PDA

View Full Version : Tam mệnh thông hội - Quyển 1



AnhNgoc
19-09-09, 11:53
TAM MỆNH THÔNG HỘI

Quyển 1 :

_ Lạc thư đồ :

Ban đầu thì Lạc Thư có 1 điểm trắng 6 điểm đen tại lưng gần đuôi , 7 điểm trắng 2 điểm đen tại lưng gần đầu , 3 điểm trắng 8 điểm đen ở lưng bên trái , 9 điểm trắng 4 điểm đen ở lưng bên phải , 5 điểm trắng 10 điểm đen ở giữa lưng , đại thể như vậy .
* 1 và 6 ở phía dưới phương Bắc sanh hợi tí thủy
* 2 và 7 ở trên về hướng Nam sanh tỵ ngọ hỏa.
* 3 và 8 ở bên trái về hướng Đông sanh dần mảo mộc.
* 4 và 9 ở bên phải về hướng Tây sanh thân dậu kim.
* 5 và 10 ở giữa thuộc trung ương sanh thin tuất sửu mùi thổ , địa khí thổ nặng phân ra bốn bên vậy .

_ Hà đồ :

Tức là hà long giáo đồ vậy , ở lưng có 1 hào dài và 2 hào ngắn , 1 điểm trắng gần đuôi , 9 điểm tía gần cổ , 4 điểm xanh ở vai trái , 2 điểm đen ở vai phải , 6 điểm trắng ở gần chân phải , 8 điểm trắng ở gần chân trái , 3 điểm lục ở hông bên trái , 7 điểm đỏ ở hông bên phải , 5 điểm vàng ở chính giũa lưng . Gồm 9 vị mà sinh ra 7 màu và định phương hướng . Lấy 3 vạch : 1 vạch dài , 2 vạch ngắn mà sanh hào . Lấy tam tài mà đặt vị trí . Dịch lý từ đây phát sinh vậy .
+ Xét dịch rằng Hà thì xuất đồ Lạc thì xuất thư , Thánh nhân chưa từng nói rõ các số của đồ thư , còn như bậc hán nho xem phục nghi mà định phương vẽ quái biểu thị ngũ hành thì thuật gia cũng có cách nói của các thuật gia vậy, các số trong lạc thư mà thuật gia vạch định cũng có khác với các bậc nho học . Như Tống trình Châu lấy 1- 6 ở phía Bắc là hà đồ, điểm 9 trở về 1 là lạc thư đều cũng do các vị nho hán đời trước vậy . Trần xuyên Vương lấy phục nghi mà làm dịch phân rõ ràng 2 vạch âm dương nên nói rằng : dịch có thái cựu sanh lưỡng nghi , lưỡng nghi sanh tứ tượng , tứ tượng sanh bát quái , trước sau tự nhiên như vậy chẳng phải sức người có thể bày bố được , nay nếu cho rằng do cái số ở Hà đồ mà làm dịch thì không theo thái cực mà làm dịch tức chẳng theo luận dịch của Trọng vi ư ! Bậc thánh nhân biểu thị Hà xuất đồ Lạc xuất thư do nơi trời đất mà vẽ ra bát quái thật là thấn ý chỉ dạy của Thánh nhân vậy . Các vị Hán nho không đạt ý này mà dùng phục nghi vạch quái theo Hà đồ và sắp đặt số hạng theo Lạc thư thì quả thật là sai lầm vậy .
Trong Dịch thì trời 1,đất 2 ; trời 3, đất 4 ; trời 5 đất 6 ; trời 7 đất 8 ; trời 9 đất 10 . Trời là thuộc dương nên có số 1,3,5,7 và 9 . Đất là thuộc âm nên có số 2,4,6,8 và 10 .Đây là nói về sự sắp xếp số chẵn và lẻ của trời đất ; về tứ thời và nhị tài cũng đồng một nghĩa ấy vậy .Các số trong Hà đồ đều có quan hệ với nhau sao ? Huống nửa cách nói trời 1 đất 2 là do sắp xếp sau khi có dịch chứ chẳng phải trước khi có dịch ; vậy sao lại làm đố mà còn nghĩ Thánh nhân dựa theo đồ thư mà vạch quái ; xem như sách tri thiên hạ như Hồng Phạm ,Cửu trù , cửu thức , cửu vũ chẳng là số vậy . Cơ Tử nói : trời có sắc trắng chẳng qua là thủy thổ bằng mặt , chánh nhũ hành để bình ổn thiên hạ , khi nói 9 thì không thể thiếu 1 , đó tức là sự cảm ứng giũa Thiên và Nhân vậy , nên phải ở giữa thôi , cho nên sự thứ tự trước sau , nặng nhẹ ,nhanh chậm đều theo lẽ tự nhiên vậy .

_ Nguyên Tạo Hóa chi Thủy :

* Lảo Tử nói : ban đầu tạo hóa , trước chẳng có trên trời đất mà là mẹ của vạn vật hổn độn mà thành , hửu hình sanh ở vô hình ; thuở ban đầu trời đất có thái dịch , có thái sơ , có thái thỉ , có thái tổ . Thái dịch thì chưa có khí , thái sơ thì khí bắt đầu , thái thỉ thì mới tượng hình , thái tổ thì mới tượng chất . Khí với hình và chất hợp mà chưa tan nên gọi là hỗn luân . Trong lịch kỷ nói khi chưa có trời đất thì hỗn độn như kê tử .Trong dịch nói : dịch có thái cực sinh lưỡng nghi , lưỡng nghi sinh tứ tượng , tứ tượng sinh bát quái ,bát quái định ra cát hung .
*Dịch tử nói thái cực tức là trước khi phân chia trời đất , nguyên khí hổn độn làm mị không . Tuyền tử nói : thái sơ tức là cái lý ban đầu vậy , thái hư tức là cái khí ban đầu , thái tổ tức là cái tượng ban đầu , thái tổ tức là khởi đầu của số , thái cực thì kiêm gồm cả lý khí tượng số vậy , do số mà luận ngôn , có thể thấy trước cả hỗn luân chỉ có một khí hỗn hợp u minh hôn muội mà cái lý chưa từng ở trong ấy , cùng với đạo là một đó là thái cực . Trang tử hành đạo lấy thái cực làm đầu , gọi là thái cực tức chỉ về thiên địa nhân khí , và hình đã đủ mà chưa có tên danh , mà đạo lại khác tức huyền không để vật trước cả thái cực , không biết đạo tức thái cực , thái cực tức là đạo , lấy theo lẽ thông thường mà nói tức là đạo , lấy tột cùng của lý tức là thái cực ,sao lại thường có hai điều vậy ? cứ xem Châu tử nói ra sự kỳ bí và chu tử diễn giải phân minh , biết rõ cái lý của thái cực mà với khí tự không tương ly vậy; gọi là thái cực tức âm dương động tỉnh mà bổn thể thì không rời khỏi hình khí và rất đoan chính , biến hóa vô cùng mà lại chính xác , một động một tịnh căn gốc tương hổ ,phan âm phân dương lưỡng nghi rõ ràng , nghi tức là vật vậy ; thường thì vật chưa từng đối lập mà cũng chưa từng độc lập , trời sinh ra mà trở lại theo đất ,đất mang hình mà trở lại theo trời , trời đất có lý khí âm dương là vậy . Có khí thì có hình ,trời đất không sanh nơi trời đất mà sanh ở âm dương ; âm dương không sanh nơi âm dương mà sanh ở động tịnh , động tịnh không sanh nơi động tịnh mà sinh ở thái cực , bởi thái cực tức là cái căn bản tự nhiên vi diệu vậy ; động tịnh thì nương thừa theo sự hoạt động âm dương là nguồn gốc sở sanh vậy . Thái cực hình mà thượng đạo , âm dương hình mà hạ khí vậy ; động tịnh không chừng , âm dương không trước , đó là sự lập thành của tạo hóa vậy . ( CÒN TIẾP )

AnhNgoc
20-09-09, 11:39
_ Nguyên Tạo Hóa chi Thủy :( tiếp theo)

*Bách tề Hà tử nói : trời là dương nên động và đến khi nào cực động thì tịnh ;đất là âm nên tỉnh và đến khi nào cực tỉnh thì động . Trời không thể sanh đất , thủy không thể sanh hỏa , kẻ ngu cũng biết vậy .
Trời đất chưa lập mà đạo do nơi trời đất , khi trời đất lập thành là cái lý của thái cực , phân tán ra vạn vật là do nơi ngũ hành mà sanh , ngũ hành nhất âm dương ; 5 tiếp cho 2 chẳng hề dư thiếu vậy . Âm dương nhứt thái cực tinh hay thô vốn chẳng có bĩ thử vậy . Cái chất của ngũ hành có đầy đủ nơi đất mà khí hình thì ở tại trời . Lấy chất mà nói thì thủy , hỏa , mộc ,kim ,thổ ; thủy hỏa là duong mà hỏa kim là âm vậy , nói tóm lại thì khí dương mà chất âm vậy ; nói một cách khác là động dương mà tịnh âm bởi sự biến hóa của ngũ hành thật không thể lường được nhưng chẵng là cái tự nhiên của thái cực vậy .
* Bách tề Hà tử nói : ngũ hành nhứt âm dương , âm dương nhứt thái cực . Chu tử cũng cho rằng thái cực không ngoài âm dương , âm dương không ngoài ngũ hành vậy , nay luận thủy thủy ,hỏa hỏa , sự giao biến của kim mộc thủy hỏa thổ , trời yên ở đất mà lại là tạo hóa của vạn vật , như nói trời là thái cực nên Chu tử lấy thương thiên mà giải thích thái cực đạo trời lưu hành qua lý âm dương . Trong dịch nói : dịch có thái cực sanh lưỡng nghi , lưỡng nghi sanh tứ tượng , tứ tượng sanh bát quái , trong đó có càn có khôn tức là trời đất đều là sự phân thể của thái cực , vậy là trời tức toàn thể của thái cực mà đất là sự phân thể của trời , thật là một quan niệm sai lầm nhưng nghe qua thì tỏ như có lý vậy .

Ngũ hành sanh đều có mổi tánh , sự lưu hành của tứ thời cũng có mổi tên . Xuân thì sanh , Hạ thì trưởng , Thu thì tiêu , Đông thì táng . Xuân mà Hạ , Hạ mà Thu , Thu mà Đông , Đông mà trở lại Xuân . Sự tuần hoàn vô cùng bởi ngũ hành thì khác chất mà tứ thời thì khác khí , thế nhưng tất cả đều không ngoài âm dương , âm dương tuy khác vị , động tịnh tuy khác thời mà tất cả đều không nằm ngoài thái cực , thái cực vốn không thanh xú , có thể nói là tự tánh bổn thể vậy , cho nên ngũ hành đều có mổi tánh tức tất cả đều cùng một thái cực vậy ; tứ thời đều có mổi tên tức đều là sự vận dụng của thái cực vậy . Ngũ hành tứ thời tuần hàn xoay chuyển mà cùng một thể thái cực , tánh thì chẳng không sở tại mà lại có thể thấy vậy . Thiên hạ không ngoài tánh của vật mà tánh thì chẳng không dừng vậy , vậy nên vô cực nhị ngũ có thể hỗn dung mà vô chừng đó là sự hợp diệu vậy . Vô cực là lý mà nhị ngũ là khí , thật có lý khi nói thái cực là vô vong vậy , xét về khí thì âm dương và ngũ hành không phải là hai vậy . Ngưng tức là tụ mà khí tụ thì thành hình , bởi tánh là chủ mà âm dương ngũ hành lại ngang dọc hỗn độn tùy theo từng loại ngưng tụ mà thành hình .Dương thì mạnh nên thành nam tức cái tạo làm cha vây , âm thì thuận nên thành nữ tức cái tạo làm mẹ vậy . Đây là sự khởi đầu của nhân vật dùng khí hóa mà sanh ra . Khí tụ mà thành hình tức hình giao mà khí cảm , hình hóa nên vạn vật sinh sinh biến hóa vô cùng vậy .
* Bào lỗ Trai nói : trời đất lấy giao khí mà sanh nhân vật , thấy rằng hể có giao thì tức khí đến nên tùy theo loại từ đó mà ra vậy . Khí trời giao với đất đối với người thì nam , đối với vật thì là đực . Khí đất giao với trời đối với người là nữ , đối với vật là cái . Nam nữ đực cái tự giao mà sanh sanh hóa hóa vô cùng . Nhân vật đã sanh thì khí tùy nơi trời đất lên xuống mà giao cảm . Người có được trung khí của trời đất , khí của bốn phương đều giao cảm . Vật có được ngoại khí của trời đất mà cũng có được sự ứng cảm . Cho nên xét khi thiên địa giao khí tức biết rằng nhân vật sẽ theo đó mà sinh , khí trời đất giao cảm tức biết rằng nhân vật tương sinh vậy .
*Chu tử nói : càn tạo thành nam , khôn tạo thành nữ , thể ngưng ở buổi đầu của tạo hóa , hai khí giao cảm thì hóa sanh vạn vật lưu hành tạo hóa về sau , đây là lẽ thường vậy.
* Trương cửu Thiều nói : luận về việc trời đất sanh thành nhân vật thì ban đầu do khí hóa mà sau đó là hình hóa tức gọi là trời đất khí sanh . Còn nói về nhân vật kết thai thành hình thì đầu tiên do tụ khí tinh sau đó mới có vật , Chu tử gọi đó là tinh âm dương khí kết tụ lại mà thành hình vật vậy . Nói vậy tức người , vật , khí , hình tất cả đều không ngoài âm dương mà ra . Bẩm mệnh đã do âm dương mà sanh thì người chẳng thể đổi khác được , chẳng có năng lực gì , Vậy là có sanh mà giàu nghèo , có sanh mà quý mà tiện , có sanh mà thọ mà yểu , có sanh mà phú quý đầy đủ , mà có bần tiện cơ hàn , có sanh thọ mà trở thành yểu , có sanh yểu mà trở lại thọ . Như vậy tuy do nơi sở tích mà cũng do nơi sở tánh nên cổ nhân có câu “ nhân nặng thắng thiên vậy “, nhung nếu do nơi tánh mà được thì suốt đời phú quý hoặc suốt đời bần tiện , thọ yểu thế nào đều vậy mà chịu ; nếu cổ nhân lại nói mệnh không thể chuyển , như vậy sở tích không chuyển gọi là mệnh , sở tánh không chuyển gọi là nhân , lại có người tuy cũng là do trời đất mà sanh , cũng có bát tự ngũ hành giống nhau nhưng vì sao kẻ thì phú quý trường thọ kẻ thì bần tiện yểu mạng . Đáp rằng : hai khí âm dương lúc giao cảm thọ nhận chân tinh ngưng kết thành thai gặp lúc khí hậu trời đất thanh sáng thì bẩm chất hiền nhân trí giả ; nếu gặp lúc ô trược thì bẩm chất ngu độn hèn kém . Vậy như mà có phú quý song toàn là do đầu tiên tiếp nhận được thanh khí trời đất , sinh ra lại gặp thời đắc lịnh , kiêm có tài quan hanh thông , lộc mã vượng tướng nên vận hạn đại cát tường , dù cho có chút ít không may cũng chẳng vào hạng bác tạp . Còn hạng bần tiện thấp hèn bởi do tiếp nhận trược khí trời đất , lại sinh không gặp thời đắc lịnh , gặp hình xung bác tạp không một chút thuận mỹ thì dù không bị họa hoạn lâm tổn cũng khó tránh được trầm trệ bần cùng . Lại cũng có hạng phú mà bần , bần mà phú , quý mà tiện , tiện mà quý , thọ mà yểu , yểu mà thọ . Lại có hạng là quý hiễn mà trở thành bần tiện hoặc là bần tiện mà trở thành hiễn quý , đó bởi người trong trời đất chẳng thể giống nhau . Tứ thời ngũ hành thiện chánh được mất , trước sau sâu cạn của khí vận mà tạo nên vậy , cho nên đang lúc nguyên khí thanh nhẹ mà sanh gặp khí thời suy bại nên vận mệnh phải bị hưu tù , giàu thì bị tổn thất tài sản , quý thì bị cách chức thôi vị , thọ trở thành yểu vậy ; ngược lại nguyên khí ô trược mà sanh gặp thời trung hòa đắc lệnh , vận thế vượng tướng thì bần chẳng lâu trở thành phú , hèn chẳng lâu trở thành quý .
Tuy nhiên xét rằng nhân định thắng thiên , mạng được trung hòa , tánh có tích thiện nhưng sao không chỉ người ấy được hưởng phước mà con cháu đời sau cũng được vinh hoa phú quý ; trái lại mạng vận thien lệch , tánh chất tích ác mà con cháu đòi sau cũng vẫn bị mang họa . Theo đó mà nói thì tuy hệ thuộc mệnh cũng tại nơi người tích hay không tích mà thôi . Trong dịch nói : nhà có tích thiện tức hưởng phước có dư , nếu tích ác thì chắc phải chịu ương họa có dư là nghĩa ấy vậy .
( Còn tiếp )

AnhNgoc
21-09-09, 10:59
Nguyên tạo hóa chi thủy : ( tiếp theo )

* Canh dã Tử nói : Thiên nhất khí hóa sanh thủy , trong nước cặn đục tích lâu ngày thành thổ , nước đẩy đất trôi lâu dần thành sông núi , đất mà cứng thì thành đá mà hóa kim , đất mà mềm thì thành mộc mà sanh hỏa , ngũ hành đều do vạn vật sanh mà biến hóa vô cùng vậy .
* Tuấn xuyên tử nói : trời đất ban đầu chỉ có hai khí âm dương , dương thì hóa hỏa , âm thì hóa thủy , thủy tích cặn kết thành thổ . Như vậy thủy thổ hỏa là do trời đất hóa thành , còn kim và mộc thì do tự sở xuất chất kim đá do tích tụ lâu ngày mà thành nên đồng với nhân vật,vậy thì khí kim sinh nhân được ư , còn giữa trời đất đã có nguyên khí định tánh định chủng sẵn trước như kim có loại kim , thủy có loại thủy , người có giống người , vật có giống vật , mỗi mỗi đều đều đầy đủ , không hề sai giả vậy mà cứ cho ngũ hành tương sanh được ư . Nay các nhà ngũ hành dùng kim sanh thủy thật là quyết đoán điên đảo không biết rằng mộc lấy hỏa làm khí , lấy thủy mà dưỡng , lấy thổ làm nhà , đây là đạo lý chân thật của thiên nhiên , cho nên nếu nói thủy sanh mộc thì nếu không có thổ mộc sanh ở đâu ? ( nương đâu mà sanh ) , thủy nhiều thì hỏa diệt , thổ cũng tuyệt vậy mộc cũng tiêu luôn . Chu Tử nghi cái thuyết của các nhà ngũ hành , ngũ khí thuận bố , tứ thời chuyển hành ; không biết rằng ngày có lên xuống mà thành nóng lạnh , nóng lạnh phân bình mà thành tứ thời ; chỉ do 5 khí phân bố mà được ư ! Còn nói Xuân mộc Hạ hỏa Thu kim Đông thủy thì đều giả hợp mà luận . Thổ không nơi để trú mà chỉ phối nơi tứ quý , không biết rằng khí thổ tại nơi trời đất . Sao chẳng phải ngày , sao chẳng có nơi , sao chỉ lưu hành nơi cuối quý nguyệt . Khi mạnh nguyệt sanh thì quý nguyệt diệt . Khí đã diệt thì quy về đâu mà tới . Thiên nhất sanh thủy âm dương thủy hỏa nguồn gốc vạn vật vậy . Cho nên nhất hóa thành hỏa là ngày , lại hóa thành thủy tức vũ lộ vậy .
Nay nói thiên nhất sanh thủy , địa nhị sanh hỏa , sự vi diệu hiển nhiên của tạo hóa .
Châu tử dùng tứ thời khí lưu hành , luận số thiên địa ngũ hành , luận ngũ hành thái cực đồ , dương biến âm hợp mà sanh thủy hỏa mộc kim thổ . Xét ngũ hành phối hợp với tứ thời thì khí Xuân chỉ cho Mộc tức khí của Thổ Kim Thủy Hỏa đều bị tuyệt , Thu chỉ cho Kim tức khí của Thủy Hỏa Thổ Mộc đều bị đình chỉ . Thổ chỉ vượng ở tứ quý nên khi gặp khác nguyệt thì khí vận không thuần , vậy mà lại đặt ra ngày nay là Mộc ngày mai là Hỏa hoặc ngày mai là thổ là kim là Thủy ư !. Xét Vương thị tuy nói thì có lý nhưng chẳng đạt được sự quán sát vậy .
* Lạc cầu Tử nói : Lấy làm có tức là theo không mà lập có cũng là không vậy . Trời do tượng mà có , tượng theo nhật nguyệt ngũ tinh tam viên nhị thập bát tú . Xem Thiên nguyên hội thông mà đặt tên phân cỏi ấy cũng do người làm mà thôi , nghĩa của tượng phù hợp cho đến sự tốt xấu hoặc thuộc loại sự nào , hoặc chỉ mỗi phương ứng cho năm tháng ngày nào , tuy đạo trời sâu xa cũng không ngoài nhân sự và ngũ hành . Nhà âm dương dùng 10 can 12 chi mà phân ngũ hành , do ngày với trời hội lại mà thành năm , tháng với ngày hội lại mà thành tháng , ngày có 30 giờ có 12 , dùng can chi năm tháng ngày giờ của nhân sanh lập ra tứ trụ để biết một đời tốt hay xấu , ấy cũng cái lý tự nhiên vậy .Vương thị lấy Xuân thuộc mộc mà Thổ ở đâu , không biết ngũ hành vượng tướng hưu tù tử , các loại có đúng thời hay không đúng thời , dùng được việc hay không dùng được mà lại nói chẳng là Xuân mộc vượng còn thổ thì không , 10 can 12 chi lẩn lộn thành lục thập Giáp tí , xoay vòng trở lại an bài không sai , đó tức sổ sanh của tạo hóa vậy ; nếu không cho hôm nay thuộc mộc ngày mai thuộc hỏa thì cũng phủ định sự tự nhiên của đạo trời , không nghĩ rằng người lập mà trời theo , người cảm mà trời ứng , đó tức cái lý thiên tượng mà đặt tên phân cõi cái đạo hợp nhất của Trời và người vậy . Xem một ngày có sớm trưa muộn chiều , tự đã có khí hậu ôn lương hàn nhiệt tức đã có đủ kim mộc thủy hỏa thổ trong một ngày , ngũ hành không tương ly như vậy , nếu nói hôm nay mộc ngày mai hỏa tại sao chẳng là không đúng với sự tự nhiên của đạo trời đó ư . Còn nhà nước làm lịch cho thiên hạ ,một năm có 365 ngày , trong đó có phương vị thần sát , mỗi tháng thiên hành đắc vượng mà trong mỗi ngày lại có hắc hoàng cát hung , việc nên làm hoặc không nên làm , người theo đó thì được phước, làm sai thì mang họa . Thật là vô lý cưỡng tạo vậy mà thiên hạ đều cùng tuân theo . Lại như thuật xem tướng xét sắc xanh vàng đỏ trắng đen mà đoán họa phước ứng theo mổi năm tháng ngày giờ , Xanh thì Giáp Ất , vàng thì mậu kỷ , đỏ thì bính ngọ , trắng thì canh tân , đen thì nhâm quý một hào không sai . Xem bệnh cũng vậy có thể thấy rằng can chi tuy đã có trong ngày mà tạo hóa cũng không ngoài ấy vậy . Lại có người dựa vào mộng mị mà nói sự cát hung , hoặc lấy ý mà đoán , hoặc lấy vật tượng hoặc do tự giải đều ở người làm vậy . Như Phục nghi vẽ quái ngưỡng xét gần xa là có được cái lý trời đất nhân vật nên bát quái do đó mà thành vậy . Nay nói về âm dương thì tuy là sự biến hóa cùng cực của trời đất , thám xét sự vi diệu của nhân vật , cùng hợp với cái đức của trời đất , hợp với cái sáng của nhật nguyệt , hợp với tụ của tứ thời , hợp với sự cát hung của quỷ thần ; sao có thể ngoài can chi ngũ hành mà có riêng tạo hóa cho đến trời đất nhân vật ư . Nay Vương thị tuy tôn trọng dịch mà lại không tin vào cái thuyết của nhà âm dương ấy là biết lý mà không biết số vậy , lý và số hợp nhất thì trời người cũng vậy .
[/SIZE]

AnhNgoc
23-09-09, 13:22
_ Luận ngũ hành sanh thành :
Trời cao mở ra 6 khí quay vòng mà thành tứ thời , đất sâu u thâm ngũ hành hóa sanh mà thành vạn vật , thật khó mà đo lường tận cùng được vậy . Thánh nhân lập pháp suy tính cũng nhiều bởi vậy không thể bỏ đi cái số được , và do nơi sự tự nhiên mà lập ra số, không khác gì trong kinh điển theo đó mà đạt được cái huyền cơ và thông cùng được sự biến hóa , tất cả đều không rời trong số mạng , một là thủy ,hai là hỏa , ba là mộc , 4 là kim , 5 là thổ đều có sẳn vậy .
Thủy ở phương Bắc thuộc Tí vị ,Tí là bắt đầu của dương , số 1 là số dương nên thủy là 1 . Hỏa ở Phương Nam thuộc Ngọ vị , ngọ là bắt đầu của âm , số 2 là số âm nên hỏa là 2 . Mộc ở phương đông , đông là dương nên số 3 là kỳ số thuộc dương . Kim ở phương Tây thuộc âm , 4 là ngẩu số cũng thuộc âm nên kim là 4 . Thổ ứng ở Tây Nam trưởng hạ , 5 là kỳ số cũng thuộc dương nên thổ là 5 . Do đó mà luận thì số lấy âm dương mà phối vậy , nếu có thêm nghĩa thì thủy sanh ở 1 , trời đất chưa phân , vạn vật chưa thành , cũng chẳng phải thấy có thủy trước nên trong lịnh xu kinh nói : Thái Ất là tôn hiệu của thủy , trước là mẹ của trời đất sau là nguồn gốc của vạn vật , nay nghiệm rằng cỏ cây , quả hạt , con người , sâu bọ , đến loài ( nhân trùng ) động vật thai noãn thai phôi đều có thủy , không phải là như thế ư ! ; vả lại thủy tụ nên hóa thành hình chất , vậy chẳng là khí âm dương sao ; những vật nhỏ mà chát đắng tức là hỏa , trái cây chín ngọt mang vị thổ ,hết ngọt trở thành nhạt , nhạt là vị mộc vậy . Đương nhiên loài người do sự hòa hợp âm dương nam nữ mà thành , trước sanh hai quả thận , thận trái thuộc thủy , thận phải thuộc hỏa , hỏa là mệnh môn nên nhân có thủy sau đó mới thấy hỏa nên xưa gọi hỏa là thứ 2 , Nói chung cỏ cây , quả hạt , các loại côn trùng khác nhau cũng đều do hai thứ tương hợp nhau giống như thận của con người có âm dương vậy . Cho nên vạn vật nếu không có sự hòa hợp âm dương thì không thể hóa thành vậy . Đã có sự hòa hợp âm dương nên sau này mùa Xuân đơm hoa , Mùa Thu kết trái , nên người xưa xếp tiếp thứ ba Mộc , thứ tư là Kim . Có thể nói thủy có sở thuộc , hỏa có sở tang , mộc có sở phát , kim có sở biệt , tất cả đều do thổ mà thành cho nên thứ 5 là thổ . Mộc cư ở Đông , Kim cư ở Tây , Hỏa cư ở Nam , Thủy cư ở Bắc , Thổ cư ở trung ương mà gửi nơi tứ duy ứng lệnh nơi tứ quý , tại người là tứ chi , cho nên kim mộc thủy hỏa đều chờ nơi thổ mà thành do đó thổ kiêm gồm mà thành số 5 vậy , thủy 6 hỏa 7 mộc 8 kim 9 , thổ cũng thường lấy số 5 mà sanh không thể đến 10 tức thổ không đợi đến 10 mà thành , do số sanh thành nên đều lấy 5 mà hợp , từ đó suy rộng ra mà lập số , do lẽ ấy nên vạn vật không thể ngoài số mà có được . Ngũ vận thái quá thì số thành , bất cập thì số sanh tất cả đều lấy số sanh thành nhiều hay ít mà dùng chánh lịnh khí hóa vậy .
* Châu tử nói : Ngũ hành lấy nhất sở sanh mà nói thì thủy nguyên là thấp khí của dương , ban đầu bị âm hảm không được đắc nên thủy âm thắng hỏa .Đó là âm táo khí , dùng ban đầu động dương mà không đạt nên hỏa dương thắng ,cho nên sanh thành thai hình cuối cùng thành hình vậy ; tuy có hình mà chưa thành chất thì dùng khí thăng giáng thổ khong chế được vậy . Mộc là thấp khí của dương , cảm nhận nhiều nơi âm mà phát ra mộc nên chất thì nhu và tánh thì ấm . Kim là âm táo khí , cảm nhận nhiều ở dương mà kết thành nên kim chất của kim thì cứng mà tánh thì lạnh . Thổ là khí thanh của âm dương tương giao ngưng lại mà thành chất . Theo hành khí mà nói thì một âm một dương tới lui tương phạt mà Mộc Hỏa Kim Thủy Thổ đều tựu ở đó rồi phân ra lớn bé vậy , cho nên các thứ đều từ bé mà lớn vậy .Chất do âm dương giao thác ngung hợp mà thành , khí thì do âm dương hai mặt tuần hoàn mà ra , chất là thủy hỏa mộc kim bởi vì nếu lấy âm dương mà nói thì Đông nam Tây bắc chỉ là sự đối đải vậy . Khí là Mộc Hỏa Kim Thủy tức nói theo nghĩa nhân duyên tương hợp của âm dương , cho nên nói đông nam tây bắc tức là sự lưu hành vậy . Chất tuy bất định mà không khác , khí thì biến hóa mà vô cùng , đó là Dịch vậy .( Còn tiếp )

AnhNgoc
24-09-09, 11:49
_ Luận ngũ hành sanh thành :( Tiếp theo )

*Trình Tử nói : động tịnh là cái gốc của âm dương , cái vận của ngũ hành , chẳng thể giống nhau vậy .
* Trương Tử nói : mộc khúc trực thường khúc khuỷu mà trở thành thẳng , kim là thay đỏi mà thường không phản ,khí thủy hỏa vậy , cho nên nóng thì ở trên , mát thì dưới cùng với âm dương thăng giáng thổ không chế được vậy, mộc và kim là hóa thật của thổ vậy , mà tánh thì hỗn tạp cả thủy và hỏa cho nên mộc là vật được thủy thấm mà sanh riêng ra hỏa nhưng không tạp vậy bởi được cái phù hoa của thổ là chỗ tương giao của thủy hỏa vậy . Kim là vật có được cái tinh của hỏa ở nơi khô táo , có được cái tinh của thủy ở nơi thẫm ướt , vậy cho nên thủy hỏa tảo mà không tương hại vậy , nung nấu lưu chảy mà không hao , được cái tinh của thổ , thật đúng thủy hỏa ký tế vậy . Thổ là vật có thủy có chung , là chất của đất vậy , là sự biến hóa cùng tận vậy . Thủy hỏa sở dĩ là vật thăng giáng kiem cái thể mà không thay đổi vậy . Lại nói dương hảm nơi âm là thủy , âm phụ noi dương là hỏa .
* Chu Tử nói : Mộc là bắt đầu , Thủy là sau cùng và Thổ ở giữa . Theo số của Hà đồ Lạc thư mà nói thì Thủy 1 , Mộc 3 mà Thổ thì 5 , tất cả là số dương sanh không thể khác vậy , cho nên được cho là để lập cái kỹ cương của ngũ hành . LẤy đức mà nói thì Mộc phát sanh tánh mà Thủy là cái thể trinh tinh còn Thổ thì như mẹ bao dưỡng , cho nên Thủy bao dưỡng cả ngũ hành để lưu thông quán triệt và không hề dừng vậy , còn Mộc thì bao cả ngũ hành để quy về nguồn gốc mà ẩn chứa vậy , và Thổ là nơi nương tựa của Thủy Hỏa Kim và Mộc như của cải định yên ở giữa bốn phương , chỉ một thể mà chứa cả vạn loài vậy . Lại nói Thủy Hỏa thì thành còn Kim Mộc là trược và Thổ cũng trược .
*Thiệu Tử nói : Kim Hỏa tương thủ thì lưu , Mộc Hỏa tương đắc thì đốt nóng theo loại Thủy gặp lạh thì kết , gặp Hỏa thì kiệt . Theo đó mà phân vậy .

AnhNgoc
25-09-09, 11:53
_ Luận ngũ hành sanh khắc :


* Ngũ hành tương sinh tương khắc hiễn nhiên là vậy . Mười can 12 chi , ngũ vận , lục khí , năm tháng ngày giờ đều do đây mà lập , theo đây mà dùng . Ở thiên tức là khí , nóng lạnh khô ước gió . Ở địa thì thành hình , Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ hình và khí tương cảm với nhau mà hóa sanh vạn vật , đây là sự sanh thành của tạo hóa vậy .Sự diệu dụng quả là vô cùng .
* Mộc chủ ở phương Đông ứng với mùa Xuân ,mộc khí vậy . Khí dương xúc động bao trùm lên đất mà sanh . Thủy lưu ở phương Đông mà sanh Mộc . Mộc phát lên trên rồi trở xướng dưới ấy là bẩm chất tự nhiên vậy.
* Hỏa chủ ở phương Nam ứng với mùa Hạ , Hỏa tức là hóa , là hủy vậy , dương ở trên âm ở dưới . Hủy nhưng thạnh mà biến hóa ra vạn vật . Khoan mộc để lấy Hỏa nên Mộc sanh Hỏa , Hỏa không có chánh thể và thể ở nơi mộc vậy , ứng với vật thế nào thì Hỏa có hình thế ấy và bùng lớn lên ấy là cái lý của tự nhiên vậy .
* Kim chủ ở phương Tây , ứng với mùa Thu , Kim còn gọi là cấm , do nơi vạn vật thu liễm âm khí mà tạo thành , do Thổ mà sanh và cũng biệt nơi Thổ , đó là lý lẽ tự nhiên vậy .
* Thổ chủ ở trung ương kiêm ở vị Tây nam ứng vào trưởng hạ . Thổ còn gọi là thổ ( nhả ) vậy , ngậm nhả vạn vật, hể sanh thì xuất , hể tử thì quy về , là nhà của vạn vật cho nên trưởng ở Hạ và là sanh thành ra Hỏa mộc vậy
* Thủy ở phương Bắc ứng với mùa Đông , Thủy nhuận vượng , khí âm nhu nhuận làm nhiệm vụ nuôi dưỡng vạn vật . Thủy từ Tây sang Đông , là do Kim sanh , Thủy chảy ngoằn ngoèo khúc triết , xuôi xuống luồn lách mọi nơi là bản tính tự nhiên vậy .
* Ngũ hành tương khắc , tất cả các con đều thù đắp cho mẹ vậy . Mộc khắc thổ mà con của Thổ là Kim trở lại khắc mộc . Kim khắc Mộc thì Hỏa là con của Mộc sẽ trở lại khắc Kim . Hỏa khắc Kim thì Thủy là con của Kim sẽ trở lại khắc Hỏa . Thủy khắc Hỏa mà Thổ là con của Hỏa sẽ trở lại khắc Thủy . Thổ khắc Thủy thì con của Thủy là Mộc trở lại khắc Thổ . Trước là giúp và tương sanh , sau thì giúp mà tương khắc , tất cả đều cùng xuất nơi tánh của trời vậy . Do đó Thủy sanh Mộc , Mộc trở lại sanh Hỏa vậy là Mộc bị mất khí nên Thủy giận mà khắc lại Hỏa . Đó là ý nghĩa mẹ con tương trợ cứu nhau khi bị mất khí vậy .
* Mạnh có thể đánh yếu , Thổ nhờ có Mộc mà đạt . Thật có thể thắng hư , Thủy gặp Thổ mà tuyệt . Âm có thể tiêu dương , Hỏa đắc Thủy mà diệt . Nóng có thể địch cứng , Kim gặp Hỏa mà khuyết tan . Cứng có thể chế mềm , Mộc gặp Kim mà bị phạt . Ngũ hành lưu chuyển luân phiên , thuận thì tương sanh , nghịch thì tương khắc , tất cả đều luân chuyển mà thành đạo vậy.

AnhNgoc
26-09-09, 10:37
_ Luận can chi nguyên lưu :

• Can là gốc mạnh của cây và là dương . Chi là nhánh yếu của cây mà là âm . Xưa Bàn Cổ hiểu rõ cái đạo của trời đất, đạt được sự biến hóa âm dương , làm tam tài chủ tể , dùng thiên địa phân định về sau . Trước có trời mà sau có đất , do nơi khí hóa mà sanh người vậy , cho nên Thiên hoàng có 13 người cùng họ kế tục sự trị vì của Bàn cổ , vì trời kia đạm bạc vô vi tự theo đó mà làm , trước thì tạo tên can chi để định năm sở tại . Thập can là : Yên phùng , Chiên mông , Nhu triệu , Cường vũ , Trước ung , đỗ duy , Thượng Chương, Trùng quang , Huyền mặc , Chiêu dương . Thập nhị chi là : Khổn dôn , Xích soán nhược , Nhiếp đề Cách , Đơn Yên , Chấp từ , Đại hoan lạc , Đôn hiệp , Hiệp Than , Tác ngạt , Yêm mậu , Đại uyên hiến , Thái ấp độc . Can chính là gốc , tên thì có 10 cũng gọi là thập mẫu , nay gọi là Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quý . Chi là thân , tên thì có 12 còn gọi là thập nhị tử , đó là tí , sửu , dần , mảo , thin , tỵ , ngọ , mùi , thân , dậu , tuất , hợi .Thiên hoàng lấy nơi thiên mà khai nơi tí . Địa hoàng thì lấy nơi địa mà mở ra sửu nghĩa là vậy . Còn Nhân hoàng thì lấy nơi nhân mà sanh ở dần vậy . Cho nên cái tên can chi trước ở Thiên hoàng chế thời mà địa hoàng thì định tam thần phân ra ngày đêm , lấy 30 ngày làm một tháng mà can chi đều có thể phối hợp . Nhân hoàng là chủ thực chứ không phải hư , như Vua tôi là thật chứ không phải hư , cái lẻ Vua tôi từ đó mà có , việc ăn uống , nam nữ từ đó mà có , khi đã có khí âm dương của trời đất mà phân ra mẹ con , đó tức là can chi sở thuộc vậy . Đến như Phục nghi ngưỡng xem thiên văn cúi xem địa lý , ở giũa thấy vân vật với con người mà vẽ ra bát quái để chỉ cái đức của thần minh , để bày cái tình của vạn vật , từ đó dùng làm ra văn tự của Lịch vậy . Đợi đến khi Hoàng đế nhận Hà Đồ , thấy được cái tượng của nhật nguyệt tinh thời thế là bắt đầu có sách tinh cung , đặt Giáp tí phối thuộc ngũ hành nạp âm .
• Lộ Sử nói : Phục nghi mệnh tiềm long nên đến hoàng đế mệnh mới khai triễn cái tính của ngũ hành , xét hai cách trong thiên thư dùng 10 can 12 chi mà diễn thành 60 lấy nạp âm mà định tên , nạp âm tức là Giáp tí , Ất sửu Hải trung Kim …v…v….vậy . Phong lại giải thích ra mà dùng tam mệnh vậy . Bỉ thuật gia lấy Hoàng đế mà định thiên can thập tự thuộ Đồ của Hà , địa chi 12 thuộc loại của Thư , dùng Quỷ cốc Tử mà thành nạp âm , còn Đông phương Sóc giã tượng của nạp âm , tất cả đều không hiểu cái nguồn gốc mà vọng ngữ cả vậy.
• Tuấn châu vương thị nói : xưa làm sách Giáp tí không có cùng mà chỉ do thời ngẩu để định ra ,nếu xét rõ nguồn gốc thì ngày tháng đầu tiên chuyển ngày sau đó mới là Giáp tí vậy . Trời khai mở khi chưa có đất, đất an bày khi chưa có người , theo đó làm căn bản mà truyền dẫn 12 thần . Cái vận của trời đất xoay chuyển hoàn nguyên , cứ mỗi một nguyên thì trở lại đầu , ngày thì mỗi 12 thời lại trở về tí , không phải chỉ có một nguyên rồi thôi huống chi cái độ của nguyên lịch biến hóa ngưu đẩu mỗi năm càng sai xa vậy . Lịch đời sau cứ theo đó mà làm chỉ cần cho hợp thời mà thôi cho nên lịch xưa từ đó mà mất vậy . Nay nói Giáp tí tức thật có Mộc khí làm chủ , mà nói nay mộc mai hỏa kia thổ cũng không láo ư ! Hoặc nói đại rằng chiêm đẩu nhuế mà tạo Giáp tí túc là rời cái gốc trời đất , cho nên lịch nguyên dùng tháng Giáp tí ngày giáp tí giờ giáp tí là không nghĩ đến chiếm đẩu nhuế mà chỉ có thể định 12 tháng .Trời đất sơ khai mở ra ngày tháng như hợp bích , ngũ tinh như liên châu đều khởi đầu nơi khiên ngưu mà sau đó là nữa đêm đông chí , dây là tư pháp cho nên Mạnh tử dùng lịch lấy can tuế có thể chắc chắn mà làm .
• Nay xét lịch bây giờ thì sự khai mở của trời đất cũng là số vậy , có trời đất ban đầu ư ! , có nhật nguyệt sơ chuyển ban đầu ư ! , văn tự không thông , thiên vận không có căn cứ mà lại đặt được thư sách như vậy ư ! . Nhưng xưa nay các bậc cao nhân đạo sĩ xem xét thiên số , quyền sát âm dương , lấy số Thái Ất mà đặt thien vận cát hung , lấy Lục nhâm mà đặt nhân sự cát hung , láy Kỳ môn mma2 đặt địa phương cát hung , lấy năm tháng ngày giờ mà định một đời người cát hung , nếu nói như Vương thị ở trước thì không đủ tin vậy .

AnhNgoc
28-09-09, 17:01
_ Luận nghĩa thập can danh tự :
Thiên khí khởi đầu nơi can Giáp, địa khí khởi đầu nơi chi tí . Thánh nhân theo đó mà xét cứu để dùng khí âm dương khinh trọng , soạn ra chương đức đặt nên biễu sự , do nơi can Giáp tương hợp sau đó mới thành theo từng năm mà thống cả 60 năm , có thể chỉ chọn một ngày mà biết rõ 12 thời tuế vận doanh hư , khí lịnh sớm muộn vạn vật sanh tử . Lấy nay nghiệm xưa , nếu có hiểu được thì chẳng khác vậy ,nơi cái chi tiết mà biết chưa có điềm họa phước , dùng hay thì xét được cái hướng đến của sanh tử tức là đã tinh vi được ý nghĩa có thể cho là to lớn vậy .
Đông phương Giáp Ất , Nam phương Bính Đinh , Tây phương Canh Tân , Bắc phương Nhâm Quý , trung ương Mậu Kỷ là vị của ngũ hành vậy .
Bởi vị của Giáp Ất là Mộc đắc lệnh ở Xuân , Giáp là dương mà trong âm gồm loài thảo mộc nên Giáp đầu tiên vậy , Ất là qua nửa dương nhưng chưa được chánh phương nên Ất chịu sau vậy , vạn vật đều từ Giáp mà ra .
Bính Đinh là hỏa vị đắc lịnh ở Hạ , Bính có dương trên mà âm dưới ,âm trong mà dương ngoài , Đinh thì dương mạnh nên tương thích cùng âm khí , vạn vật được tỏ rõ to mạnh vậy .
Mậu Kỷ là Thổ vị , can hành ở tứ quý , Mậu là dương thổ , vạn vật sanh mà mất ở đó , tách ra mà nhập vào ; Kỷ là âm thổ , không nơi sở cứ nên do chỗ Mậu mà khởi Kỷ vậy . Thổ hành nơi cuối tứ quý , vạn vật xanh đẹp ,khuất ức mà khởi ra vậy .
Canh Tân là Kim vị , hành lệnh ở Thu , Canh là âm can mà đổi thành dương tiếp tục vậy . Tân là dương ở dưới mà âm ở trên , âm đến dương hết ở đó nên Canh củ mà đổi qua Tân . Canh Tân đều là Kim , Kim có vị Cay , vật có thành rồi sau mới có vị .
Nhâm Quý là Thủy vị hành lệnh ở Đông . Nhâm là vị dương sanh , Nhâm gọi là Thai , vạn vật hoài thai nơi Nhâm cùng với Tí tương ý , Quý là … vậy , là thiên lệnh đến đây , vạn vật đọng lại rồi hoài thai mà sanh ấy là cái đạo trời vậy . Nên trong Kinh nói : Thiên có 10 ngày , ngày 6 thời mà tuần hoàn vậy , một Giáp thiên địa có Bính Mậu Canh Nhâm là dương , Ất Tân Đinh Quý là âm , ngũ hành đều có một âm một dương cho nên có 10 ngày vậy .

AnhNgoc
29-09-09, 13:07
_ Luận thập nhị chi :
• Dương thanh là thiên , ngũ hành rõ ra làm 10 can , trước âm là địa , định nơi 8 phương mà phân 12 chi . Vận đổi khí đi , từng năm mà ứng khí doanh khí hư , thăng lên giáng xuống , mọi vật biến hóa theo thời kỳ cho nên can chi phối hợp mói thật diệu dụng vậy . Tí là Bắc phương hàn âm thủy vị và nhứt dương bắt đầu sanh nên gọi là âm cực thì dương sanh . Nhâm là thai mà tí là con , đây là thời của tháng 11 vậy , đến sửu âm chuộng lấy mà buộc lại , cũng là trợ thêm vậy , đây là tháng 12 tức cái vị cuối cùng , nương theo đó mà có tên ( sửu ) . Dần là chánh nguyệt , dương đã ở trên âm đã ở dưới , là cái thời bắt đầu nhân sự vậy , là diễn vậy , là tân vậy . Mảo là thời nhứt thăng , vả lại mảo là xanh tươi nên nói rằng tháng hai dương khí thạnh , khí dương đã quá nữa thì cái thời của tháng 3 đến , vạn vật rung động mà liền nối nên gọi là Chấn vậy . Tị là tháng 4 chánh dương không có âm , từ tí đến đậy là dương tận , vật tận cùng để qua ngọ , vì dương còn chưa khuất nên thái âm sanh mà làm chủ gọi là ngọ tức tháng 5 đều phong mãn trưởng đại . Mùi là tháng 6 còn gọi là Vị , vật thành mà có vị cùng đồng với tân . Thân là tháng 7 , Thân đã là dương , khi âm đến Thân thì trên dưới đều thông . Bạch lộ là thời kỳ lá rụng vậy , có thể nói âm sự đã thành , lại nói thân tức thân thể tức là vật thể đều thành vậy , là thời gian mặt trời lặn về Tây và dương chánh ở giữa mặt trăng . Đến Dậu thì vạn vật thâu liễm vậy . Qua tháng 9 Tuất là dương chưa gởi , mọi sự chất chứa nơi Tuất , Tuất còn là Càn vị cho nên Tuất là Thiên Môn vậy , bởi Tuất mà diệt thì vạn vật đều suy vong vậy . Tháng 10 Hợi là tháng thuần âm , Hợi là hiệu nên nói rằng âm khí hiệu sát vạn vật , đây là cái đạo của đất vậy .Các tên tháng qua đây mà có vậy .

• Can Giáp là thiên ngũ hành nói theo ý nhứt âm nhứt dương . Tí chi là địa ngũ hành nói theo ý phương ngung , nên Tí Dần Ngọ Thân là dương và Mão Tỵ Dậu Hợi là âm . Thổ ở tứ duy cho đến tứ quý thì hết . Thổ có bốn thời Thìn Tuất là dương , Sửu Mùi là âm nên có số không đồng nhau , hợp tức là 10 phối với 12 mà thành 60 ngày , vòng 6 nhân 6 mà thành năm . Trong Kinh nói Trời lấy 6 nhân 6 mà làm tiết để thành một năm là nghĩa đó vậy . Trần Bác nói : Thên can khởi ở Giáp mà hết ở Quý là số của Hà Đồ sanh vậy . Địa chi khởi ở Tí mà hết ở Hợi là số kỳ ngẫu của Lạc Thư vậy . Dương tự về gốc , lục biến thành Càn đủ ở dương . Âm tự trở lại gốc lục biến thành Khôn âm . Hiệp hai lục lại mà thành 12 thời vậy . Can dương gồm Giáp Bính Mậu Canh Nhâm , can âm gồm Ất Đinh Kỷ Tân Quý . Chi dương gồm Tí Dần Thìn Ngọ Thân Tuất , chi âm gồm Sửu Mão Tỵ Mùi Dậu Hợi . Thepo pháp dùng can dương phối với chi dương , âm can phối với âm chi . Do Mộc ( cây ) mà có Can có Chi . Từ đầu là Giáp Tí , dùng lục Giáp ngũ Tí mà lần lượt an bài cho đến tận Quý Hợi . Vẫn lấy số can chi mà kê thành số , tổng số can chi trừ cho số 5 còn thừa bao nhiêu lấy đó mà định canh âm ngũ hành tức là Nạp Âm Lục Giáp . Thánh nhân theo đó mà dùng , phân kim 60 vị mà phân bổ ra 24 vị . Lấy chánh ngũ hành làm chủ các cung , dùng Lục Giáp đại ngũ hành mà làm sách , xét phân kim khí Thai Dưỡng Suy Tử để định quẻ Cô Hư Vượng Tướng , trong có Mậu Kỷ là quy giáp không vong , Giáp Ất làm bổ tiếp cho không, ấy là âm dương tiêu tức . Thường lập táng , thừa khí , định mệnh , nạp âm đều theo đấy vậy .

AnhNgoc
30-09-09, 11:25
_ Tổng luận nạp âm :

• Thường khi viết lách đàm luận Lục thập Giáp tí nạp âm có 60 luật làm gốc tương vòng thành cung vậy , mỗi mỗi đều gồm ngũ âm . Phàm thì dương khí khời đầu ở phương Đông rồi hành qua phải , âm khí khởi ở phương Tây rồi hành qua trái . Âm dương tương thác mà sanh biến hóa . Gọi là khí bắt đầu ở phương Đông mà tứ thời bắt đầu ở Mộc , hành qua phải thì truyền ở Hỏa , Hỏa truyền qua Thổ , Thổ truyền qua Kim , Kim truyền qua Thủy . Gọi là gốc ở phương Tây tức ngũ âm khởi đầu ở Kim , hành qua trái truyền ở Hỏa , Hỏa truyền qua Mộc , Mộc truyền qua Thủy , Thủy truyền qua Thổ .
• Nạp âm trong Dịch cũng cùng một pháp . Càn nạp Giáp , Khôn nạp Quý , bắt đầu ở Càn mà hết ở Khôn . Nạp âm đầu ở Kim , Kim tức là Càn vậy , kết ở Thổ , Thổ là Khôn vậy . Ở trong ngũ hành chỉ có Kim luyện mà thành khí, thanh âm rất rõ vang xa , cho nên nạp âm đầu là Kim vậy .
• Pháp nạp âm tương tự như lấy vợ , cách 8 mà sanh con , là pháp âm luật tương sanh vậy . Giáp Tí Kim thân đồng vị lấy Ất Sửu cách 8 mà sanh Nhâm Thân là Mạnh . Nhâm Thân đồng vị lấy Quý Dậu cách 8 ngôi mà sanh Canh Thìn Kim là Quý . Canh Thìn đồng vị lấy Tân Tỵ cách 8 mà sanh Mậu Tí Hỏa là Trọng . Mậu Tí lấy Kỷ Sửu sanh Bính Thân Hỏa là Mạnh . Bính Thân lấy Đinh Dậu sanh Giáp Thìn Hỏa là Quý . Giáp Thìn lấy Ất Tỵ sanh Nhâm Tí Mộc là Trọng . Cứ như vậy Tả hành đến Đinh Tỵ trung cung . Ngũ âm hết trở lại Giáp Ngọ Kim mà truyền . Giáp Ngọ lấy Ất Mùi cách 8 mà sanh Nhâm Dần , cứ theo pháp Giáp Tí cho đến Quý Hợi . Từ Tí đến Tỵ là dương , cho nên từ hoàng chung đến trung cung là dương đều hạ sanh ; từ Ngọ đến Hợi là âm , nên từ lâm chung đến ứng với chung đều thượng sanh . Nói thượng hạ sanh tức là thiên khí hạ giáng địa khí thượng thăng vậy .
• Dịch nói thiên địa giao thái cũng chính là cái nghĩa ấy vậy , nhưng sở sanh chỉ có ba tức cũng có nghĩa tam nguyên cho nên trong sách nói tam mà thành thiên , tam mà thành địa , tam mà thành nhân tượng hào trong Dịch vậy .
• Lão tử nói : nhất sanh nhị , nhị sanh tam , tam sanh vạn vật , bởi có trước mới có sau vậy . Lại xem Hư lạc sử nói : Giáp Ất mộc , Sửu Mùi Thổ , Tí thủy mà Ngọ hỏa , sáu thứ này không có kim mà phối hợp Phong hậu bèn lấy Giáp Tí Ất Sửu , Giáp Ngọ Ất Mùi mà xuất kim , số cũng vậy mọi sự hòa hợp biến đổi cũng từ đấy mà ra .Càn là Thiên , Khôn là Địa , Càn Khôn hợp lại là thái bình ; Đức là cha , Hồng là mẹ , Đức Hồng hợp mà Đồng . Can là quân , Chi là thần , can hợp chi mà sinh nạp âm ; cho nên Giáp Ất là quân và Tí sửu là thần , Tí Sửu Giáp Ất hợp lại mà thành Kim , bởi ngũ hành tại nơi thiên hạ , tất cả đều có khí tánh , có tài vị , hoặc tương tế hoặc tương khắc , nếu thành hoặc chưa thành khí thì trong vượng phải chịu tuyệt , trong tuyệt phải chịu khí , nếu chỉ lấy tương phối mà thủ thì là bất đồng thôi . Cho nên số của Kim sở dĩ khó đồng vậy mà lại có Hải trung , Sa trung khác nhau vậy . Hoặc nói Giáp Ất lấy tương khắc mà thủ , Gíap gia với Canh , Ất giá với Tân , Giáp Ất tức có Kim khí , cho nên thường thì Mộc có Kim thai , dương sanh nơi tí thủy vượng địa cho nên Giáp tí Ất sửu là Hải trung dương Kim , âm sanh nơi ngọ hỏa vượng địa cho nên Giáp ngọ Ất mùi là Sa trung âm kim . Tí là Thái dương , Ngọ là Thái âm . Lấy giáp vào Tí , Ất vào Sửu lần lượt đến Ngọ thì được Canh , Mùi thì gặp Tân tức dương sách âm . Lấy Giáp vào Ngọ , Ất vào Mùi cho đến Tí sửu cũng được Canh Tân là âm đơn dương . Đây cũng chính là phép toàn cung .Phu thê tử mẫu tương tề , tương khắc , tương thượng tương hạ mà mang sẵn các điềm cát hung vậy . Thảo thì có đàn có đống , đơn lẻ mà thực là sát yểu , hợp lại mà thực là thọ , tỷ như Kim có sắc trắng mềm hợp lại mà luyện sẽ thành cứng , cái lý là như vậy .

AnhNgoc
02-10-09, 16:56
_ Tổng luận nạp âm : (Tiếp theo)

Lại xét trong lục vi âm luận nói : Nạp âm tức là Tí Ngo đếm đến Canh , Sửu Mùi đếm đến Tân , Dần Thân đếm đến Mậu , Mảo Dậu đếm đến Kỷ , Thìn Tuất đếm đến Bính , Tỵ Hợi đếm đến Đinh ; 7 phần nầy tứ phương khí số nạp âm thuộc Kim vậy ; phương Nam thiên khí màu đỏ nên nạp âm thuộc hỏa vậy , được 9 tức phương Đông khí dương 9 nên nạp âm thuộc Mộc vậy , được 1 tức trung ương khí tỗn thống nên nạp âm thuộc Thổ vậy , được 5 tức Bắc phương khí huyền cực nên nạp âm thuộc thủy vậy .
Giả như Giáp Tí Giáp Ngọ từ Giáp đến Canh , Ất Sửu Ất Mùi từ Ất đến Tân thỉ số đều là 7 nên nạp âm thuộc Kim . Bính Dần Bính Thân theo Bính đến Mậu , Đinh Mảo Đinh Dậu từ Đinh đến Kỷ thì đều số 3 nên nạp âm thuộc Hỏa . Mậu Thìn Mậu Tuất từ Mậu đến Bính , Kỷ Tỵ Kỷ Hợi từ Kỷ đến Đinh thì đều số 9 nên nạp âm thuộc Mộc . Canh Tí Canh Ngọ , Tân Mùi Tân Sửu , đều là số 1 nên nạp âm thuộc Thổ . Bính Tí Bính Ngọ từ Bính dến Canh , Đinh Mùi Đinh Sửu từ Đinh dến Tân đều là số 5 nên nạp âm thuộc Thủy . Sở dĩ chỉ lấy Can số mà không lấy Chi số , như từ Bính đến Canh tức là Bính đinh mậu kỷ canh đó tức 5 số vậy . Lại như từ Giáp đến Canh tức Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh thì 7 số vậy . Đây là cái nghĩa của Lạc sứ .
• Lại trong Tục đường hà lục nói : Nạp âm lục thập Giáp tí tức là dùng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà làm rõ vậy . Nhứt lục là Thủy , nhị thất là Hỏa , tam bát là Mộc , tứ cửu là Kim , ngủ thập là Thổ . Nhưng ở trong ngũ hành chỉ có Kim và Mộc là có âm tự nhiên , còn Thủy Hỏa Thổ thì nương giả mà sau đó có âm vậy . Thủy giả Thổ , Hỏa giả Thủy , Thổ giả Hỏa nên Kim âm là 4 , 9 Mộc âm là 3, 8 . Nhứt lục là Thủy , ngũ thập là Thổ , nhị thất là Hỏa ; như Giáp Tí Ất Sửu có số là 34 thừa 4 là Kim âm vậy . Mậu Thìn Kỷ Tỵ có số 28 thừa 8 là Mộc âm vậy . Canh Ngọ Tân Mùi có số là 32 thừa 2 là Hỏa vậy . Thổ dùng Hỏa làm âm nên bèn là Thổ vậy . Giáp Thân Ất Dậu có số 30 là Thổ vậy . Mà Thủy dùng Thổ làm âm nên bèn là Thủy vậy .Mậu Tí Kỷ Sửu có số 31 thừa 1 là Thủy , Hỏa lấy Thủy làm âm nên bèn là Hỏa vậy .
Thường lục thập Giáp Tí đều gồm lưỡng Kim lưỡng Mộc tương kích tự nhiên mà thành âm và Thủy thì dùng Thổ kích , Hỏa thì dùng Thủy kích , tương thắng mà thành âm . Thổ nhờ Hỏa nung đúc mà thành khí vật sau đó mới có âm , đấy cũng là cái lý tự nhiên vậy .
Lại nói rằng Lục thập Giáp tí nạp âm đều do ngũ âm mà sanh , ngay thẳng thông suốt , bởi Giáp tí là đầu mà ngũ âm đầu tiên ở cung Thổ nhưng cung Thổ sanh kim nên Giáp Tí là Kim còn Ất Sửu là âm theo dương ; lấy Kim mà sanh Thủy nên Bính Tí là Thủy mà Đinh sửu tòng theo . Giác Mộc sanh Hỏa nên Mậu Tí là Hỏa , dùng hỏa sanh Thổ nên Canh Tí là Thổ . Vũ Thủy sanh Mộc nên Nhâm tí là Mộc mà Kỷ sửu Tân sửu Quý sửu tùng theo , đến nơi Giáp Dần thì nạp âm khởi ở Thương , Thương là Kim sanh Thủy cho nên Giáp Dần là Thủy ; giác Mộc sanh Hỏa nên Bính Dần là Hỏa , trưng Hỏa sanh Thổ nên Mậu Dần là Thổ . Vũ thủy sanh Mộc nên Canh Dần là Mộc , cung Thổ sanh Kim nên Nhâm Dần lá Kim , ngũ Mảo đều theo đó . Dến Giáp Thìn thì nạp âm khởi ở Giác , Giác Mộc sanh Hỏa nên Giáp Thìn là Hỏa , chủy tương Hỏa sanh Thổ nên Bính Thìn là Thổ , Vũ thủy sanh Mộc nên Mậu thìn là Mộc , cung Thổ sanh Kim nên Canh Thìn là Kim , Thương Kim sanh Thủy nên Nhâm Thìn là Thủy mà ngũ Tỵ đều tong theo . Cung Thương Giác đều vậy chỉ có Trùng Vũ thì không thể ở đầu , đó là Giáp Ngọ trở lại như Giáp Tí , Giáp Thân như Giáp Dần , Giáp Tuất như Giáp Thìn mà ngũ Mùi ngũ Hợi cũng tùng theo các loại.

AnhNgoc
04-10-09, 12:27
_ Tổng luận nạp âm : (Tiếp theo)


Lại một thuyết nói : số đại diễn ngũ thâp thì dùng 49 ,trước dùng 49 số mà bố , không dùng số thái huyền : Giáp Kỷ tí Ngọ 9 , Ất Canh Sửu Mùi 8 ,Bính Tân Thân Dần 7 , Đinh Nhâm Mảo Dậu 6 Mậu Quý Thìn Tuất 5 , Tỵ Hợi đơn danh 4 . Lấy số 5 mà trừ , không đủ 5 thì lấy nạp âm mà thuộc , Thủy 1 Hỏa 2 Mộc 3 Kim 4 Thổ 5 hể tương sanh thì tiện dùng vậy ; như dư 1 thủy thì sanh Mộc , dư 2 Hỏa thì sanh Thổ , dư 3 Mộc thì sanh Hỏa , dư 4 Kim thì sanh Thủy , dư 5 Thổ thì sanh Kim . Giã sử Giáp Tí Ất Sửu 4 vị Can Chi cọng được số 34 , lấy 49 trừ đi ta có số 15, lấy 15 trừ 10 còn dư 5 thuộc Thổ , Thổ năng sanh Kim nên Giáp Tí Ất sửu là Kim ; Bính Dần Đinh Mão 4 vị can chi cộng số được số 26 , lấy 49 trừ đi ta có số 23 , lấy 23 trừ 20 còn lạ 3 thuộc Mộc , Mộc năng sinh Hỏa nên Bính Dần Đinh Mão thuộc Hỏa ; Các vị khác cứ theo đó mà tính vậy . Đại để Lục thập Giáp tí như vậy , luật nạp âm vậy , cái khác của can chi nạp âm vậy , đây là cái số tự nhiên của trời đất , Hà Đồ sanh số thì tả toàn nên dùng trung ương là Thổ mà sanh Tây phương Kim , Tây phương Kim mà sanh Bắc phương Thủy , Bắc phương Thủy mà sanh Đông phương Mộc , Đông phương Mộc mà sanh Nam phương Hỏa , Nam phương Hỏa mà trở lại sanh trung ương Thổ . Lạc Thư khác số thì Hữu chuyển nên lấy trung ương Thổ mà khắc Bắc và Tây Bắc Thủy , Bắc và Tây Bắc Thủy mà khắc Tây và Tây Nam Hỏa , Tây và Tây Nam Hỏa mà khắc Nam và Đông Nam Kim , Nam và Đông Nam Kim mà khắc Đông và Đông Bắc Mộc , Đông và đông bắc Mộc mà trở lại khắc trung ương Thổ . Thật là thông suốt cho nên Nạp âm đúng là vi diệu vậy , từng đoạn đều xuất từ Hoàng đế không nghi vậy .
Trở lại xét số Thái huyền thì vì sao lấy Giáp Kỷ Tí Ngọ là số 9 , bởi lẻ nguồn gốc của vạn vật thì từ Thiên Địa mà Vận thì lại ở Tứ Thời , Xuân vạn vật tươi tốt nơi Cấn , Thu vạn vật điêu linh ở Khôn , Sanh thì phát , Quy thì chứa mà chẳng rời nơi Thổ , Thổ tức là Khôn Cấn vậy . Dịch nói : Cấn trước sanh ra vật mà Khôn thì vật trưởng thành , Giáp thì đầu thiên can còn Tí thì đầu địa chi , hai nghĩa tuần hoàn mà 1 dương trở lại nên Giáp Tí khởi số ở nơi thiên địa l2 vậy .
Tí 1 dương thuộc Càn tức là đạo cha vậy , Giáp phối với Nhâm theo Tí đếm đến Thân thì gặp Nhâm được 9 số cho nên Nhâm lấy số 9 vậy . Phu phụ phối hợp nên hai can Giáp Kỷ đều mang số 9 vậy . Sửu trước có Ất đến thân được số 8 nên Ất Canh đều mang số 8 vậy . Dần trước có Bính đến Thân được số 7 nên hai can Bính Tân đếu mang số 7 . Mảo trước có Đinh đếm đến Thân được số 6 nên hai can Đinh Nhâm đều mang số 6 . Thìn trước có mậu đến Thân được 5 nên hai can Mậu Quý đều mang số 5 . Đây là thiên can khởi ở Càn vậy .
Ngọ là nhứt âm thuộc Khôn là cái đạo làm thần ( tôi ) vậy . Ất phối với Quý , từ Ngọ gia ất đếm đến Dấn gặp Quý được 9 số , Tí là nhứt dương , Ngọ là nhứt âm phụ phụ tương phối nên hai chi Tí Ngọ đếu mang số 9 . Sửu gia Dần đếm đến Mùi được 8 nên 2 chi Sửu Mùi đều mang số 8 ,lấy Dần gia Thân đếm đến Dần được 7 nên hai chi Dần Thân đều mang số 7 . Lấy Mảo gia Dậu đếm đến Dần được 6 nên hai chi Mảo Dậu đều mang số 6 . Lấy Thìn gia Tuất đếm đến Dần được 5 nên hai chi Thìn Tuất đều mang số 5 . Lấy Tỵ gia Hợi đếm đến Dần được 4 nên hai chi Tỵ Hợi đều mang số 4 . Số chỉ dừng nơi 9 mà không phải là 10 bởi nếu 10 thì lại khởi 1 , cho nên thường số 10 thì viết nhứt thập . Số Lạc Thư bắt đầu ở 1 mà hết ở 9 , cái số sanh hắc tự nhiên của Thái Ất đồ thư vậy . ( Bởi vạn vật có nguồn gốc là Thiên địa mà vận thì ở tứ thời . ) . Thái Huyền chỉ tùng theo 4 mà khởi số chứ không nói 1 , 2, 3 bởi vì 1 sanh 2 , 2 sanh 3 , 3 sanh vạn vật , 1 là Thiên , 2 là Địa , 3 là Nhân , có thiên địa mà sau mới có vạn vật cho nên nói rằng Tam nguyên ; còn thiên can 10 , địa chi 12 thì khởi ở 9 mà hết ở 4 , thiên can địa chi đã tận tự không có 1 ,2 , 3. Số Thái Huyền khởi đều do cái lý tự nhiên như vậy , không thể không biết vậy.

AnhNgoc
07-10-09, 13:43
_ Luận nạp âm thủ tượng :

• Âm tức Hoàng đế tương nơi Giáp Tí phân khinh trọng mà phối thành 60 , có tên Hoa Giáp tí , chữ Hoa thật rất ảo diệu . Thánh nhân mượn ý mà dụ vậy , không nên chấp nê cái ý nầy . Từ Tí đến Hợi trong 12 cung rải đều Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ , ban đầu khởi ở Tí là nhứt dương và cuối cùng ở Hợi là lục âm , ngũ hành sở thuộc Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tại Thiên là ngũ hoàng , tại địa là ngũ nhạc , ở đức là ngũ thường , ở nhân là ngũ tạng , đó là mạng vậy , nên Giáp tí sở thuộc ứng mạng , mạng tức là việc cả một đời . Cho nên các tượng Giáp tí nạp âm là thánh nhân dụ vậy , cũng như các việc của đời người vậy . Vì sao gọi Tí Sửu là âm dương thai nghén, nhân tại bào thai mà vật tạng ở căn rễ chưa có hình thành , đến Dần Mảo thì âm dương bắt đầu mở dần , nhân cũng lần sanh trưởng , sự tinh hoa của vật cũng dần tạo ra như người bắt đầu lập thân vậy , qua Thìn Tỵ thì khí âm dương đã thành vật cho trái đẹp như người đến tuổi 30, 40 , dến Ngọ Mùi thì khí âm dương sáng rõ mà vật đã tề chỉnh và người thì đến 50 , 60 ; việc bần tiện phú quý đã định rõ , sự hung suy cũng biết rành , khi qua Thân Dậu thì âm dương tiêu sát vạt thì thâu thành người thì quy súc , mỗi đều tinh cả , đến Tuất Hợi thì âm dương bế tắc , khí vật trở về gốc , người cũng ngưng nghĩ , tất cả đều quy vậy . Nói qua về 12 vị ấy cứ lần lượt trước sau mà hiểu luc thập Giáp tí vậy .
• Sao mà tương cho Giáp Tí , Ất Sửu là Hải trung Kim , bởi khí ở bao tạng có tên mà không có hình , do người ở trong bụng mẹ vậy
Nhâm Dần , Quý Mão tuyệt địa , Kim khí thô sơ bạc nhược nên gọi là Kim bạc Kim .
Canh Thìn , Tân Tỵ là Kim ở đất Thổ Hỏa , khí đã phát sanh , Kim còn tại mỏ , nơi gởi hình để sanh dưỡng lại nhận chánh sắc ở phương Tây nên gọi là Bạch lạp Kim
Giáp Ngọ , Ất Mùi tức khí đã thành , vật chất đã tự chắc thật , cuộn nơi cát mà cũng biệt nơi cát , ở nơi Hỏa mà luyện cũng nơi Hỏa nên gọi là Sa trung Kim .
Nhâm Thân , Quý Dậu khí vật cực thạnh , đang lúc thâu liễm , thoát làm mủi nhọn như dao , do chánh vị là Thân Dậu lại đặt vào can Nhâm Quý tức Kim Thủy phối luyện để thành công dụng của Kim vậy , đến Tuất Hợi thì khí Kim tạng phục hình thể đã tàn , nung đúc trang điểm đã thành hình trạng , cát chứa trong lầu các không làm gì nữa nên công dụng của Kim đã hết do đó gọi Canh Tuất , Tân Hợi là Xoa xuyến Kim .
Sao Nhâm Tí , Quý Sửu lại dùng cái tượng như cây dâu ,bởi khí ở nơi quanh co hình trạng chưa thẳng và lại cư nơi đất Thủy , nhận khí dâu tàm theo thời mà sanh vậy .
Canh Dần , Tân Mão thì khí đã qua dương , được tài bồi cái thế lực mà tráng kiện chỉ nại ở dưới Kim , nhưng thường Kim có chất sương thì trở thành chắc chắn , Mộc cư ở đó thì thành vượng nên tánh cũng được kiên cố do đó gọi là Tùng bá Mộc .
Mậu Thìn , Kỷ Tỵ thì khí không thành lượng , vật đã đúng thời , cành lá tốt thịnh sầm uất mà thành rừng , lại lúc Mộc rất thạnh nên gọi là Đại lâm Mộc .
Nhâm Ngọ , Quý Mùi Mộc mà đến Ngọ thì tử , đến Mùi thì mộ cho nên dương liễu thanh mùa Hạ lá tàn , cây nhành có phần nhược nên tánh chất là nhu mềm bèn gọi là Dương liễu Mộc .
Canh Thân , Tân Dậu thuộc Kim ngũ hành mà nạp âm thuộc Mộc , lấy tương khắc mà dùng , bởi tánh mộc cay chỉ có nơi Thạch lựu , khí đến Thân Dậu thì tịnh túc , vật dần thành thực , do Mộc ở đất Kim có vị cay nên gọi là Thạch lựu Mộc vậy , xét thấy các Mộc khác đến Ngọ thì tử nhưng chỉ riêng Mộc này đến Ngọ lại vượng đó cũng do tánh mà khác vậy .
Mậu Tuất , Kỷ Hợi thì khí quy về tàng phục âm dương bế mộ ,khí mộc về gốc , nấp ở nơi Thổ cho nên gọi là Bình địa Mộc vậy .
Bính Tí , Đinh Sửu vì sao mà dùng tuong nhuận thủy , bởi khí chưa thông tế , chẳng phải nơi thủy lưu , có được nơi thấp thì thủy tụ cũng tùy theo đất mà thôi nên gọi là Nhuận hạ Thủy .
Giáp Dần , Ất Mảo khí dương xuất rõ , thế thủy nương ở gốc , lưu hành cuồn cuộn ở phương Đông cái thế rất mạnh nên gọi là Đại khê Thủy .
Nhâm Thìn , Quý tỵ thế mạnh ở Đông Nam tàng khí Ly cung , Hỏa thế sáng mạnh , Thủy được quy khố , vừa nhiều vừa lưu nên gọi là Trường lưu Thủy .

AnhNgoc
09-10-09, 11:58
_ Luận nạp âm thủ tượng : ( Tiếp theo )

Bính Ngọ , Đinh Mùi khí đang lên xuống , ở cao thì hỏa sáng có thủy chảy do mưa , trong thủy có hỏa thì chỉ ở trên trời mới có nên gọi là Thiên hà Thủy .

Giáp Thân , Ất Dậu khí an tịnh dừng nghĩ , mẫu tử đồng vị , xuất mà không cùng , múc mà không kiệt nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy .

Nhâm Tuất , Quý Hợi là đất thiên môn , khí quy về bế tắc thủy trãi khắp mà không xa , thế quy mà yên lặng , đến mà không cùng , nạp vào mà không đầy tràn nên gọi là Đại hải Thủy vậy .

Mậu Tí , Kỷ Sửu sao lại lấy tượng Tích lịch Hỏa , bởi khí tại nhứt dương mà hình thì ở thủy vị , thủy ở trong hỏa khí là hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa .

Bính Dần , Đinh Mảo khí dần phát huy , do nơi cây cỏ mà hiển ra , âm dương thì lửa thiên địa thì lò nên gọi là Lư trung Hỏa .

Giáp Thìn , Ất Tỵ là nơi hình khí thạnh , thế ở chỗ cao chiếu sáng tới chỗ tối tăm nên gọi là Phúc đăng Hỏa .

Mậu Ngọ , Kỷ Mùi khí quá dương cung , trùng ly tương hội , chớp sáng giao nhau phát nóng lên trên nên gọi là Thiên thượng Hỏa vậy .

Bính Thân , Đinh Dậu thì khí dừng mà hình núp , cái thể hỏa quang đã cát giấu mà quy về Đoài vị nên sức nhỏ thế yếu nhìn chẳng rõ xa nên gọi là Sơn hạ Hỏa vậy .

Giáp Tuất , Ất Hợi gọi là Sơn đầu Hỏa bởi sơn tạng hình mà đầu thì đơn quang , trong sáng ngoài tối , ẩn dấu không lộ , đem ánh quang đến hết quy về dừng nghĩ ở trong nên gọi là Sơn đầu Hỏa vậy .

Canh Tí , Tân Sửu sao dùng tượng Bích thượng Thổ , bởi khí ở nơi bế tắc , vật chuộng được bao nấp , che hình chận thể , trong ngoài không giao nhau nên gọi là Bích thượng Thổ vậy .

Mậu Dần , Kỷ Mảo khí đã thành vật , có công nuôi vật , phát ở nơi rễ mà trưởng thành ở nhụy đài nên gọi là Thành đầu Thổ vậy .

Bính Thìn , Đinh Tỵ khí đã thành dương , phát sinh đã quá , thành mà chưa đến nên gọi là Sa trung Thổ vậy .

Canh Ngọ , Tân Mùi thì khí đang thành mà hình vật đã lộ hình , có hình tức đã có chất tức vật đã rõ ràng nên gọi là Lộ bàng Thổ .

Mậu Thân , Kỷ Dậu khí đã dừng nghĩ , vật đã thâu liễm quy về , đẹp mà vô sự nên gọi là Đại trạch Thổ .

Bính Tuất , Đinh Hợi khí đã thành mỹ mãn , âm dương trãi khắp , thế đã nhàn hạ nên gọi là Ốc thượng Thổ vậy .

Ta thấy Lộ bàng Thổ sanh ra năm thứ cốc mễ nơi Ngọ Mùi cũng là thời hưng thạnh trưởng dưỡng . Đại trạch Thổ thông đạt 4 phương nơi Thân Dậu cũng đạt được lý hanh thông ; Thành đầu Thổ dùng để phòng sự công kích , Vương hầu nhờ nó để lập nước giữ dân vậy . Bích thượng Thổ là phấn để trang sức , thần dân đều cho dùng vậy . Sa trung Thổ là đất rất nhuận , Thổ mà nhuận thì sanh nên chưa tới mà hữu dụng vậy . Ốc thượng Thổ chỉ cho sự thành công , đã thành công thì dừng mà nhất định không đổi , bởi trong ngũ hành sự che chở dưỡng dục , tam tài ngũ hành đều không thể mất nơi cao thấp, mà đắc vị ở tứ quý mà có công , Kim thì được sắc nhọn cứng cáp , Hỏa thì được quang minh chiếu diệu , Mộc thì được tươi tốt xum xuê , Thủy thì được sung mãn không phiếm , Thổ thì được cấy gặt dồi dào , tụ mà không tán tức phải là sơn , sơn thì cao ; tán mà không tụ tức đúng căn nguyên , dùng mà không cùng , sanh mà không hết , cái công dụng hết sức to lớn vậy .

AnhNgoc
10-10-09, 13:16
_ Luận nạp âm thủ tượng : ( Tiếp theo )


Lại nghe các nhà nhựt gia nói :
Giáp Tí , Ất Sửu , tí thuộc thủy lại là hồ , tất thủy dụng , kim lại tử ở tí mộ ở sửu , thủy vượng mà kim tử mộ nên gọi là Hải trung Kim .

Nhâm Thân Quý Dậu , thân Dậu là chánh vị của Kim , Lâm quan ở thân Đế vượng tại Dậu , Kim đã được sanh vượng tức thành cường vậy nên gọi là Kiếm phong Kim .

Canh thìn Tân tỵ , kim dương ở Thìn mà sanh ở Tỵ , hình chất chưa thành nên chưa được cứng mạnh nên gọi là Bạch lạp Kim .

Giáp Ngọ , Ất Mùi là đất vượng Hỏa , hỏa vượng thì Kim bại , Mùi là đất hỏa suy , hỏa suy thì kim quan đới bại mà phương quan đới thì chưa thể cắt chặc nên gọi là Sa trung Kim .

Nhâm Dần , Quý MẢo , dần mảo là đất vượng mộc , mộc vượng thì kim loa , kim thì lại tuyệt ở dần thai ở mảo kim đã không còn lực nên gọi là Kim bạc Kim .
Canh Tuất , Tân Hợi , kim đến tuất thì suy , đến hợi thì bịnh , Kim đã suy bịnh thì yếu mềm vậy nên gọi là Xoa xuyến Kim .
Bính Dần , Đinh Mảo , dần là 3 dương mà mảo là 4 dương , Hỏa đã đắc địa lại được dần mảo mộc sanh , đây là thời thiên địa khai lư vạn vật thì sanh nên gọi là Lư trung Hỏa .

Giáp Tuất , Ất Hợi là thiên môn , hỏa chiếm thiên môn thì ánh quang rất cao nên gọi là Sơn đầu hỏa .

Mậu Tí , Kỷ Sửu , sửu thuộc thổ tí thuộc thủy , thủy ở chánh vị mà nạp âm thuộc hỏa chỉ có nơi hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa .

Bính Thân , Đinh Dậu , thân là đất nhà dậu là nhựt nhập chi môn , nhựt đến đây thì hết ánh quang nên gọi là Sơn hạ Hỏa .

Giáp Thìn , Ất Tỵ , thìn là thực thời tỵ là khu trung , nhựt ở đây thì đẹp thế dương chiếu cho thiên hạ nên gọi là Phúc đăng Hỏa .

Mậu Ngọ , Kỷ Mùi , Ngọ là nơi vượng hỏa , Mộc ở trong Mùi trở lại sanh cho Hỏa , tánh nóng phát lên lại gặp sanh địa nên gọi là Thiên thượng Hỏa .

Mậu Thìn , Kỷ Tỵ là cồn bãi ; Tỵ là lục dương , mộc đến đây thì cành lá tươi tốt , đã tốt cành lá mà lại ở nơi cồn bãi nên gọi là Đại lâm Mộc vậy .

Nhâm Ngọ , Quý Mùi ; mộc tử ở ngọ mộ ở mùi , mộc đã tử mộ tuy được thiên can Nhâm Quý thủy sanh nhưng cũng bị nhu nhược nên gọi là Dương liểu Mộc .

Canh Dần , Tân Mảo ;Mộc lâm quan dần đế vượng mảo Mộc đã sanh vượng thì không còn nhu nhược nữa nên gọi là Tòng bá Mộc .

Mậu Tuất , Kỷ Hợi ; tuất là cồn bãi hợi là nơi sanh mộc , Mộc mà ở nơi cồn bãi thì như thể một gốc một cây nên gọi là Bình địa Mộc .

Nhâm Tí , Quý Sửu ; tí thuộc thủy sửu thuộc thổ , thủy thhi2 sanh mộc mà bị thổ phạt nên phải làm loại dâu tằm để phương sanh do đó gọi là Tang đố Mộc .

Canh Thân , Tân Dậu ; Thân thuộc tháng 7 dậu thuộc tháng 8 , đây là thời mộc tuyệt , chỉ có thạch lựu mới kết thật nên gọi là Thạch lựu Mộc .

Canh Ngọ , Tân Mùi ; ngọ mùi thì vượng hỏa , hỏa vượng thì thổ được thêm , lại thọ sanh nơi thổ , nên gọi là Lộ bàng Thổ vậy .

Mậu Dần , Kỷ Mảo ; thiên can mậu kỷ thuộc thổ , dần là cấn do tích thổ mà thành sơn nên gọi là Thành đầu Thổ .

Bính Tuất , Đinh Hợi ; Bính Đinh thuộc Hỏa , Tuất hợi là thiên môn , Hỏa đã nóng lên trên thì thổ chẳng ở dưới mà sanh nên gọi là Ốc thượng Thổ .

Canh Tí , Tân Sửu , sửu tuy là thổ chánh vị mà tí lại là nơi vượng thủy , thổ gặp thủy thì thành bùn nên gọi là Bích thượng Thổ .

Mậu Thân , Kỷ Dậu ; thân thuộc đất khôn dậu thuộc đoài trạch , Mậu Kỷ thổ lại thêm Khôn Đoài nên là nơi đầm trạch lớn mới gọi Đại trạch Thổ .

Bính Thìn , Đinh Tỵ ; Thổ khố ở Thìn tuyệt ở tỵ mà thiên can là Bính Đinh hỏa đến thin là quan đới , tỵ là lâm quan , trên đã tuyệt khố mà gặp hỏa vượng trở lại sanh nên gọi là Sa trung Thổ .

Bính Tí , Đinh Sửu ; thủy vượng ở tí , suy ở sửu , vượng mà trở lại suy nên không thể là sông hồ do đó gọi là Giãn hạ Thủy .

Giáp Thân , Ất Dậu ; lâm quan thân đế vượng dậu , Kim đã sanh vượng thì thủy nương đó mà sanh , sức lực chưa lớn nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy .

Nhâm Thìn , Quý tỵ ; thin là thủy khố , tỵ là nơi kim tràng sanh , kim đã sanh mà thủy đã vượng lại khố thủy mà gặp kim sanh thì tất dòng chảy không cạn nên gọi là Trường lưu Thủy .

Bính Ngọ , Đinh Mùi ; Bính Đinh thuộc hỏa , Ngọ là nơi vượng hỏa nạp âm lại là thủy , thủy từ hỏa mà xuất chỉ là ngân hà mới có nên gọi là Thiên hà Thủy .

Giáp Dần , Ất Mảo ; Dần là Đông Bắc , Mảo là chánh Đông , Thủy lưu ở chánh Đông thì tánh được thuần nên sông ngòi hồ lạch đều hợp lại mà về nên gọi là Đại khê Thủy .

Nhâm Tuất , Quý Hợi thủy , Tuất Quan đới , Hợi Lâm quan nên lực rất mạnh , lại Hợi là sông chẳng có thủy nào sánh được nên gọi là Đại hải Thủy .

Thuyết tuy không thông nhưng có thể thấy rõ được cái nghĩa tương hỗ dùng tương của cổ nhân vậy .
Thường luận rằng ngũ hành thủ tượng do nơi sự đối đải mà phân âm dương , trước sau biến hóa rõ ràng .
Như Giáp Tí Ất sửu đối với Giáp Ngọ Ất Mùi , Hải trung Sa trung lấy Thủy sanh mà biện phân âm dương vậy . Nhâm Dần Quý Mảo đối với Nhâm Thân Quý Dậu lấy Kim Mộc mà biện cương nhu khác nhau vậy . Canh Thìn Tân Tỵ , Canh Tuất Tân Hợi ,Bạch lạp Xoa xuyến , Càn Tốn khác phương , hình sắc mổi lạ vậy . Nhâm Tí Quý Sửu đối với Nhâm Ngọ Quý Mùi , Tang đố Dương liểu , một cong một mềm , hình chất khác nhau vậy . Canh Dần Tân Mảo đối với Canh Thân Tân Dậu , Tùng bá Thạch lựu một cứng một cay , tánh vị đều khác vậy . Mậu Thìn Kỷ Tỵ đối với Mậu Tuất Kỷ Hợi , Đại lâm Bình địa một thịnh một suy , Tốn Càn đối phương vậy . Mậu Tí Kỷ Sửu đối với Mậu Ngọ Kỷ Mùi , Tích lịch Thiên thượng , lôi đình huy tiên nhật nguyệt đồng chiếu vậy . Bính Dần Đinh Mảo đối với Bính Thân Đinh Dậu , Lư trung Sơn hạ hỏa thịnh mộc thiếu kim cường hỏa diệt vậy . Giáp Thìn Ất Tỵ đối với Giáp Tuất Ất Hợi , Phúc đăng Sơn đầu , hàn quang sợ gió , đưa quang về Cấn vậy . Bính Thìn Đinh Tỵ đối với Bính Tuất Đinh Hợi , Sa trung Ốc thượng , cạn ướt tương hỗ biến hóa thỉ chung vậy .
Xét tròn xét vuông không ngoài vượng tướng tử hưu tù . Lấy gần lấy xa chẳng rời Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ . Lấy can chi mà phân phối ngũ hành , luận âm dương mà sáng tỏ trước sau , thiên thành nhân lực gồm tương sanh vượng tử tuyệt các loại . Kêu là lục thập Giáp tí chẳng qua Thánh nhân mượn cái tượng mà làm rõ cái lý ; tính chất hình sắc của ngũ hành công dụng chẳng thể không khúc tận mà tạo hóa không dư chứa vậy .
Trong Dịch nói đạo lập thiên âm với dương nhật là Thiên đạo vậy , 10 ngày thay đổi là đã rõ cái nghĩa âm dương , còn cái đạo lập địa thì cương nhu thời tức địa đạo vậy . Từ Tí đến Hợi có 12 thời thứ bậc mà rõ nghĩa âm dương , trước bày thanh sau đó là âm , cho nên dùng nhật thời thác tống nạp giáp để thành ngũ âm , lấy lục tượng đó là tam tài đủ mà ngũ hành không dư vậy . Dùng can là Lộc mà định quý tiện , lấy chi là mệnh để định trường đoản , lấy nạp âm là thanh để xét thanh suy , người nếu có Lộc , mệnh thân đều được vượng tướng , tam tài đắc khí thì chắc khoái lạc trường thọ ; nếu bị tử tuyệt hưu tù , tam tài thất khí thì một đời trần ai khốn khổ chẳng sai vậy .

AnhNgoc
13-10-09, 17:54
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :

• Giáp tí Kim là thực vật thích Kim Thủy vượng địa , tấn thần hỷ phúc tinh , bình đầu huyền ngoại phá tự .

• Ất sửu Kim là khoáng vật thích Hỏa và Nam phương nhựt thời , phúc tinh Hoa cái chánh ấn .

• Bính dần Hỏa là Lư khôi thích Đông và Mộc , phúc tinh lộc hình , bính đầu lung á .

• Đinh mảo Hỏa là Lư yên thích Tốn và Thu đông , bính đầu triệt lộ huyền châm .

• Mậu thin Mộc là sơn lâm sơn dã , mộc bất tài , thích thủy lộc khố hoa cái , thủy lộc mã khố , bổng trương phục thần bình đầu .

• Kỷ Tỵ Mộc là hoa quả trên núi , thích Xuân và Thu , Lộc khố nhập chuyên .

• Canh Ngọ Thổ là đất mỏng bên đường , thích Thủy và Xuân , phúc tịnh quan quý , triệt lộ bổng trượng huyền châm .

• Tân Mùi Thổ, thích Thu với Hỏa , hoa cái huyền châm phá tự .

• Nhâm Thân Kim là kích chiến , thích Tí Ngọ Mảo Dậu , bình đầu đại bại, phường hại lung á phá tự huyền châm .

• Quý Dậu Kim là Kim thôi tạc , thích Mộc và Dần Mảo , phục thần phá tự lung á .

• Giáp Tuất Hỏa thích Xuân và Hạ , chánh ấn hoa cái , bình đầu huyền châm phá tự bổng trượng .

• Ất Hợi Hỏa , Hỏa khí nóng thích Thổ và Hạ , Thiên đức khúc cước .

• Bính Tí Thủy sông hồ , thích Mộc và Thổ , phúc tinh quan quý, bình đầu lung á , giao thần phi nhận .

• Đinh sửu Thủy , thủy bất lưu thanh , triệt cứ , thích kim và hạ , hoa cái thối thần , bình đầu phi nhận .

• Mậu Dần Thổ , đề tinh thành quách , thích Mộc và Hỏa , phục thần bổng trượng lung á .

• Kỷ Mão Thổ , phá đê bại thành , thích Thân Dậu và Hỏa , tấn thần đoản thiên cửu xá , khúc cước huyền châm .

• Canh Thìn Kim Tích lạp , thích Thu và triệt Mộc , hoa cái đại bại , bổng trượng bình đầu .

• Tân Tỵ Kim ; Kim sanh thì sa thạch tạp , thích Hỏa và Thu , Thiên đức phúc tinh quan quý , triệt lộ đại bại huyền châm khúc cước .

• Nhâm Ngọ Mộc : dương liểu cán tiết , thích Xuân Hạ , thích quan quý , cửu xú phi nhận bình đầu lung á huyền châm .

• Qúy Mùi Mộc : Dương liểu căn , thích Đông với thủy và chánh ấn ở Xuân , hoa cái đoản thiên phục thần phi nhận phá tự .

• Giáp Thân Thủy : Cam tỉnh thích Xuân và Hạ , phá lộc mã triệt lộ bình đầu.

• Ất Dậu Thủy : âm Thủy thích Đông và Nam phương , phá lộc đoản thiên cửu xú khúc cước phá tự lung á .

• Bính Tuất Thổ : gò đồi , thích Xuân Hạ và Thủy , thiên đức hoa cái , bình đầu lung á .

• Đinh Hợi Thổ : Bình nguyên , thích Hỏa và Mộc , thiên đức phúc tinh quan quý đức hợp bình đầu .

• Mậu Tí Hỏa : Sét vậy , thích Thủy và Xuân Hạ , đắc thượng thần thiên , phục thần đoản thiên cửu xú trượng hình phi nhận .

• Kỷ Sửu Thổ : điện vậy , thích thủy và Xuân Hạ , đắc địa mà tối , hoa cái đại bại phi nhận khúc cước .

• Canh Dần Mộc : Thân cây tùng bách , thích Thu Đông , phá lộc mã tướng hình trượng hình lung á .

• Tân Mão mộc : Rễ cây Tùng, thích Thủy Thổ và Xuân , phá lôc giao thần cửu xú huyền châm .

• Nhâm Thìn Thủy : Long Thủy , thích Lôi điện và Xuân Hạ , chánh giáp thiên đức thủy lộc mã tất thối thần bình đầu lung á .

• Quý Tỵ Thủy : Không nghĩ khi chảy về biển , thích Hợi Tí mà biến hóa thiên ất quan quý đức hợp , phục mã phá tự khúc cước .

• Giáp Ngọ Kim : Bách luyện tinh Kim , thích Mộc Thủy Thổ , thối thần đức hợp , bình đầu phá tự huyền châm .

• Ất Mùi Kim : Lư khôi dư Kim , thích dại hỏa và thổ , hoa cái triệt lộ khúc cước phá tự .

• Bính Thân Hỏa : Bạch nha dã thiêu , thích Thu Đông và Mộc , bình đầu lung á đại bại phá tự huyền châm .

• Đinh Dậu Hỏa : Quỷ thần thừa hưởng Hỏa vô hình , thích Thìn Tuất Sửu Mùi , thiên ất hỷ thần bình đầu phá tự lung á đại bại .

• Mậu Tuất Mộc : Thứ cỏ ngải khô , thích Hỏa và Xuân Hạ , hoa cái đại bại nhập chuyên trượng hình triệt lộ .

• Kỷ Hợi Mộc : mầm cỏ ngải , thích Hỏa và Xuân Hạ , khúc cước .

• Canh Tí Thổ : Thổ giữa không , là ốc vũ , thích Mộc và Kim Mộc , đức hợp trượng hình .

• Tân Sửu Thổ : Mộ , thích Mộc và Hỏa với Xuân , hoa cái huyền châm.

• Nhâm Dần Kim : Kim hoa sức , thích Mộc Hỏa , triệt lộ bình đầu lung á .

• Quý Mão Kim : Dây ngọc , thích Hỏa mạnh và Thu , quý nhân phá tự huyền châm.

AnhNgoc
14-10-09, 15:44
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )


• Giáp Thìn Hỏa : Đèn vậy , thích đêm và Thủy , Hoa cái đại bại bình đầu phá tự huyền châm .

• Ất Tỵ Hỏa : Ánh đèn vậy , thích Thân Dậu và Thu , chánh Lộc mã , đại bại khúc cước .

• Bính Ngọ Thủy : Nguyệt luân , thích đêm và Thu thủy , hỷ thần dương nhận , giao thần bính đầu lung á huyền châm .

• Đinh Mùi Thủy : Hỏa quang đồng thương , hoa cái dương nhận thối thần nhập chuyên bình đầu phá tự .

• Mậu Thân Thổ : Điền địa , thích Thân Dậu và Hỏa , phúc tinh phục mã phục hình phá tự huyền châm .

• Kỷ Dậu Thổ : thích Thân Dậu và Đông , tấn thần triệt lộ cửu xú , khúc cước phá tự lung á .

• Canh Tuất Kim : thích dùng Hỏa và Mộc , hoa cái trượng hình .

• Tân Hơi Kim : chung đỉnh bảo vật , thích Mộc Hỏa và Thổ , chánh lộc mã huyền châm.

• Nhâm Tí Mộc : thương Thủy Mộc , thích Hỏa Thổ và Hạ ,dương nhận cửu xú bình đầu lung á .

• Quý Sửu Mộc : thương Thủy Mộc , thích Kim Thủy và Thu , hoa cái phúc tinh nhập chuyên , phá tự dương nhận .

• Giáp Dần Thủy : Mưa vậy , thích Hạ và Hỏa chánh lộc mã phúc thần nhập chuyên bình đầu phá tự huyền châm lung á .

• Ất Mão Thủy : Lộ vậy , thích Thủy và Hỏa , kiến lộc , nhập chuyên cửu xú khúc cước huyền châm .

• Bính Thìn Thổ : Đê ngạn , thích Kim và Mộc , lộc khố chánh ấn , hoa cái triệt lộ bình đầu lung á .

• Đinh Tỵ Thổ : Thích Hỏa và Tây Bắc , lộc khố bình đầu khúc cước .

• Mậu Ngọ Hỏa : Nhựt về Hạ thì nhân úy , qua Đông thì nhân ái , kỵ Mậu tí Kỷ sửu Giáp dần Ất mão , phục thần dương nhận cửu xú bỗng trượng huyền châm .

• Kỷ Mùi Hỏa : Ngày kỵ đêm , phúc tinh hoa cái dương nhận khúc cước phá tự .

• Canh Thân Mộc : Lựu hoa , Hạ bất nghi , Thu Đông kiến lộc mã , nhập chuyên trương hình phá tự huyền châm .

• Tân Dậu Mộc Lựu nhỏ , thích Thu và Hạ kiến lộc giao thần cửu xú nhập chuyên huyền châm lung á .

• Nhâm Tuất Thủy : Biển vậy thích Xuân Hạ và Mộc , hoa cái thối thần bình đầu lung á trượng hình .

• Quý Hợi Thủy : Bách xuyên thích Kim trên Hỏa , phục mã đại bại phá tự triệt lộ .

AnhNgoc
16-10-09, 11:47
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )


* Lục thập Giáp Tí thịnh lớn thì kỵ biến nhỏ yếu , nếu bị nhỏ yếu thì muốn thành lớn mạnh , giống như trước bần tiện mà về sau phú quý vinh hoa , trước phú quý mà sau bần tiện nhỏ mọn ; không nên dùng phú quý trước mà không luận bần tiện , cũng không thể thấy bần tiện trước mà không luận phú quý .
Niên sanh thuộc Mộc , ví dụ như Canh Dần Tân Mão tức Mộc lớn mạnh , nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc thì lấy Tòng bá Mộc mà luận ; vạn nhứt mà gặp Dương liểu hoặc Thạch lựu tức bỏ đại mà về tiểu , không lấy Tòng bá mà luận vậy .
Còn như sanh nhân là Nhâm Ngọ Quý Mùi thì Mộc nhỏ yếu nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc khác thì lấy Dương liểu mà luận , vạn nhứt nếu gặp Tùng bách hoặc Đại lâm Mộc tức bỏ nhỏ mà luận lớn , không nên luận như Dương liểu vậy .
Cho nên Thiên thượng Hỏa , Kiếm phong Kim , Đại hải Thủy Đại trạch Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp các vị nạp âm đều nhỏ yếu ; hay như Phúc đăng Hỏa , Kim bạc Kim , Tỉnh tuyền Thủy , Sa trung Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp vị khác thì nạp âm đều lớn mạnh , hoặc đem phàm nhập thánh , hoặc trước trọng mà sau khinh , đều theo sự biến mà luận chứ không thể chấp ở một mặt .

- Giáp tí là Kim tùng cách nên khí tán , nếu được Mậu Thân Thổ , Quý Tỵ Thủy tương hợp thì tốt , Mậu Thân là đất Lâm quan Kim, Thổ thì vượng ở Tí nên được sanh thành vậy , Quý tỵ thuộc hệ Kim sanh ở Tỵ , Thủy sanh ở Tí, nạp âm tat61` cả đều quy lại là triều nguyên lộc , kỵ Đinh Mão Đinh Dậu Mậu Ngọ Hỏa . Diêm đông Sưu nói : Giáp Tí Kim là tấn thần bẩm cái đức trầm tiệm hư vô nên tứ thời đều tốt , nhập quý cách thừa vượng khí nên tay nghề tinh vi chủ về vinh hoa hiễn đạt .

- Ất sửu là Kim phủ khô , Hỏa không thể khắc bởi Kim đã ân núp nên không bị hình hại xung phá lại là hiễn vinh , chỉ kỵ Kỷ Sửu Kỷ Mùi Hỏa . Diêm đông Sửu nói : Ất sửu là chánh ấn , là đại phúc đức , Thu Đông được phú quý thọ khảo , Xuân Hạ thì tốt , trong đó tự nhập cách thì kiến công hưởng phước . Ngọc Tiêu bửu Giám nói : Giáp Tí Ất Sửu chưa thành khí , Kim gặp Hỏa thì thành , gặp nhiều thì tốt .

- Bính Dần là Hỏa hách hy , Thủy không chế được nên cái Hỏa thiêu đốt dữ dội , Thủy không qua được , chỉ thích một mình Giáp Dần Thủy , đồng vị với nhau lại gọi là triều nguyên Lộc . Yếu luận nói : trong Dần Hỏa chứa khí linh minh , tứ thời sanh đức , nhập quý cách thì văn chương phát khoa giáp .

- Đinh Mão là Hỏa phục minh , khí yếu nên cần Mộc sanh , gặp Thủy thì hung , nếu gặp Ất mão Ất dậu thủy thì rất độc . Ngũ hành Yếu Luận nói : Đinh mão là Hỏa mộc dục , khí hàm lôi đông phong , thủy tề khí đạt , thổ tải thì mộ hậu , lấy mộc mà cho thì văn chương , lấy kim mà hợp lại gặp hạ thì hung bạo . Quỷ Cốc nói : Bính dần Đinh mão thu đông cần phải bảo trì . Chú rằng : hỏa không vượng tây đến thu đong thì thế sợ không bền .

- Mậu thin là lưỡng thổ hạ mộc , các kim không thể khắc bởi là thổ sanh kim tức cái đạo mẫu tử , được thủy sanh là tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Mậu thìn Canh dần Quý sửu 3 thần này tánh mộc tráng kiện , sanh ở Xuân Hạ có chất độc lập , tùy biến hóa mà thành công , thừa được vượng khí thì chí tận mây xanh , chỉ kỵ sanh ở Thu, tuy bị hoại tiết chí bị khuất phục nhưng chẳng theo vậy .

- Kỷ tị là mộc cận hỏa , kim sanh ở đây , ở ta mà không sát , kỵ gặp hỏa sanh vượng . Diêm Đông nói : Kỷ tỵ tại Tốn là Mộc bị phong đông , rễ dể bị bạt , hòa với Kim , Thổ vận ở Đông nam mà thành vật dụng , tuy ngoài dương trong âm mà chẳng phụ trợ nên khí hư tán , lại thêm Kim quỹ khắc nên thành Mộc bất tài dung vậy . Lạc lộc Tử nói : Kỷ tỵ Mậu thìn qua Càn cung mà thoát ách . Chú rằng : Kỷ tỵ Mậu thìn là loại cử mộc , kim quỹ vượng ở phương Tây , nạp âm mà Mộc thì đến đây phải tuyệt vậy . Như bị hạn ách nếu đến Càn Hợi cung thì Mộc đắc Thủy thành trường sanh mới khỏi ách .

- Canh ngọ Tân mùi Thổ , Mộc không dến khắc , chỉ kỵ nhiều Thủy thì bị thương khí , còn Mộc nhiều thì nhủ quy về , bởi Mộc quy Mùi vậy . Diêm Đong nói : Canh ngọ Tân mùi Mậu thân Kỷ dậu đều có đức hậu , Thổ bao hàm trấn tịnh , dung hợp hòa khí , nhân cách phước lộc .

- Nhâm thân là Kim lâm quan , thích gặp Thủy Thổ , nếu gặp Hỏa Bính thân Bính dần Mậu ngọ thì tác hại . Diêm D(ông nói : Nhâm thân Kim là cái uy của thiên tướng cho khí lâm quan , Thu Đong chủ quyền bị sát , Xuân Hạ thì tốt ít xấu nhiều , nhân cách lấy công danh mà phấn chấn , đế sát dùng để khắc bạc .

- Quý dậu là Kim cứng mạnh , Hỏa tử ở Dậu nên gặp Hỏa chẳng hề gì , chỉ kỵ Hỏa Đinh dậu cùng vị nên khắc vậy . Diêm Đông nói : Quý dậu là tự vượng Kim , cái khí chất thuần túy , Xuân Hạ thì tánh anh minh , Thu Đong rất quý nhân cách nên công danh sự nghiệp tiết tháo hơn người , đới sát thì niên thiếu ngang ngạnh đến sau 40 thì dần thuận tánh . Vương tiêu Bửu Giám nói : Nhâm thân Quý dậu là vị vượng Kim , không nên vượng lại vì vượng thì sát vật , không nên gặp Hỏa vì gặp Hỏa thì bị thương .

AnhNgoc
19-10-09, 14:44
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )



- Giáp tuất là tự khô Hỏa , không sợ các thủy chỉ sợ Nhâm tuất , đó là cái họa mộ trung thọ khắc , khó tránh được . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp tuất Hỏa là Ấn là khố , gồm cho đến khí dương tạng mật , gặp được qúy cách thì phú quý quang đại , chỉ kỵ sanh Hạ thì trong cát có hung .

- Ất hợi là Hỏa phục minh nên khí uất ức mà không phát tịch được , Kỷ hợi , Tân mão Kỷ tỵ Nhâm ngọ Quý mùi là Mộc sanh cho nên tinh thần vượng tướng , có Quý hợi Bính ngọ Thủy thì không tốt . Diêm Đông nói : ẤT hợi là Hỏa tự tuyệt , khí hàm minh mẫn mà tự tịnh , thuộc hệ ám quang tịch nhiên vô hình , nếu được đắc số thì cao nhân diệu đạo , quân tử tốt đức .

- Bính tí là Thủy lưu hành , không sợ các Thổ , chỉ hiềm Canh tí bởi trong vượng gặp quỷ chẳng được tốt lành . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính tí tự vượng Thủy , dương thượng âm hạ , tinh thần hoàn hảo , bẩm chất thiên tư khoáng đạt , tri thức uyên thâm , Xuân Hạ thì khí tề vật , công năng kiện lợi .

- Đinh sửu là phước tụ Thủy , rất thích Kim sanh , sợ bị Tân mùi Bính thìn Bính tuất tương hình phá vậy .Ngũ hành yếu luận nói “ Đinh sửu Ất dậu tại số là thủy tam yếu , có bẩm chất âm thạnh dương yếu , tuy trong sáng nhiều huệ mà thiếu phước , dùng Thủy Mộc vượng khí thì quân bình được âm dương mà phát quý đạt hiển sĩ “.

- Mâu Dần là Thổ thọ thương , chẳng có chút lực , cần được Hỏa sanh vượng để giúp khí , kỵ Kỷ hợi Canh dần Tân mão Mộc khắc , chủ bị đoãn triết đại hung . Ngũ hành yếu luận nói : Mậu dần , Bính tuất hai vị này thừa khí Thổ , một mặt sanh Hỏa , một mặt giữ Hỏa , tức là linh dương theo trong được phước khánh , đắc quý cách , đạo đức hơn đời , đến tận thân vương công tử , nhiều nơi chỗ nhựt sanh thường được dắc cách , cũng đếu phước thọ dài lâu , trước sau đều an dật .

- Kỷ mão là Thổ tư tử , bị ức chế nhiều , quý nhờ ở cái HỎa Đinh mão Giáp tuất Đinh hợi Kỷ mùi mà có phước . Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mão tự tử Thổ , mạnh ở nơi chánh vị , gió nỗi sét động , tán mà hòa khí , bẫm loại đạo hành , tùy biến mà thích ứng , phức thọ tự tại , chỉ không lợi nơi tử tuyệt tức là cửu giả vật quý chi đồ . Tam mệnh soán cục nói : Mậu dần Kỷ mão Thổ thọ thương không sợ lấy Mộc lâm tổn vì Thổ không còn lực . Vương tiêu bửu giám nói : Mậu dần Kỷ Mão Thổ không nên gặp Thủy , gặp Thủy thì tổn tài , không sợ Mộc , gặp Mộc thì thành chắc . Mậu dấn thừa Thổ đức vượng khí mà hàm sanh Hỏa , đắc thì chỉ phước thọ dài lâu , Kỷ mão không nên gặp lại tử tuyệt , gặp thì hung.

- Canh thìn là Kim tụ khí , không dùng Hỏa chế thì khí vật tự thành , Hỏa mạnh thì thành tổn thương khí vật , gặp Hỏa bệnh tuyệt thì vô hại , nếu gặp Giáp thìn Ất tỵ thì xấu ác rất nhiều , cũng không thể khắc các Mộc được . Diêm Đông nói : Canh thìn Kim có được sự cương kiện trầm hậu , lại có tánh thông minh lanh lợi , Xuân Hạ họa phước cũng có , nhập cách thì tài kiêm văn võ , đới sát thì hảo lộng binh quyền .

- Tân tỵ là bạch kim , tinh thần đầy đủ , khí thế hoàn bị , có bị thiêu đốt cũng không tiêu vong , kỵ Bính thìn Ất tỵ Mậu ngọ các Hỏa , bởi Kim bạch ở tỵ mà không thường sanh , bại ở ngọ tuyệt ở dần , khí tán mà lại gặp Hỏa sanh vượng thì khó mà đương nổi . Ngũ hành yếu luận nói : Tân tỵ Kim là tự sanh học đường , đủ anh minh khối kỳ , Thu Đong sức lực đầy đủ , Xuân Hạ bảy phần xấu ba phần tốt , nhập quý cách thì chủ học hành thông minh , thân được thanh quý , có lòng thương vật . Vương tiêu bửu giám nói : Canh thìn Tân tỵ chưa thành Kim khí nên cần gặp Hoa . Tân tỵ là tự sanh , tỵ thì đắc Hỏa nên quang huy nhựt tân .

- Nhâm ngọ là Mộc nhu hòa `, thân rễ đều nhỏ yếu , mộc năng sanh hỏa nên kỵ gặp nhiều hỏa , gặp thì thiêu hết vậy , tuy là kim sanh vương nhưng cũng không làm cho thương tổn được bởi kim đến đây thì bại , được kim trở thành quý , thủy thổ thạnh thì cũng quý , chỉ sợ kim Giáp ngọ làm thương tổn thôi . Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm ngọ mộc tự tử , mộc tử tuyệt thì hồn đi mà thần khí linh tú , bẩm được cái đức tịnh minh , có dõng lực mà phá tịnh lập công , diên niên ích thọ .

- Quý Mùi mộc tự khố , sanh vượng thì tốt , tuy ẤT sửu kim không thể xung phá cũng đều phải quy về gốc mới không tương phạm , kỵ Canh tuất Ất mùi kim . Ngũ hành yếu luận nói : Quý mùi là chánh ấn , có tánh văn minh tài đức , muốn đươc phước thanh hoa . Ngọc tiêu bửu giám nói : Nhâm ngọ Quý mùi là Dương liễu mộc , mộc đến ngọ thì tử , đến mùi thì mộ , cho nên thịnh mùa Hạ lá nhiều , được thời thì phú thọ , chẳng đựơc thời thì bần yểu .

AnhNgoc
22-10-09, 13:44
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )

- Giáp thân thủy tự sanh , khí lưu hành nên có nơi quy cũng mượn kim sanh , không sợ các Thổ khác chỉ sợ Mậu thân Canh tí thổ . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp thân thủy bạch sanh có thiên chân học đường mà đắc nhập cuộc thì trí thức thông tuệ diệu dụng vô cùng .

- Ất dậu tự bại thủy , cần các kim tương trợ , bởi khí tự đã yếu , muốn được mẹ dưỡng , kỵ Kỷ dậu Kỷ mão Mâu thân Canh tí Tân sửu các Thổ , nếu gặp thì yểu triết cùng tiện .

- Bính tuất phước tráng lộc hậu thổ , mộc không thể khắc được , sợ gặp Kim sanh vượng , nếu gặp được Hỏa thạnh thì quý không nói hết .

- Đinh hợi Lâm quan thổ , Mộc không thể khắc , chỉ hiềm nhiều Kim thì tiết , cần có Hỏa sanh để cứu thì tốt , kỵ Kỷ hợi Tân mão Mộc . Ngũ hành yếu luận nói : Đinh hợi Canh tí hai thổ có chứa kim , trong cương ngoài hòa , có được đinh lực , dùng Thủy Hỏa vượng khí thì kiến công lập nghiệp vậy .

- Mậu tí Kỷ sửu hỏa ở trong thủy , lại gọi là thần long hỏa , gặp thủy thì quý là ma lục khí vậy . Ngũ hành yếu luận nói : Mậu tí chứa tinh thần quang huy toàn thật , khí cả 4 thời , bảo sanh cái phước , nhập quý cách tức là quý nhân quân tử khí chất gồm lớn phú quý hết đời .

- Kỷ sửu là hỏa Thiên tướng , lại là nhà Thiên Ất ,hàm chứa khí oai phúc quang hậu , phát rất dũng mãnh , là tướng đức là khôi danh . Kinh nói : Hỏa được thai dưỡng thì khí dần mạnh , nếu được Bính Dần Mậu ngọ Hỏa trợ thêm thì trở thành có công tế vật .

- Canh dần Tân mão tuế hàn Mộc , sương tuyết không thể làm mất tiết tháo hướng chi là kim , như gặp thổ Canh dần Tân mão chẳng muốn chế trị , tự nhiên thành rừng . Diêm dông nói : Tân mão Mộc , tự vượng Xuân Hạ thì khí tiết xuất chúng ,kiến công lập nghiệp , sanh ở Thu thì bị ngông cuồng hẹp hòi tỏa triết , khí vượng khí nhuần .

- Nhâm thìn là tự khố thủy , nếu là đất ao hồ tích thủy thì kỵ kim đến quyết phá , nếu gặp lại Nhâm thìn tức là tự hình , gặp nhiều Thủy Thổ thì thích , chỉ sợ gặp Nhâm tuất Quý hợi Bính tí Thủy , được sanh vượng thái quá trở thành tràn lan hỗn tạp . Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm thìn là chánh ấn thủy , chứa cái đức thanh minh huần ốc , có tánh bao dung quãng đại , tâm thức như gương , được mùa Xuân Hạ thì đại phước tuệ , Thu Đông thì thuộc loại gian trá bạc đức .

- Quý tỵ là tự tuyệt thủy , tên gọi là hạc lưu ( chảy cạn ) , nếu gặp Bính tuất Đinh hợi Canh tí thổ hùng hậu thì còn giữ cạn , nếu gặp kim tam hợp sanh vượng thì thành nguyên lưu dồi dào khoa danh tấn đạt vậy . Ngũ hành yếu luận nói : Quý tỵ Ất mão là Thủy tự tuyệt tự tử , bèn đến âm lui ẩn , chân tình sắc dưỡng ngưng thành khí quý trở nên quý cuộc , loại nầy thuộc diệu đạo quân tử hiễn công cập vật .

- Giáp ngọ là tự bại kim cũng gọi là cường hãn ( dữ mạnh ) kim gặp hỏa sanh vượng thì khí vật thạnh , gặp Đinh mão Đinh dậu Mậu tí hỏa đại hung . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp ngọ kim là tấn thần khí tốt có , có đủ đức cang minh , Thu Đông thì tốt Xuân Hạ thì xấu , nhập quý cách thì khoa trương xuất chúng , nếu chẳng gặp thời mà đới sát thì bạo liệt vô ơn thiếu nghĩa . Chúc thần kinh nói : Giáp ngọ kim dương dữ mạnh , nếu ức chế thì trầm . Chú viết : Sa thạch kim cứng thích sát , muốn ức thì lấy hỏa mà dùng vậy . Quỷ Cốc di văn rằng : giáp ngọ thích quan quỷ . Lý hư trung nói : Giáp ngọ kim tổn dữ mạnh , Nhâm tí mộc hết nhu ,hoặc Nhâm tí gặp Giáp ngọ hoặc Giáp ngọ gặp Nhâm tí , âm dương giành vị không còn sáng tỏ .

- Ất mùi kim thiên khố ( không chánh khố ) , cũng là hỏa khắc mà thổ sanh thì phước mạnh khí tụ , kỵ Kỷ mùi Bính thân Đinh dậu các hỏa . Ngũ hành yếu luận nói : Ất mùi kim ở số là mộc khố lại là thiên tướng có đủ các đức thuần nhân hậu nghĩa , được quý cách thì anh kiệt xuất chúng khôi trấn tứ luân , nếu được cách thường mà đới sát xung phạm cũng được quân tử bình thường .

- Bính thân hỏa tự bịnh , Đinh dậu hỏa tự tử , khí nhỏ yếu , cần mộc tương trợ thì khí mới sanh , kỵ Giáp thân Ất dậu Giáp dần Ất mão các thủy , Diêm Đông nói : Bính thân hỏa bịnh hư , gặp Mộc đức văn minh , thủy khoáng đạt thì được phước tuệ , chỉ có kim là bạo hại , nếu dù có tốt thì cũng đổi thành cái khí bất hòa . Ngũ hành yếu luận nói : Bính thân Đinh dậu hỏa tư tử , hàm khí dấu kín yên tịnh , ngoài hòa trong cương , quý cách ở đó , thuộc loại có đạo quân tử , đức hạnh tự nhiên .

- Mậu tuất mộc trong thổ kỵ gặp lại thổ , nếu nạp âm gặp nhiều thổ thì một đời truân chuyên , kim không thể khắc bởi kim đến tuất thì bại , gặp kim có khi lại được phước , thích gặp nhiều thủy , thịnh mộc sẽ thành quý cách . Diêm Đông nói : Mậu tuất mộc cô thân độc vị , hòa với thủy hỏa vượng khí thì được cái đức chân thật anh minh , nhập cách thì văn chương tấn đạt , phước lộc thủy chung , nhưng vì thừa khí thiên tướng nên trãi nhiều gian hiểm song tiết tháo không đổi thì mới được phước về sau .

- Kỷ Hợi mộc tự sanh , căn bản phồn thịnh không sợ các kim khác chỉ sợ Tân hợi Tân tỵ Quý dậu kim , nếu gặp Ất mão Quý mùi Đinh mùi mộc chưa hẳn là không đại quý . Ngũ hành Yếu luận nói : Kỷ hợi mộc tự sanh , anh minh tài trí , như đắc được nơi thì thanh quý . Diêm Đông nói : Kỷ hợi mộc được thời thì thanh quý , chẳng gặp thời thì tân khổ .

- Canh tí thổ hậu đức , hay khắc các thủy và không kỵ các mộc , bởi mộc đến tí thì vô khí , nếu gặp được Nhâm thân kim thì là được Lộc vị tức quý vậy .

- Tân sửu thổ phước tụ , bởi lộc không thể khắc và Sửu là Kim khố , trong Sửu có Kim nên không sợ gặp Mộc . Ngọc tiêu Bửu giám nói : Canh tí Tân sửu thổ thích Mộc mà ghét Thủy , gặp Mộc là quan , gặp Thủy thì không tương nghi . Diêm Đông nói : Tân sửu Kỷ dậu Thổ trong có chứa ít Kim , đức hậu tánh cứng hòa mà bất đồng , trên dưới tề nhau dùng Thủy Hỏa vượng khí thì công lớn danh oai vậy .

- Nhâm dần tự tuyệt kim , Quý mão là kim tám khí , nếu gặp các Hỏa thì phải tiêu khí , chỉ tốt khi được Thủy Thổ triều . Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm dần Quý mão là Kim hư hoại bạc nhược nhưng cũng có đức nghĩa nhu cương , Thu Đông khang kiện không xấu , xấu lại là điềm tốt , Xuan Hạ thì nội hung ngoại cát , tốt thì bị xấu trước , nhập quý cách thì tiết chí anh minh , đới sát thì hung bạo không cùng vậy .Tam mệnh soán cuộc nói : Quý mão là Kim tự thai , nếu gặp Bính dần Đinh mão Lư trung Hỏa thì không sợ , vì thai Kim nên ở trong lư thì thì khí vật được thành vậy .

- Giáp thìn là Hỏa thiên khố ( không chánh khố ) , có nhiều Hỏa trợ thì tốt , đó là đồng khí tương trợ , nếu gặp được Mậu thìn Mậu tuất Mộc sanh cho thì đắc quý cách , kỵ Nhâm thìn Nhâm tuất Bính ngọ Đinh mùi Thủy rất độc . Ngũ hành yếu Luận nói : Giáp thìn là Thiên tướng Hỏa , tánh khí nóng mạnh nhanh nhẹn , nhập quý cách thi văn khôi đặc biệt , lợi ở Thu Đông mà không lợi ở Hạ .

- Ất tỵ lâm quan Hỏa , Thủy không thể khắc bởi Thủy tuyệt ở Tỵ , được Thủy tương tề thì là thuần túy , nếu có hai ba Hỏa tương trợ thì cũng tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Ất tỵ chứa thuần dương , phát khí ở Tốn nên quang huy sung mãn , Xuân Đông theo tốt , Thu Hạ theo xấu .

- Bính ngọ Đinh mùi Thiên hà Thủy thổ không thể khắc Thủy ở trên trời nên đất Kim không sanh được , như sanh vượng thai quá thì phát dục nơi vạn vật , nếu tử tuyệt thái quá thì lại không thể sanh vạn vật . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính ngọ là thủy chí cao , khí thể ôn hậu ở phương Nam tánh loại có đạo khí hư thì biến thành xuất sắc .

- Đinh Mùi thì đủ cả tam tài , toàn số được xung chánh khí bẩm được tinh thần toàn khí , căn tánh cao diệu , biến hóa vô cùng .

- Mậu thân trọng phụ thổ , mộc không thể khắc vì mộc tuyệt ở thân , nếu được kim thủy trợ nhiều thì chủ phú quý tôn vinh vậy .

- Kỷ dậu là tự bại thổ , khí không đầy đủ , cần lấy hỏa tương trợ , gặp được Đinh mão Đinh dậu hỏa thì tốt , kỵ nhất là tử tuyệt , nếu gặp Tân Mão Tân dậu mộc thì tai ương yểu triết

- Canh tuất Tân hợi là kiên thành kim không nên gặp hỏa dễ bị thương tổn , nếu được thủy thổ tương giúp thì quý . Diêm Đông nói : Canh tuất kim mộ ở hỏa , kim cương liệt trở thành hung bạo , Thu Đong ít nhiều trầm hậu , Xuan HẠ động sanh hối tiếc , quân tử nắm binh quyền , tiểu nhân thì tánh hung ác . Tân hợi kim mạnh ở Càn , có khí thuần minh trung chánh , Xuan Thu Đông đều tốt , Hạ thì 7 tốt 3 xấu , lấy nhân mà hành nghĩa , nếu có hình sát thì hung bạo bần tiện..

- Nhâm tí mộc chuyên vị , Quý sửu là mộc thiên khô , gặp tử tuyệt thì phú quý , gặp sanh vượng thì bần tiện , nhiều mộc thì yểu triết , kim thổ nhiều và thịnh thì tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm tí là mộc âm u , dương yếu mà âm mạnh , nhu mà không lập , gặp Bính ngọ thủy thì đức tánh thuần túy thuộc loại thần tiên dị sĩ tánh cách phi thường . Chúc thần Kinh nói : Nhâm tí mộc mắc ở chỗ nhu mềm , hoặc phát dương nhân thì cao minh . Chú rằng : Nhâm tí mộc ở nơi vượng thủy , tí được ít dương khí mà sanh , nhu thoát dễ triết tức là mộc tự bại , nếu phát lên được thì khí hỏa thượng tăng ích mà khiến cho phồn vinh nên cao minh nhân nghĩa.
- Bản gốc thiếu Quý sửu .

AnhNgoc
31-10-09, 11:55
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )

- Giáp Dần : Tự bịnh Thủy ; Ất Mão Tự tử Thủy : Tuy là tử bịnh Thủy nhưng Thổ không thể khắc được bởi vì can chi 2 Mộc có thể chế được Thổ , nếu gặp Nhâm dần Quý mão Kim thì rất tốt . Ngũ hành Yếu Luận nói : Giáp dần Nhâm tuất hai thủy này là phục nghịch , âm thắng dương chủ gian tà hai vật , chỉ nên dùng hỏa thổ tổn ích thì mới thành đại khí vậy .

- Bính thìn : tự khố thổ , vừa dày lại mạnh , thích Giáp thìn Hỏa mà ghét Mậu thìn mộc , Mộc này ở trên không tổn được vì bởi Bính là Hỏa , Thìn là Thiên khố hỏa , Thổ đã thành khí rồi , chỉ sợ Mậu tuất Kỷ hợi Tân mão Mậu thìn Mộc . Ngũ hành yếu luận nói : Bính thìn là chánh ấn thổ , có đức ngũ phước cát hội thì đều đại hưởng , không quý cũng phú , nếu phạm xung thì phần nhiều làm tăng sĩ .

- Đinh tỵ tự tuyệt Thổ mà lại không bị tuyệt bởi vì một Thổ mà ở với hai Hỏa , tức ở đất của cha mẹ nên không thể tuyệt , Mộc cũng không thể khắc , nhiều Hỏa thì càng tốt . Ngọc tiêu Bửu giám nói : Đinh tỵ là Đông Nam Hỏa đức vượng , đắc thì có nhiều phước thọ .

- Mậu ngọ là Tự vượng Hỏa ; Kỷ mùi là Thiên khô Hỏa , cư ở Ly thì sáng , là đất vượng tướng nên khí rất thịnh , các Thủy đều không hại được chỉ kỵ Bính ngọ Đinh mùi Thiên thượng Thủy . Diêm Đông nói : Mậu ngọ Tự vượng Hỏa có được khí viêm thượng ở Ly , tụ vật vô tình , động khắp các chúng , đắc ở Thu Đông , dùng Thủy Thổ vượng khí khoát đạt cao minh , phước lực mạnh mẽ , Xuân Hạ tốt theo , dùng Kim Mộc thì tuy phát nhanh mà mệnh chẳng thường lâu . Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mùi hỏa suy chứa được dư khí nên tháng Xuân Hạ thì vận được dấu kín nên minh mẫn tuấn đạt , phướng khánh đầy đủ , gặp Hạ thì chẳng hòa khí , gặp Thu thì trước tốt mà sau thì xấu .

- Canh thân , Tân dậu 2 Mộc này có Kim ở trên , do Kim mà thành vật nên kỵ tái gặp Kim sẽ hủy mất khí vật vậy , nếu gặp Giấp thân Ất dậu Thủy thì nhập cách . Ngọc tiêu bửu Giám nói : Canh thân tự tuyệt mộc là hồn du thần biến gặp được ngày mà sanh là loại phi phàm chủ tính cách xuất chúng , gia tộc không kềm chế được , nhập quý cách thì nhân kiệt anh tài . Tân dậu là Mộc thất vị , đối với Quý mão Kim thì cương nhu tương tề suy quần bạt tụy . Chúc thần Kinh nói : Hồn quý ở Thiên du , nên Canh thân mộc không sợ bị tử tuyệt mà quý ở thiên du . QUỷ cốc dị văn nói : Tân dậu kỳ sanh vượng . Chú rằng : Tân dậu mộc khí tuyệt , cần được sanh vượng thì mới vinh đạt .

- Nhâm tuất Thiên khố Thủy ; Quý Hợi Lâm quan Thủy đều gọi là Đại hải Thủy bởi can chi nạp âm đếu là thủy , kỵ gặp các thủy , tuy Nhâm thìn thủy khố cũng không thể gánh nổi , không bị các Thổ khắc , tử tuyệt thì tốt còn sanh vượng thì lại lan tràn không có chỗ quy vậy . Ngọc tiêu bửu giám nói : Hợi Tí là Thủy chánh vị , ở Nhâm tuất khí phục mà khôn thuận , chỉ dùng hỏa thổ để tổn ích thì thành đại khí ; QUý hợi đủ số thuần nhân , thể chất thiên từ thông minh , chí khí rộng lớn , phát triển công nghiệp , chọn nhựt thời tốt , đới sát thì vào loại hung giảo.

* Lại nói : Bính tuất thổ là phúc hậu , hỏa cũng tụ ở đây vậy , Kỷ mùi Canh thìn Mậu thìn Đinh sửu cũng đồng nghĩa nầy , Kỷ mùi hỏa , trong Mùi có mộc mộ , Canh thìn Kim vậy , trong kim có thổ mộ , Mậu thìn mộc trong thìn có thủy mộ , Đinh sửu thủy trong sửu có kim mộ , đều là khí phụ mẫu nên được dương , năm thứ này phước sâu dày nên dù có quỷ thương cũng không làm hại khí thành vậy .Lý hư Trung nói : Bính tuất rất lạ , lấy Tuất lại là bổn vị của thổ mà rất vượng thạnh .

* Ất tỵ , Mậu ngọ là hỏa nóng mạnh , Thu Đông có đức tốt , Xuân Hạ thì hình hung , nếu trọng Hạ thì phát nóng dữ , hết thảy khô táo , Ất tỵ Lâm quan hỏa có một mộc sanh nên khí thạnh , Mậu ngọ tự vượng hỏa nếu sanh Thu Đông thì khí ấm có đức nuôi vật , như sanh Xuân Hạ thì thì vượng hỏa trở về dương vị nên sanh hung , Hạ thì bạo lệ , thuộc loại hung yểu vậy .

* Ất mão Quý tỵ Đinh dậu Ất hợi thủy hỏa tuy tử tuyệt nhưng lại giai diệu , hỏa tử tuyệt mà trong sáng ngoài tối phản quang hồi chiếu , thủy tử tuyệt mà thanh trọng . Lý trung Hư nói : 4 vị này tuy tử tuyệt không thanh minh mà diệu giai , cứ xem Thiên ất quý nhân thì biết vậy .

* Nhâm dần kim , việc vua không thể nghịch ; Canh thân kim , làm tôi không chống ngũ hành thuộc ngũ âm , cung thổ là vua , thương quan là thần , giác thủy là dân , thương thái quá thì thần mạnh , giác thái quá thì vua yếu , nên trong ngũ hành thường dùng 4 thanh cung để sát thương giác

* CAnh thân là giác mộc tự tuyệt , Nhâm dần là thương kim tự tuyệt , đều khiến được cái đạo trung thuận , nên việc vua không nghịch , là thần không chống , cho nên từ tử vi loan đài phụng các trở lên rất kỵ kim mộc mệnh sanh vượng , như vậy không thể làm , làm thì chẳng được lâu , độc nhất thì có thể được , nếu kim mộc sanh vượng mà khắc phá thì chẳng thể .

Canh thân mộc , Ất tỵ hỏa , thổ kim sanh mà hoàn , không sanh Bính ngọ thủy Quý mão kim , mộc thủy tử mà lại không tử , thổ sanh thân mà lại không sanh nơi Canh thân , thủy sanh thân mà lại không sanh nơi Mậu thân , hỏa sanh dần mà lại không sanh nơi Giáp dần , kim sanh tỵ mà lại không sanh nơi Ất tỵ , mộc sanh hợi mà lại không sanh nơi Tân hợi , bởi nơi sanh mà trở lại phản chế vậy , đắc thì yểu thọ . Mộc tử mão mà lại không tử nơi Quý mão , thổ tử mão mà lại không tử nơi Đinh mão , mộc tử ngọ mà lại không tử nới Bính ngọ , kim tử tí mà lại không tử nơi Canh tí , hỏa tử dậu mà lại không tử nới Tân dậu , bởi nơi tử mà được sanh vậy , đắc thì trường thọ .

AnhNgoc
01-11-09, 11:24
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )

* Mậu tí can chi vượng ở Bắc phương là thủy vị , nạp âm thuộc hỏa tức hỏa ở trong thủy ,không phải thần long thì không có . Bính ngọ can chi vượng ở Nam phương là hỏa vị , nạp âm thuộc thủy tức thủy ở trong hỏa , không phải Thiên hà thì không có . Người Bính tí gặp Bính ngọ hoặc người Bính ngọ gặp Mậu tí thì quý , bởi trong hỏa xuất thủy , trong thủy chứa hỏa tức thủy hỏa ký tế , tinh thần vận động thì thuộc người phi thường vậy . Lý trung Hư nói : Bính ngọ thiên thượng thủy trong 12 thời thiên hậu vậy , đắc được thì cao minh khoáng đạt linh dị bất phàm . Mậu tí hỏa ở trong thủy thì lục khí quân hỏa vậy , đắc được gọi là thần minh . Ngoài ra các khí khác lấy đây mà làm chuẩn vậy . Tân sửu thổ không sợ mộc , Mậu tuất mộc không sợ kim , vì sao nói vậy : kim khố ở trong sửu nên mộc không thể khắc , trong mậu có hỏa kim tới thì bị thương . Như Mậu tuất mộc có hai thổ ở trên một mộc ở dưới , vì chôn dưới 2 thổ nên mộc manh nha mà chưa thấy hình tức là thổ thạnh mà mộc yếu , các loại khác đều xét vậy .

* Canh dần mộc Đinh tỵ thổ không sợ quỷ kim mộc , kim đến cung dần tức là quỷ nhưng kim tuyệt ở dần nên không là quỷ , Mộc đến cung tỵ mà tỵ có kim sanh khắc mộc nên không là quỷ , nếu Canh dần mộc mà gặp Nhâm thân kim tức bị tương xung tương khắc vậy , các vị khác cũng vậy .

* Canh ngọ thổ thừa nơi Nam phương vượng hỏa dưỡng mà thành hình , Mậu thân thổ tự sanh , Canh tí thổ tự doanh nên không sợ mộc quỷ bởi mộc đến ngọ thì tử ,đến thân thì tuyệt , đến tí thì bại , lại là thổ tự dưỡng nên không thể làm thương tổ được . CÁc vị khác cũng tính vậy .

* Nhâm thân Quý dậu Canh tuất Tân hợi kim khí mạnh nên không sợ quỷ , Mậu tí hỏa không sợ quý thủy bởi Tích lịch hỏa là Thần long , có thủy thì Lôi mới phát , nếu gặp Bính ngọ Đinh mùi Thiên thượng thủy thì có thể kỵ vì bị tương chiến , thường thì khí bổn mạng can chi thọ thương tức lục căn không đủ , có trước không sau ; như Đinh tỵ gặp Quý hợi , Nhâm tí gặp Mâu ngọ . Các vị khác cũng tính vậy .

* Mâu ngọ Canh thân tương hợp , Canh thân Thạch lựu Mộc Hạ vượng nên thích Mậu ngọ , bởi hỏa cung vượng mà Thạch lựu mộc tánh được đắc thời , Mâu ngọ lại là cực vượng hỏa , thích nơi Thân , gặp thiên mã tương cho vậy , là thần đầu lộc tức chuyên vị thập can , Lộc là Am dương chuyên vị , thiên địa thần hội vậy . Bày cái chân nguyên của Bát quái , xếp cái thành bại của Ngũ hành , sự cương nhu tương quyền , có hay không hợp hóa , nên Nhâm tí quý ứng ở Bắc phương Khảm ; Bính ngọ hỏa thuộc Nam cung Ly , cho nên Bính ngọ đắc Nhâm tí không là phá , Đinh tỵ đắc Quý hợi không là xung , đây là Thủy Hỏa tương tế có cái nghĩa Phu Thê phối hợp vậy ; Khảm Ly là Nam Nữ , cái dụng tinh thần , Nhâm tí được Bính ngọ , Quý hợi được Đinh tỵ thì trước sau Thủy Hỏa có tương vị tế , không như Đinh tỵ gặp Nhâm tí , Bính ngọ gặp Quý hợi .

* Canh thân Tân dậu Kim ứng ở Tây phương Đoài , Giáp dần Ất mão Mộc thuộc Đong phương Chấn , sở dĩ Giáp dần gặp Canh thân không là hình , Ất mão gặp Tân dậu không là quỷ , bởi Mộc nữ Kim phu chánh thể vậy , rõ sự thần hóa tả hữu vậy , Mộc chủ hồn mà Kim chủ phách , hai thứ này tả hữu tuong gian không hợp , nếu được toàn hợp tức là thần hóa chẳng còn khoảng cách vậy , nếu Canh thân gặp Ất mão , Tạn dậu gặp Giáp dần thì không phải cái dụng biến thông nguyên thần vậy .

* Mậu thìn Mậu tuất Thổ là khôi cương tương hội , hậu đức làm khôn không phải là phản ngâm , không phải là xung bởi Thổ đắc chánh vị , can ở nguyên hội vậy .

* Kỷ sửu Kỷ mùi là quý thần giữ trung trinh , đây là tứ chân Thổ có cái đạo thủy chung của vạn vật , nếu chẳng phải bực đai nhân quân tử thì không có được cái đức nầy , huống chi là thần đầu lộc , chủ của các thần , sự vận động tả hữu ở trong lục hợp , biến hóa thừa thiếu của việc cát hung vậy .

* Kỷ sửu Thổ là Thiên ất quý nhân , là thái thường phúc thần , giải được sự hung ác của các sát , nếu đắc được thì chủ hoạnh tài , Mâu thìn là Câu trần , Mậu tuất là Thiên không , chủ tướng trấn biên phòng nên bất thường vậy , Đinh tỵ là thần Đằng xà , hung láy hung mà dùng , cát lấy cát mà theo , dễ bị mê hoặc , có tánh hoạt kê , Bính ngọ là thần Châu tước thể chất dương minh , văn từ thông tuệ , Giáp dần là thần Thanh long , giúp cho mọi loài , đắc lợi cả 4 phương , Ất mão là thần Lục hợp , phát sanh sự vinh hoa , Nhâm tí là thần Thiên hậu chủ thiên đức âm dương tốt đẹp nhiều quyền , Quý hợi là thần Huyền vũ là cuối cùng âm dương , khí đã tiềm phục , theo dưới mà lưu , tuy có đại trí mà chẳng có sự hiên ngang siêu đạt , thuận thì được an bình , nghịch thì loại cừu gian , Canh thân là thần Bạch hổ , lợi ở võ mà không lợi cho văn , sắc lệ nhu mì , có nhân nghĩa , thích u tịch , Tân dậu là thần thái âm , tính cách thanh bạch , văn chương trôi chảy , tài năng xuất chúng , nhưng phải xét sự hưu vượng thân sơ mà định tánh tình họa phước .

AnhNgoc
08-11-09, 16:57
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )


* * Giáp tí Ất sửu Hải trung Kim :
- Hải trung Kim tức bảo tạng long cung , ngọc trong bụng thuồng luồng , xuất hiện tuy như xung không , thành khí chẳng mượn nơi hỏa lực ư ! cho nên Đông Phương Sóc đặt tên là Cáp bạn thật có lý vậy , tức là cách ngọc dưới biển sâu , dùng Giáp tí gặp Quý hợi là không dùng hỏa , gặp không là cách bạn châu chiếu nguyệt . Lấy Giáp tí gặp Kỷ mùi là muốn hợp hóa ngũ quý bởi lấy Hải kim vô hình , chẳng xung không thì không thể xuất hiện mà Ất sửu là kim khố nêú không có vượng hỏa thì không thể đúc luyện vậy . Như Giáp tí gặp Mậu dần Canh ngọ là thổ sanh kim , Ất sửu gặp Bính dần Đinh mão là hỏa chế kim . Lại được tam kỳ thiên can đúng cách cuộc không thể không quý . Xưa nói : Giáp tí Ất sửu đều thích gặp Lư trung Hỏa , Bính dần vượng hỏa bất nghi mộc trợ Đinh mão bại hỏa bất nghi , mộc trợ Phúc đăng Sơn đầu Sơn hạ các hỏa thì tánh nhỏ không thể luyện kim , cho nên mộc cần trợ Thiên thượng Hỏa thì không khắc kim , thường hể hỏa gặp lại thủy tế không xung phá thì tốt , Tịch hỏa đến Vị thì tương khắc chủ tánh mê muội nếu vận mà tái phạm thì đại hung , gặp mộc thì không được tạo hóa , đây là kim mộc năng thành khí mà không hề chế vật vậy , nếu ngày tháng có hỏa mà giờ gặp mộc không dùng tài cũng cát . Tỉnh tuyền Gian hạ Đại khê Thiên hà các thủy nếu không có hỏa thì đều bất nghi , gặp hải thủy cũng bất nghi , nhưng luận theo điệu tuyển thì là quý cách , cứ theo lý Giáp tí gặp Quý hợi phùng sanh xu càn thì sao không thể có , Lộ bàng ,Ốc , Bích , Thành đầu , Đại trạch các thổ tại nhựt thời là trụ trung thiên nguyên chi thần nạp âm đều không bị hỏa chế mà chủ tàn trung niên yểu , ta thấy cũng chưa hẳn , Lấy canh Ngọ Tân Mùi Mậu dần Kỷ mão 2 thổ này tạo hóa hữu tình vậy , như Giáp tí gặp Canh ngọ tức khảm ly tương tề , gặp Tân mùi thì quan tinh đới quý , Ất sửu gặp Canh ngọ là quan quý hỗ hoán , Giáp tí gặp Mậu dần là tuyệt địa phùng sanh , gặp Kỷ mão là thiền can hợp hóa , Ất sửu gặp Mậu dần cũng là tuyệt địa phùng sanh , gặp Kỷ mão tức quy lộc đới tài , các thổ khác cũng phân vậy , ngọ niên thượng lộc mã quý nhân , chỉ sa thổ chôn kim thì không nên gặp , có hỏa cũng không tốt , trụ trung mà phùng kim sa hoặc Bạch lạp thì chưa thành khí , Hải trung cũng chưa thành khí , đây đó đều vô ích , cho nên không hỏa thì bất nghi . Kiếm Xoa thì đã thành khí , kim tương kiến thì trợ , Diệu tuyển gọi là thoát thể hóa thần chủ quý , Bạc kim cũng quý tốt , như Giáp tí gặp Giáp tí , Ất sửu gặp Ất sửu thì đồng loại tương giúp , tựu trung thích gặp dần , gặp Mậu dần tức là Côn sơn phiến ngọc , như Giáp tí gặp Ất sửu gọi là Can chi Liên châu nếu không được hỏa luyện thì không tốt , đây là nghĩa của cách can hạ tinh thần vậy.

AnhNgoc
09-11-09, 19:43
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )

** Nhâm dần Quý mão Kim bạc Kim .
Kim bạc kim là nhuận sắc , cung thất sáng rõ , đính bạc nơi kim khác , hình ảnh đều tựa hồ thủy lực , đây loại kim rất nhỏ , không có thủy thì không sở y , thủy dùng Bình địa là tốt , có vậy không nên gặp hỏa , có hỏa thì yểu , gặp Thái dương là Nhựt gian chi hiển , hai hỏa tương phản , không nên đồng gặp sơn hạ , sơn đầu hỏa , có thanh thủy trợ giúp thì cát , sợ gặp lư hỏa đến vị thì tương khắc ; kim này thể yếu không thể phản nguyên , Tỉnh tuyền , giản hạ ,Thiên hà là thủy thanh , nhựt thời nên gặp , tu nguyệt lệnh có mộc thì tốt , Khê Lưu Đại hải các thủy trược , gặp Khê Lưu thì phiêu bạc , gặp Đại hải không mộc thì chủ hung tàn; kim gặp Kiếm phong xoa xuyến có thể trang sức trở thành cái lý tạo hóa nên thích gặp , Sa Hải Bạch lạp thì vô ích , có hỏa tề thì cũng tốt không có thì tức xấu , Thành đầu Bích thượng hai thổ nương nhờ thì an thân ,, Bích thượng thêm mộc thì quý , lại gặp Đăng hỏa thì quang huy chiếu diệu chủ quyền quý ; Bính tuất trong thổ chứa hỏa , can chi không nên quá nóng cũng là quý cách . Xét Diệu Tuyển : Kim mệnh mà gặp tuất dần là cách Côn sơn phiến ngọc vậy , Quý mão mà gặp Kỷ mão là cách Ngọc thố đông thăng vậy , giống như Hải trung luận .

** Canh thìn Tân tỵ Bạch lạp kim :

Bạch lạp kim là Côn sơn phiến ngọc , Lạc phố di trân ; giao tiếp ánh quang nhựt nguyệt , ngưng tụ hí âm dương , hình sáng thể sạch , là kim chánh sắc vậy , kim nầy chỉ thích hỏa luyện như Lư trung hỏa nóng , nhưng Canh thìn mà không có thủy tề thì chủ bần yểu , Tân tỵ không dùng quý mà luận , tỵ là nơi sanh kim , gặp Bính dần hóa thủy gặp quý là vậy ; Sơn hạ sanh chủ sớm quý hiển cũng cần thủy trợ mới được , Tỉnh tuyền Đại khê đều là quý cách ; Canh quan tại Đinh Tân quan tại Bính , cho nên Canh mà gặp Đinh sửu thì quan quý đều đủ , Tân gặp Bính tí không như Quý Kỷ Canh không quý cũng phú , gặp mộc nhiều thi vô ích , cho vậy không thể tương khắc , uổng gặp hỏa vô khí , không cần thủy sanh , có lộc mã quý nhân thì tốt , gặp thổ thì chỉ nên xếp đặt thì mới thành khí vật là tốt , thổ khác không dùng ; kim kỵ Hải Sa là chìm mất , nhựt thời gặp hỏa thì không vinh , nếu gặp kim thanh thêm thủy tương trợ , hỏa cũng không thích , chỉ sợ xung hình , Diệu tuyển là cách Tiêu phong mãnh hổ , đây dùng kim nhựt thời gặp Tân tỵ hoặc Ất tỵ vậy .

AnhNgoc
12-11-09, 10:48
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )

* * Giáp ngọ Ất mùi Sa trung kim
Sa trung kim hình cứng trong đất thực chất là trong cát cầu chọn mà mới thành ,kim này không có lư hỏa thì không chế được , chỉ Giáp ngọ gặp Bính dần , hỏa sanh trong dần lại dần ngọ hợp cuộc , thổ không trường sanh thì khô lại thêm thủy thì chủ bệnh yểu . Bính ngọ nạp âm tuy là thủy mà can chi lại thuần hỏa , gặp thì hung . Sơn đầu , Sơn hạ , Phúc đăng 3 hỏa này đã có mộc sanh khắc chế nên kim cần có thanh thủy tương tề thì nhứt định thiếu niên dược vinh hoa phú quý . Mậu tí Kỷ sửu long hỏa tương phùng , Tí Ngọ là sự diệu dụng giao cấu , Giáp Kỷ lại hợp hóa chủ quý . Tỉnh tuyền , Giản hạ , Thiên hà các thủy nầy thanh tịnh nên tốt . Trường Khê Đại lưu động mà không tịnh , nếu kim gặp thì chẳng an , Hải thủy thì càng kỵ , còn gặp mộc thì sao hỏa suy không thích sanh phò lại lộc mã quý nhân hổ hoán triều cũng là trên hết , như trụ không gặp hỏa một hoặc hai mộc thì nguy ; nếu Giáp ngọ gặp Kỷ tỵ là chọn tinh kim được quý cách vậy ; kim sanh ở nơi cát được chế hóa thì tốt , nếu lại gặp đất cát ( Sa thổ ) thì trở thành bị mai một , Lộ bang Đại trch5 thì phải kỵ vì có hỏa ít nhiều , Mậu dần Thành đầu Ất mùi thích gặp , chọn tinh kim nơi thanh sa tức được quý cách vậy . Riêng Bính tuất thổ , trong chứa hỏa khố lại thích gặp kim đồng loại , rất thích thanh khí , Hải trung Bạch lạp có hỏa chế cũng được .

* * Nhâm thân Quý dậu Kiếm phong Kim:
Kiếm phong kim tức là Bạch đế cầm quyền , mạnh nhờ đúc luyện , hồng quan xạ nơi đẩu ngưu , nhọn sắc ngưng nơi sương tuyết , kim nầy không có thủy thì không thể sanh . Đại khê Hải thủy nhựt thời gặp được thì thượng cách . Tỉnh tuyền Giản hạ có Tích lịch trợ hoặc được Ất mão lôi thì được tốt , nếu không có Lôi Tích thì cũng được cách kim bạch thủy thanh vậy , thu sanh thì càng tốt , nhựt thời gặp Trường lưu ở Nhâm thìn là bảo kiếm hóa thành thanh long , Quý tỵ cũng được kiếm này , không nên thông biến nhưng Quý sửu kiếm khí xung đẩu tối cát , Tùng bách Dương liểu cũng tốt chỉ nhiều tụ tán . , Đại lâm Bình địa sợ có thổ chế chủ vinh khô , hỏa gặp thần long , âm dương giao ngộ như Nhâm thân gặp Kỷ sửu Quý dậu gặp Mậu tí đều là thượng cách , nếu gặp Thiên thượng Lư trung 2 hỏa mà không có thủy cứu thì yểu , các thổ khác đều không tốt vì bị mai một , riêng Bích thượng Thành đầu có cái dụng mài sát tôi rèn nên 2 thổ nầy có thể làm đồng loại với kim , như Nhâm thân gặp Nhâm thân , Quý dậu gặp Quý dậu có thủy chế gọi là bàn căn thác tiết nên không lợi khí vậy , không có thủy thì đới bịnh ; Hải Sa Bạch lạp 3 kim này chỉ Ất sửu là tốt , Xoa xuyến thì thành khí , tương kiến cũng được , nếu chưa được thành kim không phải là kiếm thì tối kỵ , gặp thì chủ tánh ngông cuồng , Tuất thì kim hỗn tạp thời không nên hỏa thắng cũng như Kiếm phong là kim rất lợi nên chỉ cần lấy thủy mà nhuần chứ không nên hình hỏa , nếu gặp Dần Tỵ tam hình thì đại hung vậy .

AnhNgoc
30-11-09, 16:57
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )

* * Canh tuất Tân hợi Xoa xuyến kim :

- Xoa xuyến Kim là mỹ dung đạo sư , da dẻ quang sáng , là loài kỳ thúy trân bảo , Kim nầy ở trong khuê các chỉ nên tịnh thủy , Tỉnh Giản Khê Lưu gặp thì tốt , gặp nhiều thì phiếm , Hải thủy thì bần yểu , Thiên hà Tân hợi gặp thì không lợi , Bính Ngọ là chân hỏa nên kỵ Canh tuất , dùng Ngọ Tuất thấu thành hỏa cuộc bị thương , Kim nầy là vậy . Thái dương hỏa nhựt sanh hiển diệu , Phúc đăng hỏa thì hiển diệu ban đêm nên cần gặp , nhưng riêng Giáp thìn Ất tỵ với Canh tuất Tân hợi là tương xung , âm dương giao kiến là diệu , Mậu tí Kỷ sửu với Bính ngọ Đinh mùi tương trì , 2 hỏa này kỵ điệp kiến , gặp thì không bần cung yểu , Canh tuất rất kỵ Lư trung hỏa , Bính Tân hóa thủy ít tốt , Sơn hạ Sơn đầu đều không nên gặp , nếu được thủy tề thì có thể , trụ trung có thủy , kim nhập ở trong dương thì phước quý , Thổ gặp Sa trung thì tương sanh tương dưỡng lại có nhuận hạ thủy trợ thì vinh hoa phú quý , Kim thích Kiếm phong thì thành sanh tạo , Bạc kim thêm sáng , Xoa xuyến nên lấy ít hỏa tề cho , trừ 2 kim nầy ra còn kim khác thì vô dụng ; nếu mệnh trung chỉ có kim thủy mà không giáp tạp tức kim trắng thủy trong , ở hoạt pháp quyền vậy .

* * Mậu tí Kỷ sửu Tích lịch Hỏa :

- Tích lịch hỏa là một số hào quang , hể trời ra hiệu thì lôi xế kim xà , dùng mây làm ngựa mà đi , hỏa nầy cần cho phong thủy lôi thì mới biến hóa , nếu ngũ hành được có một cái thì hanh thông , như nhựt thời gặp Đại hải , Quý hợi là đưa phàm nhập thánh , Kỷ sửu tốt nhất , thứ đó là Mậu tí , gặp Đại hải Ất mão là lôi hỏa biến hóa , Kỷ sửu là tốt mà Mậu tí hạng thứ , Thìn Tỵ là phong vận , gặp được thì rất hay , Thiên thượng thủy gọi là ký tế chủ tốt , gặp được thì bản tánh hàm linh thông minh đặc biệt , Trường lưu thì vô dụng , Giản hạ tựu vị tương khắc , đây là thần hỏa vậy , không kỵ có phong vì hiễn ngũ hành , gặp mộc Tân mão có lôi , Đại lâm có phong , Bình địa có then môn cùng với hỏa nầy tương giúp , còn mộc khác thì vô dụng , gặp thổ Lộ bàng thêm khác thì tốt , Sa trung Đinh tỵ có phong , Kỷ Mão có lôi được tương trợ nên chủ quý hiển , Kiếm kim thêm thủy , Hải kim gặp phong , Thiết kim gặp Giản đều tốt , các kim khác vô dụng , Lư trung Đinh mão là tốt , Mậu tí gặp Bính dần thì đại táo chủ tành hung ác , yểu triết , Kỷ Sửu gặp Bính thân không đắc , Mậu tí thứ nhì . Đăng hỏa Đông nam Tốn có phong rất tốt gặp Mậu ngọ Kỷ mùi Thiên thượng hỏa nhựt thời mà gặp thì phòng hình khắc . Xét trong Diệu tuyển có cách Liệt phong Lôi vũ tức Tích lịch gặp Thiên hà vậy , có cách Thiên địa trung phân tức Mậu tí gặp Mậu ngọ vậy , có cách Lôi đình đắc môn tức Mậu tí Kỷ sửu nhựt thời gặp Mão vậy . Ba cách nầy thuần Tuất Ngọ , đối với thuyết trước thì bất đồng .

AnhNgoc
04-12-09, 15:00
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )

* * Bính dần đinh mão Lư trung hỏa :

Lư trung hỏa tức Thiên Địa là lò , âm dương là than , lấy quang huy nơi vũ trụ đúc tạo vật nơi càn khôn , hỏa nầy nóng lên thích được mộc sanh , riêng Bình địa mộc là Thổ , lấy Bính dần gặp Kỷ hợi đó là Thiên ất Quý nhân , gặp Mậu tuất là quy khố đều tốt , Đinh mão tốt vừa , nhưng Bính dần hỏa tự sanh , không có mộc cũng ít ngại còn Đinh mão hỏa tự bại nếu không mộc thì hung , hỏa nầy còn lấy kim mà dụng , nếu được kim đến thì thành ứng hóa , riêng Đinh mão không mộc nếu lại gặp kim thì chủ mệnh lao khổ , thường Dần gặp mộc thì nhiều hỏa nóng và mạnh nếu bị thủy chế thì chủ yểu , Mão mà gặp 3 hoặc 4 mộc thì không lo . Như Canh dần Tân mão tựu vị tương sanh , Nhâm ngọ Quý mùi hóa thành chân hỏa nếu Dần gặp đó thì chủ hung bạo hoặc bệnh yểu , nếu thiên địa nguyên có thủy chế thì cũng trung thọ , Đinh mão không lo . Hỏa này tuy thích gặp kim là tài nhưng Kiếm kim mà Dần gặp thì ít lo còn Đinh mão hỏa tự bại lại gặp Thân Dậu mà tử tuyệt thì chẳng bần cũng yểu , Hài trung, Sa , Lạp các kim cần có mộc sanh thì tốt , còn Xoa ,Bạch thì vô dụng . Gặp thổ trước tiên xem kim và mộc , không cần lưu giữ , không nên quá khô như Thành đầu ,Ốc , Bích đều là thổ thành khí nên gặp thủy tốt , mệnh thích gặp mộc chẳng là hỏa nhiều mà thích gặp vậy . Thiên thượng thanh thủy , Dần Mão gặp thì tốt , trong Mão không có mộc nên sợ gặp Đại hải , Bính dần gặp Nhâm tuất là phước khố , gặp Quý hợi là quan tinh đới hợp , bán hung bán cát : Giản ,Khê ,Tỉnh thủy đều hung , có mộc thì không luận vậy , hỏa gặp đồng loại , nếu nhựt nguyệt thổ suy bại thì tốt , Tích lịch hỏa mộc tự vô ích , nếu được mộc sanh lại thêm nhựt thời có Hải thủy tức nghi không mộc , gặp thủy chủ hung yểu , hỏa nóng cần có Ốc thổ chận lại , Đăng hỏa tốn phong lại là Cỗ vũ vong thần , cần kiêm sanh hoa mà đoán , như Bính dần Đinh dậu Kỷ dậu ; Bính dần hỏa không có khí mà không mất đại quý , còn như Bính dần Giáp ngọ Kỷ tỵ thì Bính dần phiêu phiếm bất an .

* * Giáp thìn Ất tỵ Phúc đăng hỏa :

- Phúc đăng Hỏa là kim trản ấn quang ngọc đài thổ sắc , chiếu nhựt nguyệt mà không chiếu bổn xứ , rõ trời đất mà chưa rõ đương thời , Hỏa nầy người dùng để làm sáng ban đêm , hỏa lấy mộc làm tâm , lấy thủy làm dấu , gặp âm thì tốt , gặp dương thì bất lợi , thường nhựt thời rất kỵ gặp lại xung với địa chi thìn tỵ , kỵ gió thổi đèn mất thì bệnh yểu , hoặc lấy tuất hợi tí sửu là âm , hoặc lấy từ mùi đến hợi là âm ; Giáp thìn gặp mộc là căn bổn , thường hể mộc thì tốt lại được quan tinh lộc quý tương phò ở đầu hóa thủy thì rất tốt , vận hạn gặp tương trợ chủ đại quý , thủy thì lấy Tỉnh tuyền Giản hạ là chân dầu , Trường lưu như dầu ; trong Diệu tuyển có cách Ám đăng thiệm dụ là lý nầy vậy , còn Đại hải Hà thủy thì không phải dùng làm dầu , thường thì hỏa nầy gặp thủy phải có mộc , không nên gặp thủy trường sanh vượng khí vì thái quá thì thành hung ; Mệnh có Bạch kim chiếu diệu thì rất thạnh quý , cũng dùng thủy mộc tương trợ thì rất hiễn đạt , Sa trung Xoa xuyến 2 kim nầy cũng tốt , riêng Kiếm phong Kim thì rất tốt , Bạch lạp kim thì không nên , ngũ hành mà gặp thổ thì đế phòng khắc phá , nếu Bích thổ thì có thể an thân , Ốc thượng thổ thì có thể che chở được , nếu nhật thời đều gặp thì được phước quý , Sa thổ có mộc cũng chủ y thực , còn các thổ khác thì vô dụng ; hỏa thích có đồng loại thì không sợ gió thổi , Tích lịch là hỏa do long thần biến hóa nên có cả gió đến bởi vậy hỏa nầy khó tồn tại ở trên trời , gặp Lư trung thì rất hung ; xét trong Diệu tuyển có khoa tinh cách lấy Giáp thìn sanh nhân nhựt thời gặp ngọ mùi là đúng cách hỏa thổ nhập đường . Phúc đăng sợ nhựt thời có phong , nếu gặp Bính tuất Đinh hợi là Ốc thượng thổ tức đèn ở trong nhà như thêm được dầu rất quý vậy .

viphero99
10-12-09, 13:00
thank anh rất nhiều
em đọc chưa hiểu nhiều lắm nhưng cũng thấy hay hay
:004::004::004::004::004:

thieuba
10-12-09, 21:45
thank anh rất nhiều
em đọc chưa hiểu nhiều lắm nhưng cũng thấy hay hay
:004::004::004::004::004:
Cổ thư đó bác viphero99! Chú anhngoc là người đầu tiên post bản dịch lên mạng đó.

vnoanh
16-12-09, 19:34
Anh Ngọc ơi sao anh ngưng đăng rồi.mọi người yêu mến môn tử bình đa số là thiếu sách đọc.phần mục lục Tam Mệnh thông hội chị KC đăng thấy lôi cuốn quá nếu có điều kiện anh đăng hết cho mọi người có tài liệu để học hỏi.
Mong anh giúp.

AnhNgoc
19-12-09, 12:42
Anh Ngọc ơi sao anh ngưng đăng rồi.mọi người yêu mến môn tử bình đa số là thiếu sách đọc.phần mục lục Tam Mệnh thông hội chị KC đăng thấy lôi cuốn quá nếu có điều kiện anh đăng hết cho mọi người có tài liệu để học hỏi.
Mong anh giúp.

Lâu rày tôi bận một chút công chuyện tại Huế nên không vào diễn đàn . Có lẽ đến cuối tháng Chạp tôi mới về lại Sài Gòn được , lúc đó sẽ đăng thường hơn để cống hiến các bạn . Tuy vậy , để đáp lại sự quan tâm của các bạn từ giờ đến lúc về lại nhà tôi sẽ cố tranh thủ đăng bài được chừng nào hay chừng đó vậy .Thân chào và mong rằng trang web của chúng ta ngày càng được nhiều người quan tâm hơn.

AnhNgoc
19-12-09, 12:54
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )


** Mậu ngọ Kỷ mùi Thiên thượng hỏa :

- Thiên thượng hỏa ấm áp sông núi ,quang huy vũ trụ , tánh dương chiếu sáng trời , rõ âm tinh xuất hải . Mậu ngọ là Thái dương nên cương ,Kỷ mùi là Thái âm nên nhu , hoặc dùng ngày hạ thì dương , ngày đông thì ấm vậy , cần có Tuất Hợi là thiên môn , Mão Dậu là xuất nhập môn , Đông nam là đất bộ hành nên tốt ; hỏa nầy gặp mộc gọi là chấn triết ( đánh gảy ) cần nhựt thời có phong và thủy tức được Đại lâm mộc có thìn tỵ , Tòng bá Thạch lựu có mão dậu , chỉ 3 mộc nầy là quý , còn gặp 3,4 thủy thì thân mệnh lao khổ , như gặp kim thì chiếu diệu , Bạc kim có dần mão thì tốt , Kiếm kim thì quang diệu nhựt nguyệt tức chủ thiếu niên đăng đệ , các kim khác thì xấu , thủy thì nên Nhuận hạ , nên lấy Mậu ngọ gặp Đinh sửu ,Kỷ mùi gặp Bính tí tức là âm dương giao thổ hưởng được phước quý , trụ trung cần có mộc tư sanh thì phú quý song toàn , Đại khê có Ất mão Tỉnh tuyền có Kỷ Dậu xuất nhập đắc môn đều tốt , Thiên hà vũ lộ tương tề không nên tựu vị , Mậu ngọ gặp Đinh mùi cũng tốt , Bính ngọ thì bất minh , hỏa thích Đăng Đầu , gặp lại hỏa khác thì khô , Tích lịch kèm mây mưa nên nhựt nguyệt lu mờ chủ hôn muội , Lư trung kỵ Bính dần , dùng hoả là cương hỏa gặp Bính dần thành đất sanh hỏa , nếu không có thanh thủy giải cứu thì phạm hình hung tử , Đinh mão thì tạm , Thổ gặp Sa trung có Tốn phong tương giả , Lộ bàng Thành đầu Ốc thượng đều tốt . Trụ trung có thêm kim mộc tương trợ thì rất tốt . Xét Diệu Tuyển : Mậu ngọ gặp Mão , Tỵ Mùi gặp Dậu là cách nhựt nguyệt phân tú , mà Mão dùng Ất mão Tân mão là chánh , thứ là Kỷ mão Đinh mão .Dậu thì lấy Ất dậu Quý dậu là chánh , thứ là Kỷ dậu Đinh dậu , có nhựt xuất là cách phù tang tức nhựt phân tú , gặp lại nhựt thời Tỵ Ngọ tức là cách nhựt luân đương biểu ; Lấy MẬu ngọ sanh nơi tháng ngọ gặp Tí Ngọ nhựt , lại lấy Mậu ngọ gặp Mậu tí là Khảm Ly chánh vị tức là cách nguyệt sanh thương hải tức nguyệt phân tú mà Dậu được Ất Quý vậy . Có cách nguyệt chiếu hàn đàm là lấy Nhâm Quý Hợi Tí nạp âm thuộc Thủy là đầm nhưng phải là Thu sanh mới quý . Có cách nguyệt quế phương phương là người sanh Kỷ Mùi có 3,4 mộc củng tụ cùng với quế lâm một cành , quế lâm dùng ít mà quý , phương phương lấy nhiều là quý , theo nghĩa của cách mà thủ vậy . Lại xét cách xấu trong thái dương , Mậu ngọ không cấm có thủy đầy mà chỉ sợ thủy thạnh thái âm , bạt thực Kỷ mùi sao chịu nổi nơi nhiều thổ nên sợ thổ trọng vậy . Làm như vậy và tham cứu thì rõ hết cái lý vậy .

AnhNgoc
31-12-09, 18:08
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

* * Bính thân Đinh dậu Sơn hạ Hỏa :

Sơn hạ Hỏa , hoa lá sáng ngời trên áo như điểm sắc trên áo , Đông phương Sóc gọi là Huỳnh hỏa ( con đóm ) cho nên trong Diệu tuyển có cách Huỳnh hỏa chiếu thủy , gặp Thu sanh thì quý , đây là loại hỏa thích thủy , như địa chi gặp Hợi Tí hoặc nạp âm thủy lại gặp Thân Dậu nhựt vậy , hoặc lấy thượng hạ hỏa rất thích mộc với sơn lại thêm phong lai ( gió đến ) tức thêm sáng quý vậy , không lấy Huỳnh hỏa mà luận . Đại lâm Mộc có Thìn Tỵ là phong , Tang ,Thạch mộc có Quý Sửu là sơn tùng bách, bình địa rất tốt lại thêm phong trợ thì chủ quý , nếu phong nhiều thổi tan chủ thiên thủy thích Tỉnh tuyền giản hạ có mộc tương giúp thì được tước vị cao quý , còn Đại hải thủy thì bất nghi nhưng có sơn cũng ứng được quý cách . Dần Mão Đông phương mộc vượng là nơi hỏa sanh chỉ Giáp dần thủy thì tốt , Ất mão là chấn có phong gặp thì không tốt , nếu không thủy không sơn mà lại thêm Tích hỏa thì yểu , Thiên thượng thủy là mưa bất chợt nên hỏa nầy không nên gặp nếu trước có sơn thủy tư trợ thì không hại lắm , mệnh lý có kim lấy thanh tú thì tốt , không gặp mộc nhiều thì giữ khí mà luận ,Ất sửu là sơn chủ quý gặp kim , nếu không khắc phá mà gặp quý nhơn lộc mã cũng chỉ tài năng , thổ gặp Sa trung thìn tỵ có phong , nếu có mộc có sơn giúp thêm thì đại quý , nếu không thì hư danh hỏa kỵ vậy . Thái dương Tích lịch Đăng ,Đầu là tốn chủ sự quang hiễn , phần nhiều ngũ hành có hỏa thì cần có mộc mới tốt . Số hạn tốt xấu theo đây mà đoán .

AnhNgoc
31-12-09, 18:11
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )



** Giáp tuất Ất hợi Sơn đầu hỏa :

Sơn đầu hỏa dã phần liệu nguyện , diên thiệu cực bạch , hỏa nầy thuộc tháng 9 , cái nóng cuối cùng của hỏa vậy , đại khái như sơn mộc với phong mộc , thích Đại lâm Tùng bá , dùng Thìn Tỵ có phong Dần Mão quy lộc lại thêm Quý Sửu là sơn . Thổ Mộc chủ quý , không có sơn thì Mộc chẳng có chỗ nương ,Hỏa chẳng nơi thấy , dù có phong cũng chẳng hiễn hiện , các mộc khác thì vô dụng , chỉ lấy Lộc Mã mà khán thủy ,cần nhuận hạ gọi là giao thái mới tốt , Tỉnh tuyền là thanh thủy như có mộc trợ thì cũng tốt . Đại khê Giáp tuất gặp Giáp dần , Ất hợi gặp Ất mão đều tốt , trên trời cần có mưa ( vũ lộ ) mà hỏa đến ngọ mùi thì đắc địa , lại được thanh thủy tương tề không đến nổi khô nên phước , chẳng vậy thì yểu . Đại hải đến Vị thì tương khắc rất xấu , gặp được sơn và nhựt thời có kim thì chủ tài , cần có sơn mộc trợ vào thì tốt , không có thì hung , còn thổ thì chỉ Sa trung thổ có Tốn năng phát dương , hỏa nầy đối với thổ khác thì vô ích . Đại phàm hỏa nầy vốn không có mộc nếu gặp nhiều thổ thì bất tiện cho mệnh , Lư trung hỏa quá nóng , Tích lịch hỏa thì hung hại , quá dương thì hôn mông , Sơn hạ thì hình , tất cả đều không tốt , mệnh kèm có 2,3 hỏa thì như hạn số gặp mộc chủ sanh họa bất trắc hoặc thiên nhân nhiều hỏa nầy thì rất sợ hình thương .

* * Nhâm tí Quý sửu Tang đố mộc :

-Tang đố mộc , gấm vóc tơ lụa sĩ dân Thánh hiền đều cùng dùng , mộc nầy là loại qua tằm , cái dụng rất lớn , rất thích Sa trung để làm căn gốc , lại lấy thìn tỵ là nơi tằm thực , không nên bị hình xung phá , Lộ bàng Đại trạch hai thổ nầy cũng tốt , các thổ khác thì vô ích , thủy thì thích Thiên hà tức nước mưa còn Trường luu Khê Giãn Tỉnh Tuyền các loại thủy nầy đều có thể tương y , cũng nên trước tiên phải lấy thổ làm căn bản , có thêm Lộc Quý là hay ,. Hải thủy phiêu chảy vô định nên không có thổ , mộc gặp thủy nầy thì yểu , gặp Đăng , Đầu hỏa rất tốt cũng lấy thìn tỵ ở đó là là vị của tằm vậy , Lư trung cư ở Dần Mão mộc là vượng địa , Thiên thượng Tích lịch hỏa cùng với mộc nầy có tình hợp hóa can chi , có Khảm Ly giao cấu là hay nên đều tốt , nhưng các hỏa không nên điệp kiến , nói về kim thì Sa trung đệ nhứt , Kiếm phong thì năng tu chỉnh , Xoa Bạc 2 kim nầy cần có thổ làm căn , nếu gặp xung phá thì lại hung ; mộc thích Canh dần Tân mão tức lấy yếu thành mạnh , lấy nhỏ thành lớn , luận theo quý cách , dù không có Sa thổ cũng tốt , Bình địa Thạch lựu Tòng bá không thổ thì hung , Đại lâm là Đông nam đất tằm thực có thổ sanh cho chủ đại quý , còn gặp Dương liễu tức Tang Liễu thành rừng cũng là quý cách , cần sanh ở Xuân Hạ thì tốt .

AnhNgoc
18-01-10, 10:33
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

** Canh dần Tân mão Tòng bá mộc :

Tòng bá mộc bát tuyết thấu sương , xem trời xét đất , mộc nầy chứa ở dưới kim , vị thuộc chánh đông và là rất vượng , rất thích lấy sơn làm căn bổn , lấy thủy là tươi nhuận như như Đại , Hà vũ lộ ; Đinh sửu thuộc sơn có thể lấy làm căn cơ , Bính tí không bằng Đại khê thủy , có Ất mão là Lôi có thể phát vinh , lại sợ phong tích bị chặt gãy thì hung , Đại hải thủy có sơn thì tốt , Quý hợi thanh tịnh không sơn cũng tốt , nếu trú có Bình địa được Ốc thượng tức đã thành lương đống không dùng sơn thủy , không có 2 điều nầy thì cây đẹp ở núi vậy , cần có sơn thủy, không nên có hỏa , rất kỵ Lư trung hỏa tựu vị lại thêm phong thổi thì mộc thành than khói tiêu diệt , ngũ hành không thủy thì yểu triết . Sơn đầu Sơn hạ Thái dương Phúc đăng đều không nên gặp , người dần rất kỵ , Mâu ngọ Bính dần lấy mộc không đến Nam tức là Dần đến tam hợp hỏa cuộc vậy , Tan mão thì không hại . Tích hỏa tuy làm cho sanh vận nhưng phạm hỏa thì hung , còn gặp thổ Lộ bàng thì như không đủ quý , Trạch thổ không sơn thì bần yểu nếu có thêm Hải thủy thì đại hung , về kim nếu gặp Ất sửu là Ấn là Sơn , Bạc kim tựu vị thì tự vượng tốt , Kiếm kim thường cắt chẻ nếu được Bích thổ tương thành thì quý . Đại lâm có phong, Dương liểu thì hội hỏa , hai mộc nầy tối kỵ Tang đố , Quý sửu là sơn có thể tương trợ , Thạch lựu Tân dậu kim trở làm chết mộc , trong Diệu tuyển có cách thương tùng đông tú , đây là mộc nầy sanh nhân nguyệt nhựt thời thuộc 3 đông là quý , có nhựt hợp Tân Mão nguyệt , dạt 2 cách Canh Dần tuy dùng Mậu Ngọ Kỷ Mùi sanh ở Hạ Thu nhưng luận riêng về hai mộc nầy là quý .

* * Mậu thìn Kỷ tỵ Đại lâm mộc :

Đại lâm mộc sanh ở Đông nam , giao giữa Xuân Hạ trưởng dưỡng mà thành lâm , lấy cấn thổ là nguyên và Quý sửu là sơn , nếu tam mệnh không bị phá hảm thì phước hậu quyền quý , Mậu thìn là thổ kế đó Kỷ tỵ , gặp thổ Lộ bàng là viên tải , Mâu thìn gặp Tân mùi là quý , Kỷ tỵ gặp Canh ngọ là Lộc chủ phước , gặp Bích Ốc hai thổ lại dược Kiếm kim thì như lấy mộc Đại lâm làm lương đống thành cách rất tốt , không vậy bèn là mộc ở nơi sơn lâm vậy , mộc nầy không luận sự khắc tử thì đều muốn gặp thổ , như nhân Kỷ mà gặp Giáp thì tuy nói là hóa thổ nhưng không bằng Thìn Tuất Sửu Mùi toàn thuần thổ cuộc , nếu mộc nầy đã tử tại dưới núi , lại gặp Giáp tuất Ất hợi thiêu đốt thì chủ hung , Đăng hỏa tựu vị thì tương sanh , ở núi không bằng Giáp thìn rất tốt , 2 hỏa Tích lịch Thái dương đều là trưởng dục , vận trung mà gặp thì cũng tốt nhung sợ 2 hỏa nầy có tính đắc thắng nên cần có thổ làm căn cơ thì được . Mậu thìn gặp Đinh mùi Thiên hà thủy là đới quý , tuy không có thổ với sơn cũng thuộc hàng y thực tức linh na nhập Thiên hà cách vậy . Sanh Thu Đông là tử , tuyệt phương là 2 thủy Khê Hải , gặp cả 2 thì bần yểu , có sơn được hơn . Trong Diệu tuyển có cách Thương long gía hải tức Mậu thìn gặp Quý hợi , Gian hạ Đinh Sửu là rất tốt , Bính tí không bằng , các kim đều không nên gặp , Hải trung có Ất Sửu là sơn , Kiếm Phong được Ốc Bích là bổn , các kim khác thì vô dụng nếu gặp thì chủ yểu tiện . Về mộc thì thích gặp Tang đố nhứt là Quý sửu rất tốt , còn như Bình địa thì cần có Lộ bàng thổ tức là Bình lâm tại dã vậy . Tùng bách Đông phương là dất sanh vượng , trụ có QUý sửu mà được tùng bách mật ấm là rất tốt .

AnhNgoc
19-01-10, 20:16
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

* * Nhâm ngọ Quý mùi Dương liểu mộc :

Dương liểu Mộc : Mộc ở Ngọ Mùi là tử mộ , ở Nhâm Qúy là tư nhuận , căn cơ mộc nầy chỉ thích Sa thổ , gặp được Cấn thổ là như áo giát vàng , gặp Dần Mão tức Đông phương đắc địa , Tân sửu có sơn Canh tí không bằng , Mậu dần tuy tốt Kỷ mão tốt hơn , Bính thìn Đinh tỵ lãi hiềm tuất hợi đối xung , nếu thấy Đại trạch có Sửu là sơn biến thì tạm được , không Sửu mà lại gặp riêng thổ nầy thì chủ yểu tiện , Lộ bàng tựu vị thì trở về tử mộ , nhựt thời mà gặp thì chủ người yếu hèn . Nhâm ngọ mà gặp Đinh hợi Ốc thượng thổ tức Đinh Nhâm hợp hóa tốt , Bính tuất không bằng , còn như gặp các thủy Tỉnh tuyền Trường lưu Đại khê Giãn hạ thì đều tốt , ở trung gian lại phân hợp hóa vượng vị thì rất tốt , Bính ngọ Đinh mùi , Bính Đinh là chân hỏa , Ngọ Mùi cũng hỏa , mộc nầy đến hỏa thì phải tử , Nhâm ngọ mà gặp thì đại hung , Quý ít nhiều có khác, nếu có thủy tề thì vô hại , Mộc ở Ngọ Mùi đã tự có hỏa , nếu gặp thêm hỏa khác nửa thì dẫn đến tổn thọ , Sơn Đầu Phúc đăng Ất tỵ có phong thì mộc gảy chủ hung , Lư trung Dần Mão là bổn vị mộc vượng trở thành tốt , còn Nhâm ngọ mà gặp Kỷ sửu Tích lịch hỏa , Quý mùi mà gặp Mậu tí tức là âm dương giao ngộ , có thêm Sa thổ làm căn thì chủ quý , nếu tí ngọ sửu mùi đối xung thì không thể là tốt được , về Kim như Xoa xuyến Kim bạc lại thích thành công , còn Hải Lạp Kiếm Sa tuy kỵ gặp nhưng trong đó cần xét nặng nhẹ mà lấy lộc quý , như xem tùng bách có cách thoát thề hóa thầm vậy . Quý sửu Tang đố mộc là sơn lấy nương dựa thành lâm là tốt . Canh thân Tân dậu mộc đã tử tuyệt lại gặp kim khắc tức đã yếu lại nhỏ chủ nhân bần tiện . Diệu tuyển có cách hoa hồng liễu lục , đây là cách dùng mộc nầy gặp Thạch lựu sanh ở Xuân Hạ thì không thể xấu , lại có cách dương liễu đà kim , đây là cách lấy mộc nầy sanh ở tam xuân mà thời có 1 kim như Tân hợi Giáp tí Quý mão Tân tỵ thì rất hay , tức là nơi lộc quý của Nhâm Quý vậy .

sawjnd
23-01-10, 00:23
anh Ngọc ơi! Cảm ơn anh đã bỏ biết bao công sức để đem lại cho mọi người nhiều thông tin bổ ích, xin anh giữ gìn sức khỏe và nếu rảnh thì mong anh sớm post thêm bài lên cho mọi người được tiếp tục tìm hiểu. Chân thành cảm ơn anh!:008:

AnhNgoc
04-02-10, 19:38
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

* * Canh thân Tân dậu Thạch lựu mộc :

Thạch lựu mộc : Can chi đều thuần kim mà nạp âm thuộc mộc tức là mộc biến vậy , có thể rời khỏi bồn để tô điểm cho sơn nên loại mộc nầy thích thổ thành khí dùng làm căn cơ : Thành đầu thổ là nhất và loại Ốc thượng thứ nhì nhưng phải là âm dương giao kiến tức là Bính Tân Đinh Canh thì hổ quan và Tuất Tân Tỵ Dần thì hổ Mão ; 4 loại thổ Lộ Bích Trạch Sa có sơn trợ nên cũng tốt ,gặp Sa trung kim thì rất tốt , Bạc kim can chi thuộc thủy mộc mà nạp âm thuộc kim, Thạch lựu mộc can chi kim mà nạp âm mộc để thoát đi bồn cảnh mà hổ hoán qua vượng , dùng mộc vượng Dần Mão ,kim vượng Thân Dậu đều đắc được vị gọi là cách công mâu tạo hóa chủ đại quý . Ất sửu Hải trung là sơn lại gặp được thủy trợ tức tốt , hoặc Bích thượng Thành đầu cũng đắc , Kiếm phong tựu vị thì tương khắc rất hung , nếu trước có Sa kim năng chế được độc thì cũng vô hại , gặp Thiên hà thủy giúp cho , Tỉnh tuyền Khê Giản thanh thủy tươi rói , còn Đại hải thủy quá phiếm lạm không bần thì cũng yểu nếu có Cấn thổ thì đỡ hơn . Thái dương Tích lịch 2 hỏa nầy tuy thích nhưng không nên cùng gặp , Lư trung Dần Mão mộc vượng vị tốt , nếu gia thêm hỏa khác thì hung , hoặc nếu mộc nầy mà sanh tháng 5 thì nhựt thời chỉ kèm 1 hỏa tức Thạch lựu phún hỏa chủ quý . Tang đố Đại lâm Dương liểu 3 mộc nầy đều thích gặp , vì Tang đố Quý Sửu là sơn , Đại lâm Mậu Thìn là thoát thổ , Dương liểu là hoa hồng liểu lục tất cả đều chủ công danh , gặp Tùng bách thì mạnh , gặp Bình địa thì lớn , nếu không có loại khác kèm tạp thì là lục nhiễu hồng viên cũng chủ phú quý , như được thành thổ làm cơ, thủy vận làm trợ thì được hưởng phước dồi dào trường cửu .

* * Mậu tuất Kỷ hợi Bình địa mộc :

- Bình địa Mộc : là loại cho đất tươi tốt . Mậu tuất là đống , Kỷ hợi là lương rất cần sự hỗ hoán . Lấy thổ làm cơ được Lộ bàng là chánh cách thêm được Tí Ngọ thì rất quý , bởi Tí Ngọ là thiên địa chánh trụ vậy . Ốc Bích Thành đầu 3 thổ lấy mộc nầy tương giúp để thăng hoa nên rất tốt , Sa trung Đại trạch 2 thổ nầy vô dụng nếu nhựt thời mà gặp thì tai ương . Hỏa hì thích Thái dương Tích lịch vì được hiển diệu , Lư trung gặp thủy thì phước , Đăng đầu không phong thì kiên cố , các hỏa khác không có thủy thì hung . Đây đã thành mộc không nên gặp Kiếm phong , có mộc tương tư thì có thể Bạc kim thêm sự quang sáng lại là thiên can hợp địa chi được vượng , có thêm Bàng thổ là cơ chủ đại quý , các kim khác thì vô dụng , gặp Thiên hà thủy là nhuận trạch chủ tốt , Khê Hải không có sơn thì hung ; Tỉnh tuyền Giản hạ tuy tốt , trong có Giáp thân hợp với Đinh sửu là sơn gặp thì rất tốt , Mộc có Đại lâm được phong trợ thì chủ thọ , , Tòng bá Quý sửu rất tốt , Nhâm tí Kỷ hợi người gặp rất tốt , Mậu thìn thì bất kham , Tòng bá ỷ nương Bình địa là lương đống lại có thổ trợ chủ quý , mộc nầy sợ kim mà thích thủy thổ nếu sanh tam đông và thời được Dần Mão tức là hàn cốc hồi xuân cũng luận quý cách .

TanLen73
22-02-10, 20:51
Chào anh AnhNgoc
Tài liệu của anh rất hay. Trên thị trường không thấy có. Mong anh sẽ tiếp tục đăng tải.
Xin cám ơn.
Kính anh

AnhNgoc
23-02-10, 18:10
Chào anh AnhNgoc
Tài liệu của anh rất hay. Trên thị trường không thấy có. Mong anh sẽ tiếp tục đăng tải.
Xin cám ơn.
Kính anh
Cảm ơn các bạn đã quan tâm . Tôi đang sắp xếp thời gian để tiếp tục gõ bài cống hiến các bạn đây .

AnhNgoc
23-02-10, 18:19
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )



* * Canh tí Tân sửu Bích thượng thổ :

Bích thượng Thổ : tức loại vách đất của nhân gian , không có Bình địa thì chẳng nhờ được , Tí Ngọ thiên can nếu gặp được đây thì rất tốt , thường có mộc đều có thể làm chủ , Canh dần Tân mão cũng là đống lương , chỉ có Tân dậu xung phá tí mão càn hình , Đại lâm có phong nếu không được thổ thừa tải mà lại phạm thì làm việc khó thành , bần tiện mà yểu ; thích Lộ bàng thổ tức là phụ tải , Ốc thổ Thành đầu 2 thổ có thể hộ thân nên đều tốt , gặp hỏa thì toàn không tạo hóa , Thái dương Tích lịch tuy gọi là chiếu diệu nhưng nếu mệnh trước đã có mộc mà lại gặp hỏa trợ tức bị khắc vận nên nếu gặp lại thì chủ họa hoạn yểu triết , trụ nếu được thủy tề thì tạm ổn , thổ nầy gặp Giáp thân thủy thì rất tốt , Ất dậu tốt vừa , Thiên hà thủy cũng tốt , còn Đại hải quá phiêu phiếm nên không tốt cho thổ , dù có căn cơ cũng hung . Về kim thì chỉ thích Bạc kim , mệnh lý trước có mộc thần thì quý , lấy đó làm cung thất vàng ngọc huy hoàng , chẳng phải triều đình thì không dám dùng vậy , gặp Kiếm kim thì thương tổn , các kim khác vô dụng .

* * Mậu dần Kỷ mão Thành đầu Thổ :

Thành đầu Thổ : loại nầy phải luận theo lưỡng bàn bời có loại thành có loại chưa thành , thường hể gặp Lộ bàng tức là thổ đã thành không cần dùng hỏa , nếu không có Lộ bàng thì chưa thành thổ cần phải dùng hỏa . Phần nhiều Thành đầu thổ đều cần phải có Dương liểu mộc tương giúp , gặp Quý mùi thì rất đẹp còn Nhâm ngọ thì kỵ , Quý sửu Tang đố mộc là nhất mà Nhâm tí tốt vừa , gặp Canh dần Tân mão tựu vị thì tương khắc bởi thành đổ không yên thì làm sao an được lòng người , như gặp mộc không có Giáp phụ giúp thì chỉ lấy Quý nhân Lộc mã mà luận , Giáp thủy có sơn thì hiễn quý , Giáp thân Đinh sửu thủy đều tốt , gặp Thiên hà thủy tư trợ cũng tốt , kỵ nhất Tích lịch Đại hải , Nhâm tuất thì không kỵ , hợp hóa thì đều tốt , thổ nầy phòng gặp hỏa , Đại trạch gặp sơn thì chủ quý , nếu độc kiến mà vô căn bổn thì chủ bần yểu cô hàn . Trong ngũ hành gặp kim thì chỉ sợ phòng Bạch lạp còn kim khác thì vô dụng , cũng lấy lộc mã quý nhân mà luận.

AnhNgoc
25-02-10, 11:38
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

* * Bính thìn Đinh tỵ Sa trung Thổ :

Sa trung thổ : thổ nầy thanh tú cỉ thích dưỡng thanh kim , có thêm thổ thanh tịnh thổ thì chủ quý sớm . Xoa Sa Kiếm Bạc 4 loại kim thanh tú tương trợ như người Bính gặp Tân hợi tức Bính đinh nhập nhà Càn gọi là giá hải trường hồng và lại có tính cung kính thì đều quý cách vậy , nếu được thủy tương hàm là thượng cát , như mà không có thủy nhưng thời nhựt có Thiên thượng hỏa chiếu thì cũng được như Bính thìn Ất mùi Quý dậu Mậu ngọ , mệnh nầy có 2 kim tư dưỡng bỏ kim không thủy mà được Thái dương chiếu rộng nên cũng quý , như Đinh tỵ Quý mão Kỷ mùi Nhâm thân mệnh nầy có 2 kim tư dưỡng được Thiên thượng hỏa chiếu cũng quý , nhưng Mậu ngọ quá táo mà Kỷ mùi lại ít hoãn cho nên thọ yểu không đồng . Thủy thì dùng Tỉnh Giãn thanh tịnh là tốt , nếu có kim dưỡng cho thì quý cũng như thổ nầy đã được kim dưỡng mà nhựt thời có Hải thủy thì hại tạo hóa , Quý hợi nhẹ nhàng , người Bính mà gặp thì khi hạn vận cũng được hiễn vinh , thủy khác thì vô dụng , người thích Thái dương ở nơi cách Châu tước đằng không rất quý . Các hỏa như Sơn đầu Sơn hạ Lư trung Phúc đăng nếu không có thủy tề thì chủ thọ , về mộc thì thích hai loại là Tang đố và Dương liễu bởi thổ nấy năng trồng 2 mộc đó , các mộc khác không lấy lộc mã quý nhân để luận , như nhựt bị mộc hình xung khắc phá thì tuy tạo hóa thế nào cũng chẳng là tốt , trong ngũ hành thổ tối kị bị tương hình , Lộ bàng thì yên thân vì có kim giúp cũng quý , còn Đại trạch có tính vảng lai không nên tương kiến dù có kim thủy cũng vẫn hung , các thổ khác không tốt được vậy .

* * Canh ngọ Tân mùi Lộ bàng Thổ :

Lộ bàng Thổ : đây là loại hỏa thổ ấm áp , vạn vật được trưởng dưỡng nơi thổ nầy cho nên phải luận về thủy trước tiên để có sự bón tưới cho tươi nhuận , sau đó rất cần thủy hóa mới hay , có thêm kim đến tương trợ tức đâm chồi nẩy lộc , như Canh ngọ gặp Giáp thân, Tân mùi gặp Ất dậu là Lộc, Nếu không bị xung phá thì sớm được quý ; nước mưa Thiên Thượng tương hòa như Canh ngọ thích gặp Đinh mùi, tân mùi thích gặp Bính ngọ đều là Quang quý lục hợp vậy, Canh ngọ mà gặp Đinh sửu Giản hạ tức là quý lộc giao trì, Tân mùi mà gặp Bính tý là hóa thủy phùng sanh, Ất mảo Đại khê là lôi năng phát sanh thổ này lại là Ất Canh hợp hóa cho nên đều tốt, còn Trường lưu Đại hải thủy hai loại này không bón tưới cho Thổ này nên rất kỵ chủ hung xấu, Canh ngọ mà gặp Thiên Thượng hỏa là quý lộc giao xuyên, Tân mùi mà gặp Mậu tý là ấn quý triều dương đều tốt. Thiên thượng hỏa tựu vị tương sanh mà quá nóng khô thì thổ trở lại không thể sanh vạn vật, nếu có thủy làm nhuần cho thì tạm được, như không có thì chủ yểu, Lư trung hỏa cũng táo nên cũng kém thọ Đăng Đầu hỏa có Ốc Thổ thì ứng được tạo hóa gọi là Siêu phàm nhập thánh, chẳng được vậy cũng không hung xấu, gặp mộc thì cũng được nhưng nếu có quý nhân lộc mã thì tốt, còn bị hình sát xung phá thì hung, riêng loại canh dần mộc mà gặp thổ này thì rất tốt, Đại lâm mộc không chở hết được nếu tựu vị mà gặp Bính Thìn Bính Tuất Tân sửu Tân mùi thì tốt, như Canh ngọ mà gặp Tân mùi hoặc Tân mùi gặp Canh ngọ tức là nhị nghi quý ngẩu chẳng thể không quý. Xoa xuyến, Sa trung hai kim này khả dỉ tư trợ, nếu đều gặp Kim thủy thì đại cát, nếu mệnh đã gặp thủy mà không có Kim thì vận gặp được kim này cũng phước, Ất sửu Hải kim lấy sơn mà luận nếu được thanh thủy Thiên hà trợ cho người Canh thì rất tốt, trong Diệu tuyển có cách Kim mã tề phong, dùng Canh ngọ Giáp ngọ sanh nhân mà đắc Tân tỵ thời tức được cấp mã hóa long câu. Lại như người sanh là Ngọ mà gặp Thìn thời tức là cách sáo phong mãnh hổ. Người sanh Canh Tân mà gặp Tân tỵ Ất tỵ đều gọi là quý, vậy mà thủy hỏa kim thổ tựa hồ không tương câu.

AnhNgoc
06-03-10, 15:41
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

** Mậu Thân Kỷ Dậu Đại trạch thổ:

Đại trạch thổ: Thổ này thuộc Khôn phương, công ích rất lớn , luân thiên chuyển nhựt, phù hải thừa sơn vậy , phát sanh vạn vật lấy mộc làm cơ. Mậu thân là trường sanh của Thổ đức lớn vô cùng, gặp ba bốn mộc cũng năng tư sanh, Kỷ dậu là thổ tự bại nên mộc nhiều cũng bị bại, như Đại lâm hợp gặp xung thì chủ yểu, mộc khác thì tốt, thêm lấy lộc quý mà xét vậy. Tỉnh tuyền Giản hạ 2 thủy này thanh quý không khô như Mậu thân gặp Đinh sửu hoặc Ất dậu Kỷ dậu gặp Bính tý hay Giáp thân thì gọi là quan quý chủ tốt. Kỷ dậu mà được Bính ngọ và Mậu thân mà được Đinh mùi cũng đều quý lộc chủ phước. Mậu thân mà gặp Quý tỵ Trường lưu hay Kỷ dậu mà gặp Nhâm thìn cũng tốt, gặp nhiều thì bất an, Ất mão Đại hải thủy là nghĩa Đông chấn quý không gặp sớm cũng tốt. Gặp Hải thủy xuyên đối ở nhựt thời thì chủ yểu, có sơn thì nhẹ bớt. Mậu thân gặp Quý hợi tức Mậu Quý hợp, Thân Hợi là thiên địa giao thái thành tốt. Gặp hỏa Thái Dương, Tích lịch là thánh hỏa phát sanh rất nhiều, Thổ này mà được Thủy trợ thì hiển đạt, ngoài ra thường hỏa gặp lại được Mộc sanh mau khô táo thì chủ hung yểu. Trong ngủ hành gặp Thổ chỉ riêng Lộ bàng là tốt còn Ốc Thượng Bích Thượng Sa trung dù trước có đắt mộc cũng là dân tuyệt, Thành đầu có thủy càng tốt, mệnh nếu có Kim thanh tú cũng tốt. Mậu thân mà gặp Tân hợi Xoa xuyến hay Nhâm dần Kim bạc, tựu trung lại thêm thủy trợ tức là Thiên địa giao thái thủy nhiểu sơn hòan đúng là đại cách rất quý. Kỷ dậu gặp Canh tuất Quý mão cũng được, Kim đúc luyện cũng giống với Kiếm kim cần lấy mộc mới dùng được, chẳng vậy thì không ích.

** Bính tuất Đinh hợi Ốc thượng Thổ :

Ốc thượng Thổ : thổ nầy là ngói vậy .Không có mộc thì không thành nên mộc là căn cơ , Bình địa là nhất và Đại lâm thừ nhì , ngoài ra dùng thiên hóa mộc cũng tốt , chỉ sợ xung phá ,đây là thổ đã thành không nên gặp Lư trung hỏa Bính dần rất hung xấu , Đinh Mão thì tạm ; Thái dương Tích lịch có thể dùng để tương giúp , Sơn hạ Sơn đầu do mộc sanh nên họa . Bính tuất gặp Đăng đầu ẤT tỵ là tốt , Đinh hợi gặp Giáp thìn thứ nhì , đây gọi là cách Hỏa thổ nhập đường , nếu trụ trung có nhiều mộc thì không tốt . Thủy thì có Thiên hà Tỉnh tuyền Giản hạ đều tốt , như được Bình địa mộc thành cách đại quý , gặp Khê Lưu không mộc thì yểu , nếu Bính tuất mà gặp Quý tỵ , Đinh hợi mà gặp Giáp dần thì luận cách khác phải xét nhựt thời sở thành tạo hóa thế nào . Đại hải không sơn nên không được gặp thổ , còn gặp Lộ bàng như Bính tuất gặp Tân mùi , Đinh hợi gặp Canh ngọ tức âm dương đều gặp lại lấy mộc làm cơ nên chủ quý , Bích thượng cũng tốt ngoài ra thì không dùng . Nếu thiều mộc mà tam hình lại tụ thì dù có 2 thổ cũng hung xấu , chỉ riêng Đinh tỵ Sa trung thổ thì không lo . Về kim thì Kiếm phong Xoa xuyến thì rất tốt , Đinh mà gặp Nhâm thân là thiên can hóa hợp mộc , địa chi là Càn Khôn thanh di ; Bính gặp Tân hợi tức thiên can hóa thủy , địa chi thì Bính nhập nhà Càn đều là Đại quý cách , nếu Đinh hợi gặp Canh tuất , Bính tuất gặp Quý dậu thì không thể tôt , Bạc kim có công dụng trang sức nên cũng tốt , các kim khác thì vô dụng , phải lấy quý lộc mà cứu xét.

AnhNgoc
07-03-10, 22:53
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

** Bính tí Đinh sừu Giản hạ thủy:

Giản hạ thủy : thủy này thanh sang thích được kim dưỡng , Sa trung Kiếm phong 2 kim nầy rất cần , Xoa xuyến Canh tuất không nên gặp Đinh sửu bởi Sửu Tuất tương hình , Bính tí gặp Tân hợi tức Bính Tân hóa thủy rất quý , các kim khác lấy lộc quý má luận xét , cần được tư sanh và tránh bị xung phá , gặp 1 vị mộc thì không lo ; 2,3 mộc thì lao khổ nhưng cũng lấy quý nhân lộc mã mà xét , mệnh trung mà gặp thổ thì chủ người đa trược , thiên nguyên mà mộc hoặc hóa thủy thì chủ thanh cát Sa trung Ốc thượng thì khí ít thanh còn Lộ bàng Đại trạch thì rất trược chủ tán tài sanh họa , nếu là Thìn Tuất Sửu Mùi thổ cuộc thì càng xấu hơn , đó tức thổ dơ thủy đục vậy . Về hỏa thì gặp thái dương tuy nóng nhưng phải lấy ký tế vị tế mà luận , còn Tích lịch tựu vị thì tương tranh càng không nên , nếu 2 hỏa cùng đến mà không có kim tư trợ thì chủ hoang dâm , có kim thì luận khác , Sơn hạ Sơn đầu cũng tốt , nếu cùng đến ở nhựt thời thì sợ mệnh trung gặp thủy trở thành phiêu đãng, gặp Thiên hà tức Dẫn phàm nhập thánh , gặp Đại hải thì phước quý triều tông đều tốt vậy . Riêng Đinh sửu gặp Nhâm tuất tức Sửu Tuất tương hính , Đinh Nhâm dâm hợp chủ tiếng tăm không tốt ; Đại khê thì nhanh , Trường lưu thì không tịnh gặp đều không tốt . Đại để thủy nầy phải lấy kim làm chủ và không có hỏa thổ lai tạp , nếu gặp Giáp dần Ất mão thủy tức nguyên viên lưu thanh chủ là người quân tử vậy.

AnhNgoc
08-03-10, 12:44
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

** Giáp dần Ất mão Đại khê thủy :

Đại khê thủy : thủy nầy rất thích được quy được dưỡng , gặp khảm tức là có quy, gặp kim tức là có dưỡng , cái sợ của thủy nầy là trong nhựt nguyệt thời có Thân Dậu xung động hoặc Thìn Tỵ phong xuy chủ phiêu lưu , Tỉnh tuyền thủy tỉnh mà dừng , Giản hạ có sửu là cấn , Thiên hà thì nhuận Đại hải thì triều tông 4 thủy nầy thì tốt , Trường lưu có phong một mình không nên gặp . Thủy nầy dùng thanh kim mà trợ dưỡng , riêng Xoa Sa thì rất hay , Lạp kim cũng thanh , nếu có Xoa kim đối xung thì không nên . Hải trung tuy không tạo hóa nhưng Giáp tí thuộc khảm , Ất sửu là cấn tức là thổ quy nguyên cũng tốt , Bạc kim thì quá nhỏ không thể tương sanh làm sao được cái lý siêu hiển . Kiếm kim tuy hóa nơi Đại khê không kỵ , ở mão là lôi chấn phong chủ tánh bất định , ngũ hành có thổ đều là vô ích . Ốc thổ ,Thành đầu ngăn chận thủy nầy , Lộ bàng thì tạm nhưng cũng không hay , Bích thượng thì chỉ riêng Tân sửu là xuất , Đại trạch chỉ Kỷ dậu là hợp , Mậu thân thì xung , Canh tí thì hình đều không thể tốt . Gặp Thái dương hỏa tuy chiếu diệu nhưng rất kỵ không nên cùng gặp Tích lịch , nếu gặp cả hai hỏa nầy thì chủ cô bần . Mộc mà gặp thủy nầy thì phiêu đảng , riêng Nhâm tí Tang đố có khảm , Quý sửu là sơn tức thủy viển sơn hoàn chủ quý . Bính Giáp dần sanh nhân mà gặp Nhâm tí là tốt , người Ất mão gặp Quý sửu tốt , mộc khác lấy Lộc Quý mà tham, rất kỵ xung phá.

AnhNgoc
11-03-10, 22:41
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )


** Nhâm thìn Quý tỵ Trường lưu thủy .

Trường lưu thủy : Thủy nầy thích được sanh dưỡng , cần có Bạch lạp Xoa xuyến kim , dùng thiên can có Canh Tân là chân kim , địa chi Thìn tỵ tựu vị tương sanh , Tuất Hợi là nơi quy nguyên . Kiếm phong thuần là kim , thủy bạc kim thủy mộc cư ở Đông đều luận cách tốt , Hải trung Sa trung không dùng , sợ thổ làm khô cạn vì thổ có công dụng đề phòng thủy , trong 6 thổ lấy Canh Tân Bính Đinh thì tốt , Mậu Kỷ không dùng , gặp hỏa thì tương hình , nếu được Ký Tế thì hay , Bính Nhâm thìn thích gặp Đinh mão Đinh dậu , Quý tỵ thích gặp Mậu tí Mậu ngọ , Đây là lấy thiên can hợp hóa vậy . Quý tỵ rất thích gặp Giáp thìn Đăng hỏa , Nhâm thìn rất thích gặp Ất hợi Sơn đầu hỏa , đây là dùng nghĩa hóa long quy lộc rất tốt . Lấy mộc tuy phiêu phiếm nhưng Quý sửu Tang đố là sơn Quý mùi Dương liểu là vườn , niên thời mà đắc được thủy bao quanh tức thủy viển hoa đê là đại quý cách vậy . Tùng bá Thạch lưu thiên can có kim tương sanh , Đại lâm Bình địa tuy sợ có thổ nhưng Qúy tỵ gặp Mậu thìn , Nhâm thìn gặp Kỷ hợi thì đều tốt . Thủy thì đồng loại như Giãn Hạ thì Đinh Nhâm hợp hóa , Thiên thượng thì tức nước mưa giúp thêm , Tỉnh tuyền Đại khê thì vô ích . Hải thì nơi qui về mà Nhâm thìn là long nếu được Quý hợi tức long dược thiên môn sanh Xuân HẠ Thu thì tốt , hoặc long tiềm đại hải thì sanh Đông rất tốt .Trụ trung trước tiên gặp kim là tốt , lại Nhâm thìn là tự ấn thủy nếu lại gặp Nhâm thìn thì bị hình , hình thì tự hại vậy , gặp Mậu tuất thì xung ,xung tức phiếm lạm chủ hung . Quý tỵ là tự tuyệt thủy gọi là hạc lưu ( chảy cạn) nếu gặp Bính tuất Đinh hợi Canh tí Tân sửu các thổ thì lâu khô , trụ trung nếu có kim tam hợp sanh vượng thì tốt .

** Bính ngọ Đinh mùi Thiên hà thủy :

Thiên hà thủy : Đây là loại nước mưa , phát sanh vạn vật , không thể không nhờ , thủy ở ngân hà thổ không thể khắc cho nên gặp thổ không kị mà lại còn làm cho có ích tư nhuận ; Thủy ở thiên thượng thì kim ở đất khó sanh cho nên gặp kim cũng không ích mà cũng có tình nên nếu sanh vượng thái quá thì tức quá tràn ngập trở thành hại tổn vật , nếu bị tử tuyệt nhiều thì lại thành khô cạn không thể sanh vật , cần sanh ở thu được thời là quý vậy . Thủy nầy thích gặp Trường lưu Đại hải , Bính ngọ nên gặp Quý tỵ Quý hợi , Đinh mùi nên gặp Nhâm thìn Nhâm tuất , âm dương hỗ kiến rất tốt , Ất mão Đại khê là lôi , Tỉnh thuyền Kỷ dậu là quý đều tốt cả , về hỏa thì thích Tích lịch là Thần long cùng với thủy nầy là tương tề mà biến hóa chớp nhoáng , mây trôi mưa đổ sao mà không quý được , Lư trung hỏa vượng, Đại hải thủy vượng , như trụ trung mà có 2 hỏa 2 thủy trên dưới tương tề tức là tinh thần đầy đủ thì đại quý cách vậy ; Đăng đầu có phong Sơn đầu có quý đều tốt cả vậy và cần lấy các thủy khác tương tề thì tốt , Thiên thượng tựu vị thì tương khắc không nên gặp , Thạch lựu và Dương liểu mộc đều tốt Đại lâm và Bình địa mộc cũng tốt ; Tùng bách Thạch lựu gặp Bính Tân hợp hóa cũng tốt . Trong Diệu Tuyển có Linh tra nhập Thiên hà cách tức là lấy mộc tử tuyệt không căn trụ nơi không có thổ bồi đó là phiêu lưu nơi thiên hà vậy . Thủy nầy tuy thổ không thể khắc nhưng trụ mà gặp Canh ngọ Tân mùi tựu vị thì tương khắc . Hoặc thủy lại sanh Đông tức thủy kết trì đường chủ trược lạm vậy , thổ khác như Sa trung có ít mộc đến phương thì được ; Thủy thì thích Đại hải là dẫn phàm nhập thánh , Thiên thượng Giản hà Trường lưu cũng không là xấu , Giáp dần Ất mão Đại khê thủy thì tốt . Còn như Giáp thân gặp Ất dậu hay Ất dậu gặp Giáp thân là quan tinh hổ hoán rất tốt . Như 2 thủy ở tại niên thời , nhị mộc tại nguyệt nhựt tức là Thủy viển hoa đề đúng là quý cách vậy .

daibacvn
14-03-10, 07:30
Rất cảm ơn AnhNgọc vì tinh thần chia sẻ với mọi người, chúc AnhNgọc luôn mạnh khỏe & gặp nhiều may mắn trong cuộc sống!:5333::5333::5333:

Rất khâm phục bởi tâm huyết mà AnhNgọc đã bỏ ra!:4431::4431::4431:

AnhNgoc
14-03-10, 22:44
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung : ( tiếp theo )

** Nhâm Tuất Quý hợi Đại hải thuỷ .

Đại hải thuỷ : Thuỷ nầy có cả thanh và trựơc nên phải phân lưõng bàn mà luận . Nhâm tuất có thổ khí là trược, Quý hợi thì can chi thuần thuỷ mà nạp âm lại thuỷ thanh thổ , chỉ hiềm sơn mà dùng thổ khí quá thạnh , nếu có kim thanh thì tốt , Quý hợi rất thích gặp sơn , sau đó tánh của Hải thuỷ lại an nhuận ; Đinh sửu là sơn, Thiên hà với Hải trên dưói tưong thông, trụ trung có mộc làm bè tức theo bè mà nhập , Thiên hà rất là thưọng cách ; các thủy như Trưòng lưu Đại khê tất cả đều quy về hải nên năng thành to lớn vậy . Nhâm thìn long quy đại hải rất tốt , trong đó lại phân âm dưong , hổ kiến can chi hợp hoá nên tốt , Tỉnh tuyền thì bị chế bởi không thông với hải cho nên không tốt . Các kim thì riêng Hải trung là đệ nhất , dùng Nhâm tuất Quý hợi thích gặp Giáp tí Ất sửu , Sa trung cũng được , Các kim khác thì lấy quý nhân lộc mã mà luận . Về hoả thì thích Thiên thưọng cùng với Hải thuỷ tưong là chiếu diệu rất tốt , Tích lịch Kỷ sủư là sơn ,Mậu Kỷ hợp hoá , trú đựoc một hoà vưọng địa cũng tốt , các hoả Sơn hạ Sơn đầu Phúc đăng đều không nên gặp . Mộc thì chỉ Nhâm tí Quý sửu Nhâm ngọ Quý mùi đều tốt , Đại lâm thì có phong xung động nên tánh thuỷ bất an , Bình địa thì sâu dày nên tụư vị thì tưong đắc , Tùng bách Thạch lụư nếu không có thổ chế thì phiêu lưu vô định , về thổ thì thích Ốc thưọng còn Thành đầu Đại trạch đều vô dụng , Bích thổ thì địa chi xung đối tức hoại sự tạo hoá , về kim tuy không năng sanh nhưng riêng Tân hợi Xoa xuyến lại thuộc Càn Thiên , Thiên thuỷ tại thiên đây thật rất tốt , Các kim khác cũng lấy thiên can Canh Tân Nhâm Quý mà dùng , Giáp ẤT thì không dùng , lại lầy lôc mã quý nhân mà tham , . Sanh nhân thuỷ mà gặp Canh tí Nhâm tí tức là vân đằng vũ thí , sanh ở tam thu thì rất tốt , sanh xuân thì khô hạn , sanh hạ thì tràn , sanh đông thì lạnh . Gặp Giáp thìn ẤT tỵ Canh thìn Tân tỵ ở trụ trung có Nhâm là mây , có thìn là long tức Long vũ tác lâm nếu sanh tháng đông thì là Sưong ngưng bạc lộ , nhựt thời thích gặp DẦn mão đựoc khí ôn hoà có thể giải băng ( đá) thì quý cách vậy .

* * Giáp thân Ất dậu Tỉnh tuyền thuỷ :

Tỉnh tuyền thuỷ : Thuỷ nầy sanh ở kim mà xuất ở mộc cho nên thích gặp kim là phứoc , Sa trung có thổ tánh nên rất tốt , Xoa xuyến thì thứ hai Lạp kim và Xoa kim tưong xung nên không đựoc gặp lại . Kiếm phong Thân Dậu đại vưọng nên sợ bị nạn phiếm lạm , Hải kim không lấy , Ầt sủư là Cấn sơn hạ xuất tuyền cũng tốt , thuỷ nầy không mộc thì không thể xuất cho nên gặp mộc thì đều tốt . Như gặp Bình địa Đại lâm cần có Kiếm kim vót bớt thì có thể dùng , Tang đố Dưong liểu không dùng , Tùng bá thì hổ hoán quy lộc nên rất tốt . Về hoả lấy âm dưong hổ kiến thì tốt , Tích lịch gọi là nhập thánh , Thái dưong gọi là hiển chiếu , hai hoả này tưong kiến thì rất tốt nhưng không nên gồm gặp , gồm gặp thì hung . Về thổ thì Lộ bàng Sa trung rất tốt , Ốc thưọng là thiên môn tức nguồn của thuỷ cũng tốt , Thành đầu Bích thưọng đối với thuỷ nầy không có can thiệp , Đại trạch tựu vị thì tưong khắc , Lộ bàng Đại trạch hai thổ nầy đủ để chấn chỉnh , huống chi Quý hợi gặp Mậu thân là thiên quan địa trục đại cách , nhựt thời mà gặp 2 thổ nầy thì có đủ phong lôi cũng không thể hại , Thành đầu Kỷ Mão cần có Cấn thì tốt , gặp thêm Tích lịch tức Lôi hoả biến hoá , Hải thuỷ đáo dùng cũng chủ bần hàn.

daibacvn
20-03-10, 19:44
AnhNgọc bận việc rồi phải không? Mình mong bài AnhNgọc mỗi ngày đó, chúc AnhNgọc mọi việc hanh thông & sức khỏe!

AnhNgoc
20-03-10, 19:48
12_Lục thập Giáp Tí nạp âm thủ tưọng.

Mưòi can có thể là kim mà có thể không là kim , tuy do nơi sở trỉ của số không đồng mà ngũ hành có loại hoá loại tùng vậy , về lý cũng không thể không biết , như Giáp Ât Canh Tân Nhâm Quý , 3 hành nầy có thể là kim mà Bính Đinh Mậu Kỷ không đồng vậy , Canh Tân nguyên kim chẳng là vật bổn gia , Nhâm Quý chẳng là kim vậy , mà lý thì kim lấy kim thuỷ mà tưong sanh nên thuỷ cũng có thể là kim cho nên đời có vật thuỷ bích kim minh .Giáp ẤT mộc có chất kiên cưòng , đời có mộc hoá làm thạch . Việc nầy có thể thấy nên 2 loại nầy có thể thủ tưọng là kim đồng với vật bổn gia vậy . Bính Đinh thuộc hoả khô cứng bất đồng , Mậu Kỷ thuộc thổ cưong nhu bất đồng tưong phản với kim cho nên không thể lấy kim mà luận . Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý 6 can nầy có thể là mộc mà Giáp Ất Bính Đinh thì không thể , vì Bính Đinh là nguyên hoả có thể thiêu mộc nên không thể lấy Giáp Ất là nguyên mộc sao lại chẳng lấy đựoc . Không biết rằng trong ngũ hành kim thì hoàn kim , thuỷ về thuỷ , hoả về hoả , thổ về thổ , riêng mộc thì lại biến , lấy mộc mà giúp cho tính chất của thuỷ hoả thổ , giả hợp mà sanh , mộc tuyệt mà khô thì trở về thuỷ vậy , đốt đi thì thành hoả , tàn đi thì thành thổ vậy. Cho nên không dùng mộc sở dĩ thoát thể mà hoá thần vậy . Lục giáp luân hoàn số sở trỉ , ngũ hành thác tông mà đắc cái lý , có tgể nhận thức vậy.
Các mộc các thuỷ đều sở sanh ở sự thấm nhuần nên là thuỷ vậy , cho nên Nhâm Quý có thể là thuỷ . Chất của Canh Tân là chắc giống với Giáp Ất cho nên Giáp Ất có thể là kim mà Canh Tân có thể là mộc , sự hổ hoán giao thông cái lý không thể khác vậy .
Bính Đinh Giáp Ất Nhâm Quý thủ tưọng là thuỷ , dùng Nhâm Quý là nguyên thuỷ vậy , Bính Đinh là hoá vậy ,Giáp Ất là tân dịch tức cũng thuỷ vậy . Mậu Kỷ thổ nên khắc thuỷ , Canh Tân kim có thể khô thuỷ , khí có khác vậy , từ đó không thể lấy thuỷ mà luận .
Giáp ẤT Bính Đinh Mậu Kỷ thủ tưọng là hoả , lấy Bính Đinh là nguyên hoả vậy , Mậu Kỷ là hoá vậy . Giáp Ất là tánh nhiệt nên là hoả vậy , Nhâm Quý là thuỷ nên khắc hoả , Canh Tân kim làm khô hoả , không đồng loại nên không lấy hoả mà luận .
Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân nạp âm thuộc thổ , Mậu Kỷ nguyên là thổ vậy ,Bính Đinh là hoả hoá thành than , than là thổ vậy , Canh Tân kim lẩn trong thổ làm cho tinh khí thổ kết cho nên cũng gọi là thổ , Nhâm Quý thuỷ chảy xuống không ngừng , Giáp Ất mộc tiến lên không dừng nên không thể lấy thổ mà luận .

AnhNgoc
23-03-10, 21:13
12_Lục thập Giáp Tí nạp âm thủ tưọng.(tiếp theo)

Xét sự thủ tưọng thì có khinh có trọng, có lớn có nhỏ, có cưong có nhu , có khí vị có thể chất có công dụng mọi thứ bất đồng , đây lại kiêm địa chi phưong ngung các vị vưọng tưóng hưu tù bất đồng mà sở trỉ của thiên can thì hoặc là theo bổn tưọng hoặc theo hoá tưọng hoặc theo biệt tưọng , thiên nhân giao tận cái lý , sanh khắc hỗ thành cái nghĩa . Cho nên kim có các loại Hải trung Sa trung Kim bạc Bạch lạp Kiếm phong Xoa xuyến khác nhau vậy mà cái tưọng của kim không dư uẩn vậy ; Mộc thuỷ hoả thổ cũng thấy vậy .
Nạp âm thủ tưọng là sự tạo hoá vi diệu vậy . Cho nên trong ngũ hành chỉ riêng thuỷ hoả không nên quá vưọng , vưọng thì không thể cứu đựoc ; Bính ngọ Đinh mùi là Thiên hà thuỷ từc lấy thuỷ mà chế hoả vậy , Mậu ngọ Kỷ mùi đó là Thiên thượng hoả , dùng mậu kỷ mà che cho thổ thì hoả không ánh lửa vậy . Ngọ mùi tại nơi thiên Bính Đinh thì thuộc hoả đều vượng ở đất ngọ mùi …., đây là dùng lý luận mà chẳng lấy cái nghĩa thủ tưọng nhưng cũng không thể không biết . Lại xét nạp âm thủ tưọng có từ Hoàng đế nên là nguồn tông của các thuật gia , từ Từ đại thăng là định chân luận …Nay nói về mệnh chỉ luận chánh ngũ hành mà không lấy nạp âm thì làm sao hiểu cái lý nạp âm , sự tinh tuý của thủ tượng . Thưòng hể luận nhân mệnh càng không thể không nghiên cúư để hiểu hết cái hay . Nay nhà âm dưong luận tiên thiên ngũ hành mà không dùng hồng phạm ngũ hành là diệt man kinh để điên đảo âm dưong phản dịch thuỷ hoả thái hoà . Châu thị làm âm dưong định luận rất sâu xa . Tây thục La thanh tiêu làm âm dương biện nghi lấy hồng phạm ngũ hành phát xuất từ bát quái , đoán không thể không dùng , lại cho Chân thị là lừa dối , thật là cái thuyết tiền hậu bất nhất vậy . Ta thấy hồng phạm ngũ hành tức nạp âm ngũ hành đồng nghĩa , không thể kấy bên nầy bỏ bên kia .
Nói về mênh thì phải lấy ngũ hành là kinh để tham , và lấy nạp âm là vỹ , như vậy mới đủ hết cái lý của mệnh số mà tạo hoá không dư uẫn vậy .

AnhNgoc
24-03-10, 12:21
12_Lục thập Giáp Tí nạp âm thủ tưọng.(tiếp theo)

Luận nói : do trời đất khai mở mà can chi lập đựoc cái danh , tưong truyền xuất từ Thiên hoàng Địa hoàng trộn lẫn với nhau mà thành lục thập Giáp tí , tức từ Phục nghi đầu tiên làm giáp lịch vậy . Gọi là giáp lịch tức năm tháng ngày giờ đều lấy lục thập giáp tí mà nghi , có thỉ chung thiên địa , có vận hành của nhựt nguyệt , có 4 mùa nóng lạnh , có âm dương biến hoá , tất cả không thể đổi . Từ Hoàng đế dùng lục thập giáp tí nạp âm thủ tượng đó là ngũ hành đều có sở thuộc mà tánh tính và hình chất của kim mộc thuỷ hoả thổ có công dụng và sự biến hoá hết sức sâu xa . Cho nên lấy đây mà lường lưỡng nghi thì trời đất không thể trốn , lấy đây mà quyền tam quang thì nhựt nguyệt tinh thời không thể biến , lấy đây mà xét tứ thời thì nóng lạnh không thể đổi , lấy đây mà xem nhân sự thì cát hung hoạ phước thọ yểu cùng thông đều không thể ngoài được . Nay nhà nho chỉ biết bát quái , vẽ từ Phục nghi Văn vương , xem trọng nơi 64 Châu công làm hào từ , Khổng tử làm hệ từ , lấy Dịch thêm từ thánh mà sau thành đó là kinh , từ nhà ngũ hành là cửu lưu mà cũng không nghĩ nhiều vậy , sao theo nhà ngũ hành chuyên nói sanh vượng mà chẳng hiểu chánh lý , theo thiên mệnh mà bỏ nhân sự tức không hợp với Dịch đạo vậy.
Hởi ôi can chi phát xuất từ thượng cổ , Giáp tí là gốc nơi nghi hoàng , âm tượng truyền từ hoàng đế là các thánh nhân vậy , sao lại sau Văn Vương Châu Công Khổng Tử được .Nếu trời đất khai mở mà cái tên can chi không lập thì không thể điều hòa làm Giáp tí , mà không có lục thập Giáp tí thì không thể điều hòa ngũ hành , sao dùng ký kịch thành năm mà 1 năm có 360 ngày , tháng thì có 12 và 30 ngày 1 tháng , 1 ngày có 12 thời , theo đó mà rõ , theo đó mà biết , mà lại hỗn độn như ở nơi hồng mông thì sao lập được lưỡng gian cung tam tài mà thành thế giới vậy . Cho nên người ta thường dùng mà không biết , suốt đời theo vậy mà không xét là vậy .
Đạo Dịch tuy sâu xa chẳng qua cũng do trời đất định lập sơn trạch thông khí , lôi phong tương bạt thủy hỏa không tương xạ , thủ tượng mà vẽ bát quái , thì lý không thể ngoài can chi Giáp tí mà có thể đặt ra . Ô hô ! can chi thác tống mà làm bát quái , thác tống mà làm lục thập giáp tí , dùng số nạp âm, dùng số thủ tượng bèn là chánh ngũ hành vậy , mà cái thể của bát quái đã đủ caca1 sự ngưỡng quan phủ tế , xa thì thủ các vật , gần thì thủ các thân , làm 64 quẻ , 364 hào cũng là số 1 năm vậy , mà cái dụng can chi dùng hành can gốc thiên địa là kinh , bát quái âm dương dùng là vỹ , kinh vỹ trộn lẫn vãng lai biến hóa mà sự uẫn áo của thiên địa , cái tình trạng của quỷ thần , cái cát hung của nhân sự đều tại ở đây mà nghĩa rất vi diệu vậy . Vậy mà nhà nho thì lại có thể cho ngũ hành là loại cửu lưu ư !.

AnhNgoc
25-03-10, 13:02
13_ luận ngũ hành

- Ngũ hành tức vãng lai ở nơi trời đất mà không cùng vậy , đó cho nên gọi là hành . Phương Bắc cực âm mà sanh lạnh , lạnh sanh Thủy , phương Nam cực dương mà sanh nóng , nóng sanh Hỏa , phương Đông gió thổi dương tán tiết ra mà sanh phong , phong sanh Mộc ; Phuong Tây âm dương thâu mà sanh khô , khô thì sanh Kim ; trung ương âm dương giao mà sanh thấp , thấp sanh Thổ ,đó là tương sanh vậy , sở dỉ tương duy kỳ tương khắc vậy , cho nên tương chế tức là có luân chuyển .
Hỏa là Thái dương có tánh nóng lên , Thủy là Thái âm có tánh lạnh xuống , Mộc là Thiếu dương có tánh dương lên mà không chỗ dừng , Kim là Thiếu âm có tánh chìm xuống mà có chỗ dừng ; Thổ có tánh không thường nhìn nơi tứ thời mà theo , muốn khiến tương tế được nơi thì đừng để thái quá bất cập .
Nói về tánh ngũ hành đều có cái dụng, như Thủy thì có tánh Trí , Hỏa thì có tánh Lễ , Mộc thì có tánh Nhân , Kim thì có tánh Nghĩa , Thổ thì có tánh Tín . Sự nặng nhẹ rộng hẹp không hề không rõ .Nói về Thủy thì thủy phụ mà hành , nói về Mộc thì mộc đở lấy mà sanh , Kim không được Thổ thì không thể xuất , Hỏa không có Thổ thì không nơi để về , mất cái thật để làm thông , đến cái hư để làm rõ, cho nên ngũ hành đều nhờ thổ vậy .
Xét nơi hình sắc thì Thủy đen Hỏa đỏ Mộc xanh Kim trắng Thổ vàng , đây là chánh sắc vậy , đến khi biến dịch thì chẳng phải , thường dùng sanh vượng theo nơi chánh sắc , hể sanh vượng thì chánh khí có thể thấy được chánh sắc , nếu tử tuyệt thì theo mẩu sắc , như thủy là mẩu của mộc , tử tuyệt thì đen , Mộc là mẩu của Hỏa , tử tuyệt thì xanh , Hỏa là mẩu của Thổ , tử tuyệt thì đỏ , Thổ là mẩu của Kim ,tử tuyệt thì vàng , Hể ngũ hành tử tuyệt thì khí về gốc tức gặp sắc của mẩu . Thường khi người mà gặp khổ sở hay rên rỉ mẹ là nghĩa đó vậy . Thành hình Quan đới thì theo sắc thê (vợ) , tức lúc trẻ nhỏ và suy lảo thì nhìn thời của vợ . Bệnh Bại thì theo sắc Quỷ , nơi bệnh bại là đất Quỷ vượng , khi bị khắc thì khí về nơi QUỷ . Vượng Mộ thì theo sắc TỬ (con), vượng tức truyền mộ là thâu tạng cho nên sắc tại nơi Tử .
Số thì Thủy 1 Hỏa 2 Mộc 3 Kim 4 Thổ 5 . Sanh vượng thì tăng đôi , Tử Tuyệt thì giảm nữa , Lấy nghĩa ấy mà quyền . Vạn vật nhờ âm mà bảo dương , xung khí để làm hòa , nhiều hoặc không đủ đều là theo đạo , cho nên hể cao thì dằn xuống cho bằng , thấp thì nâng lên cho cao , hoặc bổ thêm nơi thiếu hoặc giảm bớt nơi nhiều , cho nên cái quý ở nơi tăng giảm , ở nơi trung đạo khiến cho không có cái khổ nơi thừa nới thiếu ,tức là cái ý Tài Quan Ấn Thực Quý nhân Dịch mã vậy ; Hành vận cũng như vậy , biết được ý nầy thì khi nói về mệnh cũng đã có nhiều suy lường vậy .

AnhNgoc
26-03-10, 20:48
13_ luận ngũ hành (tiếp theo)

* Kim: thích Mộc tượng , thượng sanh , không vong, đúc luyện – Kỵ Mộc vượng , Hỏa vượng , Hỏa mộ bại , Thủy hàn , Kim tiêu , hình sát khắc hại .
Kim đến âm là thể , trung hàm , đến dương là tinh nên thường cứng chắc khác hẳn các loại , Nếu độc âm mà không chắc thì là băng tuyết vậy khi gặp dương thì phải tiêu , cho nên Kim không luyện thì không thành khí , Kim tụ lại mà không có Hỏa thì khó thành danh thoát phát ; Kim mà nặng Hỏa mà nhẹ thì chấp sự khó nhiều , Kim nhẹ mà Hỏa nặng thì đúc luyện tiêu vong ; Kim cực Hỏa thạnh là cách rất tinh , Kim Hỏa đều gọi trù ấn , nếu phạm sửu tự tức là tổn khuôn phép , Kim Hỏa nhiều gọi là thừa hiên , gặp tử suy thì thành bất lợi , Hỏa lớn luyện Kim thì đạt được công danh mà mau thối ; thuần Kim tấu thủy được phú quý mà dư thừa .
Kim năng sanh thủy ,thủy mà vượng thì Kim trầm . Thổ năng sanh kim , kim mà quý thì thổ tiện ; kim không khô cạn thủy mà nặng thì trầm luân vô dụng ; kim ở nơi thổ không tử tuyệt , thổ mà nặng thì chôn kim không hiển được . Hai kim 2 hỏa là tối thượng ,, lưỡng kim lưỡng mộc là đủ tài (tiền ) , 1 kim sanh 3 thủy thì hư nhược khó thăng , 1 kim đắc 3 mộc thì ngu độn tự tổn . Kim mà thành thì hỏa phài diệt cho nên kim chưa thành khí thì muốn gặp hỏa , khi đã thành khí thì không muốn gặp hỏa . Kim mà đến Thân Dậu Tỵ Sửu cũng có thể là thành vậy .
Vận thì thích Tây Bắc mà bất lợi ở phương Nam . Sanh ở tháng Xuân khí lạnh chưa hết quý ở nơi hỏa khí mà vinh , tánh thì mềm mà thể thì yếu muốn được thổ phụ trợ , thủy mạnh thì lạnh tăng khó phát huy thế nhọn , mộc vượng thì tổn lực dễ bị nguy đứt gảy , kim đến tương trợ phó trì rất tốt , ví mà không hỏa thì mắt lòa chẳng lành . Tháng Hạ thì kim tánh thích mềm , hình thì chưa rõ nên rất sợ tử tuyệt , hỏa nhiều mà lại không đủ , thủy thạnh mà thể thêm rõ ràng , gặp mộc mà trợ quỷ hại thân , gặp kim mà phò trì cho tinh tráng , thổ bạc mà lại rất hữu dụng , thổ hậu mà lại mai một chẳng còn . Tháng Thu thì Kim đương quyền đắc lệnh , hỏa đến đúc luyện thì được thành khí vật , nhiều thổ bồi dưỡng thì lại thành ngang trược , gặp thủy thì tinh thần xuất sắc , gặp mộc thì trác tước thi oai , kim trợ thì càng cứng , cứng quá thì tức khuyết , khí nặng thì càng vượng , vượng quá thì tức hại . Kim ở tháng Đông thì hình tính đều lạnh , mộc đến thì khó mà trác tước được , thủy thạnh mà chưa hết cái họa trầm tiềm , thổ năng chế thủy , thể kim không lạnh , hỏa đến cho thổ mẹ con thành công , thích sánh vai tụ khí tương phò , muốn quan ấn ôn dưỡng làm lợi .

AnhNgoc
29-03-10, 22:04
13_ luận ngũ hành (tiếp theo)

* Mộc :
Thích trác tước (chọn vót), sanh ốc thủ hỏa , bồi, sanh vượng địa diện , hữu đảng thành lâm- kỵ không triết , phiêu lạc , không vong, động quyền , tử tuyệt – khô cảo , tự phần , hao tiết , thấp cạn.
Mộc sanh hướng lên không chỗ dừng , khí nặng thì muốn kim sử dụng , mộc có kim tức có cái đức cao , thấu , nhưng lại thích thổ trọng tức căn gốc kiên cố , thổ ít tức là nhành tốt mà gốc nguy . Mộc nhờ thủy sanh , ít thì tư nhuận , nhiều thì phiêu lưu . Giáp tuất Ất hợi là gốc của mộc , Giáp dần Ất mão là là đất của mộc , Giáp thìn Ất tỵ là chổ mộc sanh , đều là hoạt động của mộc vậy . Giáp thân Ất dậu mộc bị khắc ,Giáp ngọ Ất mùi là mộc tự tuyệt ; Giáp tí Ất sửu là kim khắc mộc , đều là tử mộc vậy . Sanh mộc thì muốn hỏa mà đẹp , Bính Đinh cũng vậy , tự mộc được kim mà tạo ra , Canh tân thì lợi , sanh mộc gặp kim thì tự tổn , tử mộc gặp hỏa thì tự thiêu , không có phong thì dừng tức loạn thế vậy , gặp thủy thì phân hóa về nguồn tức thế tận vậy . Kim mộc với nhau có cách là trác luân , muốn tới Thu sanh lại trở thành thượng phủ nên Thu sanh kỵ kim trọng vậy . Âm mộc thì nhiều hỏa , sanh nơi tháng Xuân như có lạnh nhiều thì thích hỏa ấm áp , chẳng có quanh co , nhờ thủy tương phò mà được đẹp , đầu Xuân không nên thủy thạnh , âm nồng thì gốc tổn cành khô , mộc Xuân thì dương khí khô hanh , không có thủy thì lá trích rễ cạn , phải dùng mộc hỏa 2 thứ ký tế thì tốt , thổ nhiều mà tổn sức , thổ mỏng thì tài phong , kỵ gặp kim nặng thì bị thương tàn ,khắc phạt một đời không nhàn , nên để mộc vượng đắc kim là tốt suốt đời hưởng phước . Mộc tháng hạ rễ cạn , lá khô , cong mà lại thẳng, gãy mà lại ngay , muốn có thủy thanh để được tư nhuận , thật không thể thiếu , kỵ gặp hỏa vượng sợ bị thiêu đốt rất là hung , thích có thổ mỏng mà không thích thổ trọng hậu , hậu quá thì trở thành tai ách , ghét kim có nhiều nhưng không nên khiếm khuyết , khuyết thì không thể trác tước được ; trùng trùng có mộc thì trở thành rừng , quá nhiều là lá thì không thành trái . Mộc tháng Thu thì khí dần thê lương ,hình dần tàn tạ , đầu Thu thì thích có thủy thổ tương giúp , đến kỳ giữa thu thì quả đã thành nên muốn được kim cứng để tước chẻ , sau sương giáng không nên có thủy thạnh , thủy thạnh thì mộc phiêu ; đến tiết Hàn lộ thì lại thích hỏa nóng , hỏa nóng thì mộc thật , mộc nhiều thì đẹp nhiều công dụng , thổ dày thì không phải được việc , mộc tháng Đông thì quanh co ở đất , muốn thổ nhiều để bồi dưỡng , sợ thủy thạnh dễ bị tiêu vong , kim đều không thể khắc phạt , hỏa trọng thì được ấm áp ,thành cái công về gốc sanh lại mệnh , mộc mà bệnh thì phải được phù trợ , sợ nhất bị tuyệt mà phải cần sanh vượng .

sonthuy
29-03-10, 22:54
Rất cảm ơn anh AnhNgoc đã và đang dịch cuốn Tam Mệnh Thông Hội để tặng Diễn đàn quả là sách rất quí rất hay, học Tử Bình mà có thêm cuốn sách này thì còn gì bằng quá quí, sonthuy mạn phép xin được chép vào máy để nghiên cứu. Một lần nữa cảm ơn anh.
Kinh
ST

AnhNgoc
31-03-10, 14:28
13_ luận ngũ hành (tiếp theo)

** Thủy :

Thích thanh khiết , khoan viễn , tương sanh , hỏa tế , nhuận hạ , Tây bắc – Kỵ : không vong ,phiếm lạm , khắc hại , khí hàn , khô hạc , tử tuyệt , tiêu táo đẳng thổ .
Nghiêng về Tây Bắc , ở Hợi là phương xuất thủy , địa hảm ở Đông nam Thìn là chỗ nạp thủy nghịch chảy đến Thân mà rõ tiếng cho nên thủy không lưu ở Tây , tánh thủy nhuận hạ, thuận thì đẹp , thuận hành 12 thần là thuận vậy , chủ có độ lượng , có cát thần phò trợ thì là quý cách . Nghịch tức có tiếng , nghịch hành 12 thần là nghịch vậy , về nhân cách thì chủ thanh quý có tiếng khen , kỵ bị hình xung thì hoành lưu , thích tự tử tự tuyệt thì tốt , thủy không tuyệt nguồn , nhờ kim sanh mà lưu chảy , thủy chảy phiếm lạm thì nhờ thổ khắc để đề phòng , thủy hỏa đều nhau thì hợp thành ký tế , thủy thổ mà hỗn tức xấu bị trược nguyên , 4 thời đều kỵ nhiều hỏa vì bị khô cạn , kỵ gặp thổ trọng vì bị chận lưu , kị gặp kim tử , kim tử thì thủy hung , kỵ gặp mộc vượng , mộc vượng thì thủy tử . Thẩm chi nói : thủy mệnh động diêu thì chủ trược lạm , âm nhân rất kỵ vậy .Khẩu quyết nói : dương thủy thì thân yếu cùng , âm thủy thì thân yếu quý , sanh ở tháng Xuân thì tánh lạm thao dâm , lại gặp thủy trợ tức chẳng tránh vỡ đê , nếu có thổ thạnh thì không lo bị phiếm trướng ; thích kim sanh phò mà không nên kim thạnh , muuon61 có hỏa ký tế mà không cần hỏa nhiều , gặp mộc thì khả dỉ thi công , không thổ thì cũng buồn tản mạn . Thủy mùa Hạ tánh muốn về nguồn , thời đương khô hạn muốn được sánh vai , kỵ kim sanh mà trợ thể , kỵ hỏa vượng mà quá nóng , mộc thạnh thì hao khí, thổ vượng thì khắc chế sự lưu thông . Thủy tháng Thu đắc kim trợ thì được thanh trừng , gặp thổ vượng thì sợ hỗn trược , hỏa nhiều thạnh tài thái quá , không nên gặp mộc thạnh , nên trung hòa là lợi trùng trùng gặp thủy thì tăng sự phiếm lạm , gặp thổ nhiều hơn thì được sự thanh bình . Thùy tháng Đông chấp lịnh chuyên quyền , gặp hỏa thì thêm ấm , trừ hỏa gặp thổ thì hình tạng quy hóa , kim nhiều thì trở thành vô nghĩa , mộc thạnh thì hữu tình , thổ thái quá khắc chế thì thủy tử , thủy mà quá lạm thì lấy thổ mà đề phòng.

daibacvn
08-04-10, 07:35
AnhNgọc chắc bận công việc rồi hay sao mà thấy quán lặng lẽ mấy ngày nay rồi, mong anh sớm trở lại để DB & mọi người có dịp tham khảo một tài liệu hay!:4431::5887::611d7:
Cảm ơn AnhNgọc!:5333::5333::5333:

AnhNgoc
09-04-10, 18:21
AnhNgọc chắc bận công việc rồi hay sao mà thấy quán lặng lẽ mấy ngày nay rồi, mong anh sớm trở lại để DB & mọi người có dịp tham khảo một tài liệu hay!:4431::5887::611d7:
Cảm ơn AnhNgọc!:5333::5333::5333:

Chào daibacvn .
Mấy hôm nay máy bị hư win nên mất hết toàn bộ sách vở và tài liệu ki cóp lâu nay , chán quá! Tối nay sẽ cố gõ vài dòng .Thân.

AnhNgoc
09-04-10, 21:32
13_ luận ngũ hành (tiếp theo)

* Hỏa: Thích hòa hoãn , sanh trợ ,không vong . Viêm thượng , cao viễn , thượng chiếu , thủy tề - Kỵ cuộc tróc , cấp táo , thanh lãnh , thủy trọng , mộc khô tạp đãng , mộc bại , tử thủy chi mộc
- Hừng hừng chân hỏa , đứng ở phương Nam , cho nên với hỏa không thể không rõ cái lý , huy quang không lâu thì cần phải phục tạng , cho nên cái sang không thể không mất cái tượng .
Hỏa lấy mộc làm thể , không mộc thì hỏa không có lửa dài . Hỏa lấy thủy mà dụng , không thủy thì hỏa quá tàn khốc , cho nên hỏa nhiều thì không thực , nóng quá thì hại vật . Mộc thường chứa hỏa , đến dần mão là phương sanh .hỏa không lợi ở Tây , gặp thân dậu thì phải tử .Hỏa sanh ở Ly , nếu cư ở Khảm thì Cẩn úy thủ lễ .Kim được hỏa hòa thì năng đúc nấu , thủy được hỏa hòa thì thành ký tế , gặp thổ bất minh , nhiều thổ thì kiển tắc , gặp thủy nơi vượng thì quyết định là mộc tử hỏa hư khó được dài lâu , dù được công danh cũng không vinh hiễn . Xuân kỵ gặp mộc vì dễ bị thiêu . Hạ kỵ gặp thổ vì sợ bị ám . Thu sợ gặp kim , kim vượng khó khắc chế . Đông kỵ gặp thủy , thủy vượng thì diệt mất . Cho nên mùa Xuân hỏa muốn sáng mà không muốn nóng , nóng thì không thật . Mùa Thu hỏa muốn tạng mà không muốn rõ , rõ thì khô . Mùa Đông hỏa muốn sanh mà không muốn sát , sát thì ám .
Sanh ở tháng Xuân thì mẩu vượng tử tướng , thế lực gồm đủ , thích được mộc sanh phò , không nên quá vượng , vượng thì hỏa nóng , muốn thủy ký tế , không buồn hưng thạnh , thạnh thì cô âm , thổ nhiều thì kiển tắc mai quang , hỏa mà thạnh tổn hại quá nhiều , gặp kim thì có thể thi công , dù trùng điệp cũng không ngại . Hỏa tháng Hạ chuyên quyền thế lực nếu gặp thủy chế thì khỏi bị nạn thiêu rụi , gặp mộc trợ thêm thì bị họa yểu triết , gặp kim thì có công lương , được thổ thì được thành mầm giống , kim thổ tuy là đẹp lợi , mà không thủy thì kim táo thổ tiêu , lại thêm lấy hỏa thái quá thành nguy . Hỏa tháng Thu , tánh dừng thể nghỉ , được mộc sanh thì lại trở thành tươi sáng , nếu gặp thủy khắc thì khó thoát cái họa bị diệt ; Thổ trọng thì chắn mất ánh quang , kim nhiều thì tổn thương cái thế , hỏa gặp hỏa thì quang huy , điệp kiến mà chuyên lợi . Hỏa tháng Đông thì thể tuyệt hình vong , cần mộc sanh để cứu , gặp thủy khắc thì tai họa , muốn thổ chế mà là vinh , cần sánh hỏa thì lợi , gặp kim thì khó mà gánh vác , không kim thì không gặp thê hại , trời đất tuy nghiêng mà thủy hỏa khó diệt .

AnhNgoc
11-04-10, 14:53
13_ luận ngũ hành (tiếp theo)

** Thổ :

- Thích sanh phò, kiên hậu , sở thông , sanh kim
– Kỵ : băng đồi , mộc trọng , thủy đa , không vong , khí hàn , kim trọng , thô thiển .
-Trong ngũ hành thì thổ tán tại tứ duy cho nên kim mộc thủy hỏa y theo mà thành tượng là 4 thời đều hữu dụng và cái sở kỵ là hỏa tử ở Tây mà thủy vượng ở tí vậy ; bởi thổ nhờ hỏa ấn, , hỏa mà tử thì thổ tù ; thổ thích thủy tài, thủy mà vượng thì thổ hư ; thổ mà được kim hỏa thì thành đai khí ; thổ cao không thật thì chỉ như tro , thổ mà tụ thì trệ , thổ mà tán thì nhẹ .
Thìn tuất sửu mùi là chánh vị của thổ , phân âm phân dương nên chủ không đồng . Thìn thì dục phục thủy, mộc núp trong thủy mà sinh trưởng vạn vật , Xuân Hạ là công , Tuất có chứa hỏa ; Sửu thì dục ẩn kim , Thu hỏa Đông kim , kim tiêu sát vạn vật nên thổ tụ ở Thìn Mùi thì quý , tụ ở Tuất Sửu thì không quý . Vậy là thổ thích Thìn Mùi mà không thích TUất Sửu vậy .Biết vậy , nếu thêm ngũ hành có khí mà nhân mệnh được gặp thì điền sản rất nhiều , suốt đời phú quý sung sướng , nếu thổ đại mà không thủy tức không hòa , nếu không mộc thì không thông suốt , thổ gặp hỏa thì cháy khét , nữ mệnh thì phần nhiều không sanh trưởng .
Thổ vượng ở tứ quý , chỉ ở Tuất thì thổ khốn nhược , Tuất nhiều là người thích tranh đấu , hay ngủ gật , Thìn Mùi là người thích ăn ,Sửu là người thanh tỉnh . Sửu có Cấn thổ có quý thủy năng nhuận , nhân mệnh mà gặp thì xuất chúng , sanh ở tháng Xuân thì thế hư nhược , thích được hỏa sanh phò , ghét mộc thái quá ,kỵ thủy phiếm lạm , thích được tương trợ , đắc kim mà chế thủy thì tốt , kim mà nhiều vẫn mất khí thổ . Thổ mùa Hạ thì thế khô nóng nếu được thanh thủy tư nhuận thì hay , kỵ vượng hỏa nung đúc cháy đỏ , mộc trợ hỏa cháy sanh khắc không lành , kim sanh thủy phiếm thê tài có ích , gặp ngang nhau thì kiển trệ không thong , nếu thía quá thì lại thích mộc hợp lại . Thổ tháng Thu tử vượng mà mẩu suy , kim nhiều nên bị hao mất khí , mộc thạnh để chế phục cho tốt , hỏa trùng trùng mà không đủ , thủy phiếm phiếm mà chẳng hay , được sánh nhau thì năng trợ lực , đến Sương giáng thì không bằng không lo . Thổ tháng Đông trong ấm ngoài lạnh , thủy vượng thì phát tài , kim nhiều thì con đẹp , hỏa thạnh thì vinh quang , mộc nhiều mà không lỗi , lại them thổ trợ thì rất tốt , chỉ thích thân cường túc thọ.
Từ đại Thăng nói :
-Kim nhờ thổ sanh , thổ nhiều thì chôn kim .Thổ nhờ hỏa sanh , hỏa nhiều thì thổ cháy . Hỏa nhờ mộc sanh , mộc nhiều thì hỏa dữ . Mộc nhờ thủy sanh , thủy nhiều thì mộc trôi . Thủy nhờ kim sanh , kim nhiều thì thủy nhuận .
-Kim năng sanh thủy , thủy nhiều thì kim trầm . Thủy năng sanh mộc , mộc thạnh thì thủy thiếu . Mộc năng sanh hỏa , hỏa nhiều thì mộc thiêu . Hỏa năng sanh thổ , thổ nhiều thì hỏa hết . Thổ năng sanh kim , kim nhiều thì thổ biến .
- Kim năng khắc mộc , mộc chắc thì kim khuyết . Mộc năng khắc thổ , thổ trọng thì mộc gảy . Thổ năng khắc thủy , thủy nhiều thì thổ trôi . Thủy năng khắc hỏa , hỏa mạnh thì thủy nóng . Hỏa năng khắc kim , kim nhiều thì hỏa mòn .
- Kim suy gặp hỏa thì phải tiêu dung . Hỏa yếu mà gặp thủy thì bị tiêu diệt . Thủy yếu mà gặp thổ tức bị ứ tắc . Thổ suy mà gặp mộc tức bị khuynh hãm . Mộc yếu mà gặp kim tức bị chặt đứt . Kim mạnh mà gặp thủy tức giảm cái nhọn .Thủy mạnh mà gặp mộc thì giảm cái thế . Mộc mạnh mà gặp hỏa thì dễ hóa than . Hỏa mạnh mà gặp thổ thì dừng lửa ngọn Thổ mạnh mà gặp kim thì chế cái hại .

Nói đơn giãn mà hết cả vậy.

** HẾT CUỐN 1 TAM MỆNH THÔNG HỘI.

huongvi
12-04-10, 03:56
Cảm ơn anh anhngoc rất nhiều về tài liệu bổ ích này. Giá như huongvi gõ giúp cho anh được thì đỡ mệt cho anh.:106:

AnhNgoc
12-04-10, 12:18
TAM MỆNH THÔNG HỘI - Cuốn 2.

Mục lục:


1-Luận hà đồ và hồng phạm ngũ hành
2-Luận thiên can âm dương sanh tử
3-Luận địa chi
4-Thập can phân phối thiên văn
5-Thập nhị chi phân phối địa lý
6-Luận địa chi thuộc tướng
7-Luận nhân nguyên ty sự
8-Luận tứ thời tiết khí
9-Luận nhựt khắc
10-Luận thời khắc.
11-Luận Thái dương trều thứ Thái âm.
12-Luận ngũ hành vượng tướng hưu tù tử hư ký sinh thập nhị cung
13-Luận độn nguyệt thời
14-Luận niên nguyệt nhựt thời
15-Luận thai nguyên
16-Luận tọa mệnh cung
17-Luận đại vận
18-Luận tiểu vận
19-Luận thái tuế
20-Tổng luận tuế vận
21-Luận thập can hợp
22-Luận tiến giao thối phục
23-Luận thập can hóa khí
24-Luận chi nguyên lục hợp
25-Luận chi nguyên tam hợp
26-Luận tướng tinh hoa cái
27-Luận hàm trì, luận lục hại
28-Luận tam hình
29-Luận xung kích

kimcuong
12-04-10, 13:10
Góp ý với anh anhngoc: Lập topic mới cho cuốn 2 để dễ tập trung hơn.

Các bạn đang học Tử Bình và cả những bạn học lâu rồi cũng sẽ rất vui thích và cảm nhận được sự tiện ích quí báu của cuốn 2 này mà không phải nơi nào cũng có.

Cám ơn anh đã bõ công khó nhọc để gõ lại công trình này tặng không biếu không cho mọi người. Tặng anh :799: x 5

AnhNgoc
12-04-10, 21:41
Góp ý với anh anhngoc: Lập topic mới cho cuốn 2 để dễ tập trung hơn.

Các bạn đang học Tử Bình và cả những bạn học lâu rồi cũng sẽ rất vui thích và cảm nhận được sự tiện ích quí báu của cuốn 2 này mà không phải nơi nào cũng có.

Cám ơn anh đã bõ công khó nhọc để gõ lại công trình này tặng không biếu không cho mọi người. Tặng anh :799: x 5

Chào chị Kimcuong.
Cám ơn chị đã quan tâm . Tôi sẽ cố gắng hết mình để cống hiến các bạn bộ sách hay nhưng chưa được dịch qua tiếng Việt này . Thế nhưng chắc chắn rằng sẽ có những sai sót bởi vậy cũng mong chị và các bạn góp ý giúp để bộ sách này được hoàn chỉnh hơn.
Thân mến.

Hungson
18-05-14, 13:30
xin cảm ơn ANH NGOC