ta đi vào trao đổi các vấn đề của ông TV đã được ông VDTT chuyển tải bên TVLS !.
Tôi đưa nguyên văn những bài đó của ông VDTT sang đây:

Sau đây là một bài trích từ sách “Tùng đẩu số khán nhân sinh” của ông Tử Vân. Sách này được một vị trên mạng nhận xét là thuộc loại “dao trâu chém nhẹ” ý nói mới chỉ đưa ra một phần tinh hoa của ông Tử Vân thôi.



Bài này tương đối dễ đọc, nhưng theo dịch giả vẫn có rất nhiều điều đáng suy ngẫm.


Cung phu thê

(trích dịch từ bài “Phu thê cung”, trang 82-94, sách “Tùng đẩu số khán nhân sinh”, Tử Vân, nxb Thời Báo Văn Hóa, Đài Bắc, Đài Loan, in lần thứ nhất 1993. Chú ý rằng sách này trong thập niên 80’s đã được nxb Thiên Tướng in rồi, nên “in lần thứ nhất” năm 1993 là đối với nxb Thời Báo Văn Hóa mà thôi).


Từ xưa đến nay quan niệm hôn nhân không những tùy thời đại mà khác nhau, thậm chí cùng thời đại tùy địa phưong cũng có thể hết sức khác nhau. Nếu điều tra tường tận rồi báo cáo tường tận các hiện tượng và tập tục hôn nhân của các địa phương trên thế giới hôm nay ắt phải thành một tập sách khổng lồ.



Âu Châu một vợ một chồng, nhưng lại khai phóng tình dục. Các nước Hồi giáo ở Trung Đông một chồng có thể lấy nhiều vợ, nhưng hành vi “gian dâm” lại bị lên án cùng cực. Người nước ta trừ những nguyên nhân đặc thù ra, chỉ một thiểu số có thể hưởng phúc cùng nhiều người, nam hoặc nữ có thể lén lút gặp nhau ngoặc tiếp xúc người thứ ba, nhưng không công khai. Hiện tượng này không những do pháp luật hạn chế, mà còn do lễ giáo tập tục thúc bó, nhất là Đài Loan ngày nay ở hoàn cảnh chưa mới chẳng cũ, không tàu cũng chẳng tây (dgc: nguyên văn là “bất Trung dã bất Tây”), mang hai tính mà chẳng giống tính nào, khiến cho quá nhiều cuộc hôn nhân bật lên đèn đỏ. Người chưa lập gia đình chẳng nhất thiết là đồng nam xử nữ, người đã lập gia đình quá nhiều trường hợp gặp cảnh khó khăn, lộn xộn; khiến người ta chẳng thể không hỏi hệ thống gia đình hiện nay có gì không phải hay chăng?


Hôn nhân một khi có vấn đề thì các trung tâm điện thoại kiến nghị gia đình khẩn cấp chưa chắc có đề xuất thỏa đáng, thầy Trương cũng chưa chắc có biện pháp giải quyết (dgc: “thầy Trương” không rõ là ai, có lẽ ám chỉ một nhân vật thời đại nào đó được coi là có khả năng hòa giải xung đột). Cho nên trong các cuộc đàm luận vấn đề mệnh lý,

chủ đề hôn nhân mới xuất hiện nhiều như vậy. Tôi không cho rằng người nghiên cứu mệnh lý có thể nệ theo các phương pháp cổ, dùng các phép tắc mệnh lý cổ truyền mà giải quyết thỏa đáng các vấn đề hôn nhân thời nay. Người thời nay không như người xưa phải tuân lệnh cha mẹ, dựa người mai mối, mà vẫn có thể được một đời hôn nhân mỹ mãn. Người chưa gia đình trì hoãn không lấy vợ lấy chồng chẳng phải vì bát tự thiếu cái gì đó, mà có thể vì vấn đề tâm hoặc sinh lý, vấn đề sự nghiệp, vấn đề cầu học, vấn đề gia đình, ngay cả vấn đề quan niệm hôn nhân; cũng có thể có những nguyên nhân lạ lùng khác nữa.




Luận số:

Số này do anh Lý đề ra. Anh Lý tốt nghiệp văn học Trung quốc, nghiên học quảng bác, ngoài chuyên khoa lại biết văn triết tây phương, tâm lý học, luận lý học, xã hội học, ngay cả ngành học cổ xưa của cha ông là dịch học cũng không bỏ qua.

Những năm gần đây anh Lý nghiên cứu Tử Vi. Theo anh kể thì anh chưa bái ai làm thầy, chưa học khóa bổ huấn nào, chỉ tự đọc sách nghiên cứu. Nhờ căn bản học thức sâu dày, mặc dù thời gian nghiên cứu khá ngắn, lúc luận mệnh anh đã có những lời đoán khiến người ta giật mình. Nhưng anh tự biết mình nên không vì thế mà kiêu. Ấy là vì học nhiều nên biết bể học mênh mông vô tận, có khác với một số bạn trẻ bình thường, đạt chút thành quả bèn tự coi mình như tông sư một phái, tưởng chẳng có gì không biết.

Vài ngày trước, đang giờ làm việc anh điện thoại, nói lâu quá không gặp, hỏi thăm sức khoẻ rồi bảo có một vấn đề Tử Vi gần gặp để lấy ý kiến. Vài ngày sau anh mang một giỏ trái cây đến tặng tôi.

Khi gặp mặt anh đưa ra lá số của một ông bác sĩ họ Dương rồi hỏi: “Cung thê có Tử Phá cư Sửu hội Tham Kị Linh lại không gặp Tả Hữu. Cách cục hung như thế có lấy vợ nổi không?”

(Số bác sĩ Dương: nam mệnh Quý Tị 1953, tháng giêng, ngày X, giờ Hợi; thủy nhị cục, mệnh cư Mão có Phủ độc thủ, thân cư thê ở Sửu có Tử Phá đồng cung. Năm xem số là năm Đinh Mão 1987, lúc 35 tuổi ta.

Vì phái Tử Vân không xem các sao ngày nên các lá số thường không đề ngày. Tuy nhiên ngày sinh chỉ có thể là 1, 24, hoặc 25. Xin một quý vị hảo tâm nào đó gắn dùm lá số lên. Cám ơn trước.

Vị nào thích trả lời câu hỏi của anh Lý xin cứ tự nhiên.)

vuivui
09-11-10, 13:56
Tôi chuyển tải liên tục và nguyên vẹn cho dễ theo dõi.

Cung phu thê (tiếp theo message 1)

(trích dịch từ bài “Phu thê cung”, trang 82-94, sách “Tùng đẩu số khán nhân sinh”, Tử Vân, nxb Thời Báo Văn Hóa, Đài Bắc, Đài Loan, in lần thứ nhất 1993. Chú ý rằng sách này trong thập niên 80’s đã được nxb Thiên Tướng in rồi, nên “in lần thứ nhất” năm 1993 là đối với nxb Thời Báo Văn Hóa mà thôi).



Nguyên tác bạch thoại: Tử Vân

Dịch và chú thích: VDTT



Đáp: “Tại sao không lấy nổi vợ? Số này giả như sinh sớm một hoa giáp, chỉ cần gia thế trung đẳng, người không tàn tật thì đã kết hôn trong hạn Giáp Dần (hạn thê đắc song Lộc giáp Lộc) (dgc: đây hạn Giáp Liêm hóa Lộc chiếu vào cung Hợi VCD thành thử Tí là hạn thê có Lộc Tồn nguyên thủy đắc hóa Lộc nguyên thủy và đại hạn Lộc giáp). Nhưng ông này sinh vào thời hiện đại, lại học bác sĩ, khi còn đi học thì chuyện hôn nhân sớm nhất phải chờ đến khi tốt nghiệp là hạn Ất Sửu, sau khi vào xã hội làm bác sĩ. Nghĩa là sớm nhất hạn Ất Sửu mới kết hôn. Đó là vì thời đại khác nhau, dính líu đến tao ngộ cá nhân, chẳng thể quy hết vào mệnh lý”.

Lý: “Ông BS Dương này xem ra chẳng tệ, gia thế khá, cá nhân không khuyết điểm lớn nào. Trong hạn Ất Sửu trước 31 tuổi nhiều mai lắm mối mà vẫn không thành hôn có phải vì tiên thiên thê quá hung? Khi đại hạn vào Sửu thì hạn thê ở Hợi có Văn Xương tọa thủ, xung Tham Kị thành cách hung ‘Xương Tham’ nên không kết hôn?”

Đáp: “Xét mệnh lý bình thường thì có thể nói vậy, nhưng trên số này nếu quy việc chưa kết hôn vào mặt đó cả thì tôi nghĩ là không phải. Quan trọng nhất là tổ hợp sao của BS Dương biểu thị ‘ý thức hình thái’, chọn đối tượng theo điều kiện là giỏi giang và phẩm cách tốt, không theo tiêu chuẩn ‘vợ đẹp chồng giàu’ như tục ngữ Đài Loan. ‘Ý thức hình thái’ này đúng sai chưa rõ thế nào, nhưng nếu đã giới thiệu vài người đều không chịu, cơ bản là Tử Phá được cát hóa nên quan niệm về hôn nhân rất mạnh mẽ, rõ rệt. Tử giải được cái họa của Kình, Dậu có Linh chiếu về hỏa giải Kình, là hóa sát làm dụng. Tham Kỵ từ Tị hội về tăng tính cố chấp. Đặc biệt thân cư thê nên quan niệm hôn nhân của BS Dương càng rõ rệt. Xét tình hình này tôi không cho là BS Dương không thích lấy vợ, chỉ là đòi hỏi rất rõ nét và chưa gặp đối tượng mà thôi”.

(Dgc: Sau khi đọc các sách của ông Tử Vân, tôi có nhận xét như sau, xin thưa trước rằng nhận xét của tôi có thể sai, chỉ dám bảo đảm là tôi đã đọc nhiều và nghĩ kỹ, không phải là võ đoán. Theo tôi phái Tử Vân cho rằng tổ hợp sao của mỗi cung trên địa bàn chỉ phản ảnh “ý thức hình thái” của chủ nhân lá số liên hệ đến sự việc của cung đó mà không nhất thiết những gì sẽ xảy ra ứng với sự việc của cung đó. Nói cách khác 12 cung địa bàn là 12 mặt của một tổng thể, tức chủ nhân lá số. Mười hai mặt này giao tiếp với ngoại cảnh, tạo thành những diễn biến khả dĩ đoán được, ta gọi là số mệnh. Như trường hợp hiện tại là cung thê. Tổ hợp sao của cung này phản ảnh “ý thức hình thái” của ta về chuyện tình cảm lứa đôi. Ý thức hình thái của ta như vậy, như vậy gặp hoàn cảnh cuộc đời như vậy, như vậy thì hôn nhân sẽ như vậy, như vậy. Theo quan điểm này thì mặc dù tổ hợp sao là yếu tố quan trọng, muốn biết hôn nhân hay dở còn phải thêm yếu tố “cuộc đời” vào nữa mới được, chẳng hạn yếu tố thời thế, bản thân của đối tượng ta nhắm đến v.v… Ông Tuệ Canh, một nhân vật kiệt xuất khác của làng Tử Vi Đài Loan, không thuôc phái Tử Vân nhưng đã từng thụ giáo ông Tử Vân một thời gian, đưa ra quan điểm khá tương đồng trong quyển 6 tập “Đẩu Số khai vận toàn tập.”)

Anh Lý: “Nhưng trước mắt năm nay (dgc: Đinh Mão 1987) đã 35 tuổi. Đại hạn Giáp Tí hạn thê có Nhật hóa Kị phùng Kiếp, e là khó lòng lập gia đình”.

Đáp: “Anh bị lậm vào sao rồi. Tôi vẫn cho rằng BS Dương gặp đúng đối tượng sẽ lấy vợ rất nhanh. Anh chỉ xét hậu thiên thê (dgc: tức đại hạn thê) ở Tuất, sao không để ý rằng đại hạn mệnh ở Tí được hai Lộc giáp (hóa Lộc nguyên thủy và đại hạn Lộc do Liêm xung chiếu vào Hợi VCD). Liêm Phá Vũ Lộc Quyền Khoa tụ về Sửu là cung tiên thiên thê, đối với người chưa vợ tất có ảnh hưởng tốt. Vả lại, Thái Dương hóa Kị gặp Địa Kiếp là ‘dĩ độc trị độc’, cái hung bị chuyển hóa đi, chẳng thể luận là chắc chắn xấu (dgc: Cách xem “dĩ độc trị độc” này là một đòn lạ của phái Tử Vân. Cách này xuất hiện vài lần trong các sách của ông, lần này là một). Tôi ngược lại cho rằng BS Dương năm nay có khả năng lấy vợ rất cao. Anh chuẩn bị tiền mừng là vừa.”

Anh Lý hỏi làm sao đoán ra chuyện ấy. Tôi bí mật bảo khi anh nhận được bánh đính hôn của BS Dương, chuyển qua tặng tôi thì tôi mới giải thích tại sao.



Đó là hết phần lời bàn của ông Tử Vân về BS Dương. Xin quý vị tự nhiên góp ý.



(Còn tiếp)

vuivui
09-11-10, 13:59
Tiếp theo

Cung phu thê (tiếp theo message 12)

(trích dịch từ bài “Phu thê cung”, trang 82-94, sách “Tùng đẩu số khán nhân sinh”, Tử Vân, nxb Thời Báo Văn Hóa, Đài Bắc, Đài Loan, in lần thứ nhất 1993. Chú ý rằng sách này trong thập niên 80’s đã được nxb Thiên Tướng in rồi, nên “in lần thứ nhất” năm 1993 là đối với nxb Thời Báo Văn Hóa mà thôi).


Nguyên tác bạch thoại: Tử Vân

Dịch và chú thích: VDTT


Kế đó anh Lý đưa ra lá số một cô họ Hứa. Anh luận: “Cô này tọa quý hướng quý, thân cư phu ở Tị có Cơ độc thủ, tam phương hội Kình Linh Hỏa Đồng hóa Kị nên mặc dù số tốt, tọa quý hướng quý Nhật Lương Xương Lộc, thành nữ nha sĩ nhưng đường nhân duyên mờ mịt.”


(Lá số: Nữ mệnh Canh Tí 1960, tháng 5, ngày X, giờ Hợi. Mộc tam cục, mệnh cư Mùi vô chính diệu, thân cư phu ở Tị có Cơ độc thủ. Năm xem số là Đinh Mão 1987, đã 28 tuổi ta.)


Xin quý vị có lòng tốt nào đó pốt dùm lá số: Hứa nha sĩ, dương nữ, năm Canh Tí 1960, tháng 5, ngày (7, hoặc 15, hoặc 17), giờ Hợi.

(Còn tiếp)




Đến đây tôi tạm dừng, vì đó là những bài về lá số khác, cho dù có liên quan đến BS Dương. Để tránh rườm rà.

vuivui
09-11-10, 15:04
Chúng ta hãy lưu ý. Đây là cuộc đàm thoại về tử vi. Có hỏi và đáp. Nhưng ngay từ đầu bài phrng vấn này, chúng ta không thấy câu hỏi của anh Lý, mà là câu trả lời của ông TV.

Đáp: “Tại sao không lấy nổi vợ? Số này giả như sinh sớm một hoa giáp, chỉ cần gia thế trung đẳng, người không tàn tật thì đã kết hôn trong hạn Giáp Dần (hạn thê đắc song Lộc giáp Lộc) (dgc: đây hạn Giáp Liêm hóa Lộc chiếu vào cung Hợi VCD thành thử Tí là hạn thê có Lộc Tồn nguyên thủy đắc hóa Lộc nguyên thủy và đại hạn Lộc giáp). Nhưng ông này sinh vào thời hiện đại, lại học bác sĩ, khi còn đi học thì chuyện hôn nhân sớm nhất phải chờ đến khi tốt nghiệp là hạn Ất Sửu, sau khi vào xã hội làm bác sĩ. Nghĩa là sớm nhất hạn Ất Sửu mới kết hôn. Đó là vì thời đại khác nhau, dính líu đến tao ngộ cá nhân, chẳng thể quy hết vào mệnh lý”.

Tôi không nghĩ là anh Lý chưa kịp hỏi thì ông TV đã Đáp rồi. Nên chắc là có một câu hỏi trước đó đã khiến cho ông TV quyết đoán là BS Dương cho đến thời điểm của cuộc trao đổi là chưa có vợ !. Xét lá số, thấy ngay - như theo bài thì thấy thời điểm đó là năm 1987 - là BS Dương khi ấy cỡ 35 tuổi (tuổi ta). Một người cỡ 35 tuổi, lại là BS, tức là có danh vị trong xã hội, theo anh lý nói lại không đui què mẻ sứt gì, gia thế cũng khá - giảm chút cho chắc, hơi khá - mà vẫn chưa có vợ thì đương nhiên cái chuyện thành gia lập thất của vị BS này có vấn đề. Lẽ tự nhiên ông TV phải xem xét xem hai đại vận 12-21 và 22-31 như thế nfao, nhằm giải thích tại sao hai đại vận ấy chưa có vợ.
Trước hết hãy xét đại vận 12-21.
Phàm xem số, các tử vi gia có chút kinh nghiệm, hay có chút trình độ, khi khán hôn nhân, phải hiểu nằm lòng quy tắc đơn giản sau:
Nói đến hôn nhân, về đại vận, hạn hôn nhân mạnh nhất, có sức thành tựu lớn nhất phải chính là đại vận nhập cung phu/thê hay phúc cung. Khi đó, chỉ cần có dấu hiệu, dù là nhỏ về các tiêu chí hôn nhân, mà mệnh không phá vỡ nó thì tất sẽ có kết quả thành gia lập thất. Vì thế các tử vi gia khi giải đoán đoán hôn nhân trong giai đoạn này thường rất ứng và tương đối dễ dàng.
Nhưng ngoài đại vận này, đoán hôn nhân thuộc các đại vận khác thường rất khó, phải hội tụ nhiều tiêu chí về hôn nhân mới có thể đoán định nổi. Như đã nói ở trên, tình hình đó, thoạt tiên ông TV đã loại trừ được hai đại vận trước năm 32 tuổi là BS Dương chưa có hôn nhân. Vậy thì phải xem xét đại vận từ 32 trở đi. Nhưng một người cẩn thận vẫn phải xem xét hai đại vận trước đó để giải thích cái đáp án đã có sẵn là chàng BS này chưa vợ !.
Điểm thứ hai, bao giờ cũng phải khán Mệnh cái đã. Có khán mệnh mới xem xét nổi các Vận, nếu không thì chỉ là đoán mò, hay rơi vào quan điểm của phái Mệnh - Vận phân ly. Mà ông TV thì không thuộc phái này. (cần nhớ rằng, nói mệnh là phải hiểu đó là tổ hợp mệnh - thân) Vì thế theo ông TV, thấy rằng Thân cư Thê. Ông Tv theo quan điểm bỏ Triệt, vì thế thân tại thê có cách như ông TV đã liệt kê: Tử Phá được cát hóa nên quan niệm về hôn nhân mạnh mẽ. Tại sao nói là cát hóa ?. Trường hợp này ông TV thấy Phá hóa Lộc, tử phá thành cách. Vốn Tử Phá bán hung bán cát, gia Kình dương thì hung đa cát thiểu, nói về hôn nhân thì đó là một trở ngại, gặp gỡ dễ thành, nhưng tiến xa thì dễ vỡ. Đồng thời cũng biểu hiện là người dạn dĩ với vấn đề hôn nhân, hoàn toàn không phải là người nhút nhát, e dè thổ lộ tình cảm cảm với người khác phái, mà trái lại có phần mạnh dạn, nhanh nhảu. Khi gia hội thêm liêm tham kỵ thì tính này càng mạnh mẽ, nhiều khi chỉ cần nhận thấy đối phương có chút tình ý với mình, hay có chút hòa ái là đã muốn tiến nhanh tiến mạnh rồi. Tử phá hóa lộc là hóa cát chứ không là hung, nên những vấn đề trên sẽ không còn tính "hung bạo" khiến cho đối phương phải chạy, hay phản ứng ngược lại làm cho cho đương số bẽ mặt, hoặc giả phải chắp vá với loại chả ra gì mà trái lại, mạnh dạn nhưng cố chấp, định kiến. Nói một cách dân dã là khá số sàng nhưng lại xét nét. Thành ra rất bất lọii với những cuộc tình mang tính luyến ái, tìm hiểu. ... chỉ thuận cho những cuộc tình mì ăn liền, đồng ý cái rụp. BS Dương, xét về mệnh thân và thông tin từ Lý có thể cho phép ông TV khẳng định BS Dương không phải là loại" mèo mả gà đồng" mà cũng là người có danh và giá. Vì vậy, chỉ có những cuộc tình đồng ý cái rụp là dễ thành.
Trên cơ sở như thế, đại vận 12-21, chúng ta thấy, như ông TV xác định đó là đại vận Giáp dần. Giáp thì liêm hóa lộc, hội với thê cung cố định thành cách song lộc hội hợp, lộc tồn nhập cung Dần giáp với thê cung, cùng với tuồi quý lộc tồn tại Tý nên thê cung thành cách giáp lộc và song lộc hội chiếu. Đó là cách hay với người theo quan điểm bỏ quyền - khoa không xét. Lại thấy có Đào Hồng Thanh long, thái dương hóa kỵ thành cách Thanh long Hóa kỵ thì có thể nói hội đủ điều kiện thành gia lập thất. Nhất là người có gia thế như BS Dương. Thái tuế lưu cũng nhập cùng cung đại vận mà thành cách. Nên cách thành gia lập thất càng mạnh mẽ.
Nhưng trên thực tế thì BS Dương lại chưa có vợ, không thành gia thất trong hạn này. Vậy chỉ có thể giải thích - theo ông TV, đó là do cá tính mạnh và xét nét cùng với thời đại khiến ông coi trọng sự nghiệp. Vì sự nghiệp chưa thành nên chuyện lấy vợ "hãy để lại đã, chưa muộn" đồng thời có có ý "mắt cao quá đầu" nên đại vận có cơ hội mạnh mẽ về hôn nhân đã bị bỏ qua.
Kết luận này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của ông TV, rằng cách cục trên tử vi chỉ là "hình thái ý thức", vì thế cái hình thái ý thức này đã bị quan niệm của chính đương số "làm hỏng", nên đại vận này không có hôn nhân là vì vậy.
(còn tiếp).
Chú ý: Tôi chỉ diễn dịch để mọi người hiểu ý ông TV, chứ không phản biện đúng - sai, nên không có ý kiến riêng của tôi trong các giải đoán này.
Thân ái.

vuivui
09-11-10, 23:13
Trước khi diễn dịch tiếp những câu Đáp của ông TV, tôi xin lưu ý với quý bạn đọc rằng sự diễn dịch của tôi dựa trên quy tắc suy diễn theo một trật tự có xác xuất lớn nhất, chứ không phải là sự diễn dịch theo những lô gíc nhất định. Bởi lẽ lô gíc của tư duy tuy rằng có những quy tắc chính xác, song cũng có tính tương đối và định xứ. Chẳng hạn như nói, toán học có lô gíc của toán học, sinh học có lô gíc của sinh học, kinh doanh có lô gíc của kinh doanh - như là lô gíc của toán học thì 2 công với 2 đương nhiên phải bằng 4, anh A khác anh B thì không thể anh vừa là anh A vừa là anh B mà chỉ có thể là hoặc anh A hoặc anh B. Lô gíc của sinh học thì có "cá lớn nuốt cá bé", cá thể A mạnh hơn cá thể B thì cá thể A sẽ cạnh tranh thắng cá thể B. Lô gíc của kinh doanh là không có ai là bạn vĩnh viễn và cũng chẳng bao giờ có kẻ thù vĩnh cửu, kẻ có lợi cho ta thì ta gần, kẻ có hại cho ta thì cần tránh xa - xã hội có lô gíc của xã hội, ... và theo đó, đương nhiên anh Khùng cũng có cái lô gíc riêng. Đem cái lô gíc này áp chế loại trừ cái lô gíc kia là điều không dễ, cũng khó chấp nhận và cũng chưa chắc đã phải là chân lý.
Vì thế, nếu như ông TV có quá nhiều dị biệt trong tư duy thì lẽ đương nhiên tôi không dám cho rằng những diễn dịch của tôi gần đúng với ý của ông TV. Khi đó, phiền đến các bạn, muốn hiểu được ông TV, cần phải có những suy luận khác thường tới mức - nhưng ông ta lại không trình bày - cỡ như vất tuần triệt, bỏ quyền khoa (nhưng trường hợp này ông ta đã trình bày, nên chúng ta theo đó đã ước lượng được những tầm vóc và chiều hướng suy luận cũng như kiến thức của ông ta. Khả dĩ suy đoán được những hướng suy luận của ông ta.
Vì thế, trong khuôn khổ những gì chúng ta có thể biết được từ ông ta - do đã được trình bày - thì những diễn dịch của tôi, có thể cố gắng được ở mức có xác xuất cao nhât.
Thân ái.