PDA

View Full Version : Dịch là nghĩa làm sao?



1268
22-05-12, 17:18
Nghĩa chữ Dịch cốt ở tinh thần. Trong chữ Dịch bao hàm ba ý nghĩa : bất dịch, giao dịch, biến dịch.

Bất dịch, nghĩa là chẳng thay đổi. Ở trong trời đất. kể dọc là thì gian, kể ngang là không gian. Hễ đã có một vật gì, tất nhiên có một cái chất cố định của vật ấy , có một việc gì, tất nhiên có một lí nhất định của việc ấy.

Lệ như: Càn là thiên, thiên là trời, trời thời bao giờ cũng khinh thanh tại thượng. Khôn là địa, địa là đất, đất thời bao giờ cũng tròng trọc tại hạ.

Lại như: Khảm là thủy, thủy là nước, nước thời bao giờ cũng có chất trôi chảy.
Li là hỏa, hỏa là lửa, lửa bao giờ cũng có tia sáng chói, vv…

Vậy nên ở trong kinh dịch đã Càn, thời nhất định là ba nét dương, đã Khôn, thời nhất định là ba nét âm; đó là nghĩa bất dịch.

Nhưng chân lý ở trong vũ trụ, cái bất dịch ấy, chỉ được một phương diện. Sách Dịch là bao bọc cả sự lý, thiên địa ,vạn vật, không thể chỉ nói bất dịch mà thôi; nên lại phải có hai nghĩa nữa: giao dịch và biến dịch.

Giao dịch, nghĩa là trao đổi với nhau, ở trong vạn sự, vạn vật. Bất dịch là nguyên thể; giao dịch là ứng dụng.

Lệ như: âm điện giao hoán với dương điện, mà sinh điện khí tác dụng; nam tinh giao hoán với nữ tinh mà thành được nhân loại sanh dục. Lí ấy ở trong dịch học lại càng rõ rệt lắm.

Tức là ba nét dương quẻ Càn giao dịch giao dịch với Khôn, thành Chấn, Khảm , Cấn. Ba nét âm quẻ Khôn giao dịch với Càn thành Tốn, Li Đoài.

Sự vật ở trong thiên địa cổ kim, muốn xét cho cùng nguyên cực ủy, tự thủy chí trung, thời chỉ một phần giao dịch cũng chưa hết được chân lí tác dụng. Nên phải có một nghĩa nữa là biến dịch.

Biến dịch, nghĩa là biến hóa, thay đổi. Sự vật gì theo về phần nguyên chất, hoặc phần thiên nhiên thời vẫn bất dịch và giao dịch. Nhưng đã trải qua khi giao hoán tác dụng rồi , thời tức có biến dịch.

Lệ như: gang, chì vẫn là giống cố thể, mà bỏ vào lò lửa nấu, thời chảy ra nước, hóa thành lưu chất; tằm vẫn là giống nấp, nhưng khi vào kén làm nhộng, hóa ra bướm, thời thành giống bay.

Nghiên cứu dịch học, thời cốt yếu nhất là nghĩa biến dịch.

Tức như: Dương hào biến ra được âm hào , quẻ Càn biến ra được quẻ Khôn, toàn một bộ sách, không một vạch nào mà chẳng biến dịch được, ấy là nghĩa rất tinh thông ở trong Kinh Dịch đó vậy.

Trình Di có câu nói rằng: Dịch chi vi thư, tùy thì biến dịch, dĩ tùng đạo dã.

Nghĩa là: Dịch sở dĩ thành sách ra đó chỉ là cốt ở theo thì biến đổi cho đúng với đạo mà thôi. Câu nói ấy, chính là lấy nghĩa biến dịch thích chữ Dịch.

Bàn tóm lại, đủ ba nghĩa như trên ấy, mới hết được nghĩa chữ Dịch, mà ba chữ nghĩa ấy, laị tiếp tục tuần hoàn đẻ ra nhau.

1268
24-05-12, 14:53
Hễ học Dịch tất phải biết chữ Thời.

Nghĩa chữ Dịch, cốt yếu nhất là biến dịch, mà cũng quy kết ở biến dịch.

Nhân vì Thời có biến dịch, nên Dịch lí cũng phải có biến dịch.
Xưa nay ở trong vũ trụ, thời gian vẫn thường thường biến dịch; một ngày một đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ cho đến một tháng, một năm, một thế kỉ, một vũ trụ, biến hóa thay đổi chẳng chốc phút nào dừng, thì gian hay biến dịch như thế; nên không gian cũng thường thường theo thì gian mà biến dịch.

Lệ như: Thời gian do Đông mà biến ra Xuân, Hạ mà biến ra Thu, đêm biến ra ngày, ngày biến ra đêm. Về phần thiên nhiên đành như thế, thời phần nhân sự cũng phải thế.

Thánh nhân làm sách Dịch dạy người, cốt nhất là tùy thì biến dịch. Vì nghĩa biến dịch, nên người học Dịch phải tinh nghĩa chữ Thời.
Biến dịch mà cho đúng với thời, chính là tinh lí của Kinh Dịch.
Đổi cũ mà thay ra mới, phá hoại cái hiện tại mà kiến thiết cải tương lai, nhất thiết nhân sự vô luận hạng người nào, việc nào cũng chỉ đúng thời mà làm thì hay, chưa đúng thời mà làm thì dở. Trong Kinh Dịch, hễ mỗi một quẻ, tất có thời của quẻ ấy,.

Thiệu Khang Tiết có nói rằng: Chu Dịch nhất bộ, khả nhất ngôn dĩ tế chi, viết Thời, nghĩa là :toàn bộ dịch chỉ một chữ mà trùm bọc hết , là chữ Thời. Vậy chúng ta học Dịch, tất phải hiểu thấu nghĩa chữ Thời.

Thời, nghĩa là buổi. Lệ như: buổi trưa thời ăn cơm, buổi đêm thời vào nghỉ.
Thời, nghĩa là mùa. Lệ như: mùa Hạ phải mặc áo cát, mùa Đông mặc áo cầu.
Thời, nghĩa là giờ. Lệ như: giờ sáng phải mở cửa, giờ tối phải thắp đèn, vv...
Đoạn này là nói đại lược mà thôi,

1268
25-05-12, 13:27
Học dịch để làm gì?

Kinh Dịch là một công trình nghiên cứu hình thành từ thời cổ đại, mục đích ban đầu của nó là để bói toán, hay thời bây giờ người ta thay nó bằng một từ khác là "dự đoán". Cũng vì thế, xin trả lời một cách thẳng thắn rằng, mục đích đầu tiên của chúng ta khi học dịch là nhằm để bói toán: mô tả nhữn sự vật sự việc đã và đang xảy ra trong quá khứ, hiện tại, từ đó dự đoán chiều hướng phát triển trong tương lai.

Ngoài ra, Kinh Dịch là một công trình của tập thể, trải qua hàng ngàn năm tích lũy, vun đắp của các bậc thánh hiền cho nên càng ngày nó càng đi sâu về mặt đạo lý. Hậu sinh chúng ta học dịch , ngoài phần ứng dụng bói toán, cũng không thể quên được phần Đạo, triết lý của Dịch. Để có thể dụng được Dịch một cách linh hoạt uyển chuyển trong cuốc sống, để lấy cái bất biến mà ứng vạn biến.

1268
28-05-12, 14:21
Các tiền nhân đã nói về Dịch:

Nhà văn Ngô Tất Tố là nhà văn, nhà báo nhà khảo cứu lớn của văn học việt nam từ những năm 1930 – 1940 đã viết và cho rằng: Kinh Dịch là một cuốn sách lạ trong văn học giới của nhân loại là bộ sách cổ của triết học Phương Đông. Nhưng Kinh Dịch không như Kinh Thi, Kinh Thư, nó là thứ sách nói hết sự lý vô cùng vô tận của thiên hạ đời sau chỉ một hai chữ đã là cả một đạo lý .

Đủ biết như vậy tư tưởng và nguyên lý của Kinh Dịch hoàn toàn là tư tưởng triết học theo “Cái lý tính mệnh và mở trí người giúp tạo hóa“ . Lý tính mệnh tức là Thiên Đạo, Địa Đạo và Nhân Đạo, những điều quy xử buộc con người phải tuân theo để sống hòa hợp giữa cương và nhu, nhân và nghĩa hợp lẽ trời, đất, âm dương biến hóa .

Chí sĩ Phan Bội Châu sinh thời coi Kinh Dịch là nhân sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại. Ông đề cao sự tuyệt đối bình đẳng, đại đẳng là chân tính, là hạnh phúc của nhân sinh, đồng thời các thuyết về luân lý, đạo đức được dạy kỹ trong Kinh Dịch như tinh thần quy củ, có trật tự, đạo đức là lễ công bình của con người .

Do vậy tuy là triết thuyết, nhưng triết học trong sách Dịch là thực hành, không phải là vô ngôn, luôn biến thông mà không câu nệ, phát triển tinh diệu, thích hợp với phép tiến hóa.

Cho nên nói như cụ Huỳnh Thúc Kháng, học giả và là thành viên của Chánh phủ việt nam Dân Chủ Công Hòa sau Cách mạng tháng tám (1945) “Xưa nay nhiều người xem Kinh Dịch dùng như sách bói toán quẻ số để sa vào sự mê tín dị đoan … “ Nhưng chính nơi đây: Chân tướng triết học của thánh hiền Đông Phương bị che lấp mấy trăm đời … Nay được bày tỏ một cách sáng suốt đáng được bảo tồn và phát triển … Các giá trị quý báu của nó …

1268
01-06-12, 10:58
Trình Di:

Dịch là sự biến đổi , tức là tùy thời biến đổi để theo Đạo . Nó là thứ sách rộng lớn đầy đủ , hầu để thuận theo lẽ tính mệnh thông đạt cớ u minh , hiểu hết tình trạng muôn vật mà bảo những cách mở mang các vật, làm thành các việc . Thánh nhân lo cho đời sau như thế , có thể gọi là tột bậc .

Nay cách đời cổ chưa xa, sách sót hãy còn, nhưng bậc Tiên nho thì bỏ Ý để truyền Lời , kẻ hậu học thì đọc Lời quên Ý . Dịch đã thất truyền từ lâu .

Ta sinh sau nghìn năm , xét Đạo ấy đã bị vùi lấp , muốn cho người sau có thể theo dòng mà tìm nguồn , cho nên mới làm Truyện này.

Dịch có bốn điều thuộc về Đạo của thánh nhân : Để nói thì chuộng lời , để hành động thì chuộng sự biến đổi, để chế đồ đạc thì chuộng hình tượng, để bói toán thì chuộng lời chiêm đoán của nó. Cái lẽ lành dữ tiêu lơn, cái đạo tiến lui mất còn, có đủ ở Lời , Suy lời xét Quẻ, có thể biết sự biến đổi, thì sự chiêm đoán tự nhiên ngụ ở trong đó.

Quân tử khi ở yên thì coi hình tượng, và ngẫm lời lẽ của nó, khi hành động thì coi sự biến đổi mà ngẫm lời suy đoán của nó. Hiểu lời mà thông đạt ý của nó thì có chứ chưa có ai không hiểu lời mà thông được Ý của nó bao giờ.

Rất huyền vi là Lý, rất tỏ rõ là Tượng, thể chất và công dụng vẫn là một nguồn, huyền vi và tỏ rõ không hề cách nhau, xem sự hội thông để thi hành điển lễ của nó, thì Lời không có cái gì không đủ .

Cho nên kẻ khéo học Dịch, tìm kiếm về lời phải tự chỗ gần trước đã .

Nếu mà khinh rẻ chỗ gần thì không phải là kẻ biết nói Kinh Dịch, còn sự do lời mà biết được ý thì cốt ở người .

1268
02-06-12, 11:02
KHÁI QUÁT VỀ DỊCH HỌC VIỆT NAM

(LÊ ANH MINH DỊCH)

Kinh Dịch không phải là kinh điển Trung Quốc có ảnh hưởng và phổ thông nhiều trong giới học giả Việt Nam. Tống Nho – cụ thể là học thuyết của Chu Hi 朱熹 (1130–1200) vốn coi trọng Tứ Thư hơn Ngũ Kinh – đã chiếm ưu thế trong Nho học Việt Nam. Không ai biết đích xác Kinh Dịch được truyền vào Việt Nam tự bao giờ. Suốt hơn một ngàn năm dài, từ 111 tcn đến 939 cn, Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ, các quan lại và thương buôn Trung Quốc đã định cư hoặc tạm trú tại Việt Nam, còn người Việt thì cũng qua Trung Quốc để triều cống, mua bán, hoặc du học. Dường như những người Trung Quốc và Việt Nam này đã mang các bản bình chú Kinh Dịch của đời Hán (206 tcn–200 cn) đến đời Đường (618–906) vào Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc Việt Nam. Việt Nam cũng in lại các kinh điển Trung Quốc vào các thời kỳ khác nhau. Một trong những tư liệu ghi chép sớm nhất cho biết rằng các văn bản Trung Quốc được in tại Việt Nam vào năm 1007. Đó là lúc triều đình Việt Nam cho in lại các kinh điển Phật giáo và Nho giáo. Nhưng không rõ trong đó có bản Kinh Dịch hay không.

Vào đời Lý (1010–1225), triều đình áp dụng hệ thống khoa cử và lập nhà Thái học theo mô hình của Trung Quốc. Mặc dù không phải là môn học chính nhưng Kinh Dịch cũng nằm trong chương trình học. Phật giáo cũng có nhiều ảnh hưởng như Nho giáo trong thời này và một số nhà sư (như sư Bảo Giám 寶鑒) cũng đã nghiên cứu Kinh Dịch.[3]
Suốt đời Trần (1225–1400), triều đình hoàn thiện và phát triển hệ thống trường học và khoa cử. Triều đình cho in Tứ Thư Ngũ Kinh làm sách giáo khoa áp dụng cho các kỳ thi và các trường công. Các học giả đời Trần cũng viết thêm lời bình chú của mình vào kinh điển Nho giáo. Tại trường, các học sinh từ 14 đến15 tuổi phải đọc Tứ Thư Ngũ Kinh để chuẩn bị cho các khoa thi sau này.[4]

Tống Nho của Chu Hi trở thành học thuyết có ít nhiều ảnh hưởng vào đời Lê (1428–1789). Triều đình lập ra các chức tiến sĩ Ngũ Kinh để đề cao Ngũ Kinh vì e rằng các kinh điển Nho giáo như Kinh Dịch, Lễ Ký, Xuân Thu bị xao lãng.[5] Tại triều đình, nơi nhà Thái học, Kinh Dịch được nghiên cứu như một bộ kinh của Nho giáo và nơi bộ Lễ Kinh Dịch được sử dụng như một sách bói. Tuy nhiên, vì không phải là kinh sách quan trọng tại cả nhà Thái học lẫn bộ Lễ, rất ít học sinh chuyên về Kinh Dịch.[6] Kinh Dịch chưa hề chiếm vị trí quan trọng trong các khoa thi.[7] Triều đình cho in lại Ngũ Kinh và các lời bình chú làm sách giáo khoa cho các trường công tại kinh đô cũng như các địa phương. Nhiều Nho sĩ trong thời này đã bình chú kinh điển Trung Quốc bằng chữ Hán và phiên dịch các kinh này ra chữ Nôm. Một số Nho sĩ đã nổi tiếng về Dịch học. Thí dụ như Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 (1491–1587), một Nho sĩ cũng là nhà thơ Nôm, rất nổi tiếng về Kinh Dịch.[8] Lê Quý Đôn 黎貴敦 (1726–1784) – một nhà ngoại giao cũng là Nho gia theo Chu Hi và trứ tác rất nhiều – đã viết một bình chú quan trọng về Kinh Dịch với nhan đề Dịch Kinh Tằng Thuyết 易經層說 (Sự giải thích có lớp lang về Kinh Dịch, 1752). Chịu ảnh hưởng của cái học khảo chứng, từ góc độ văn bản học Lê Quý Đôn đã phê bình Kinh Dịch cùng với các kinh điển Nho giáo khác.

Đời Nguyễn (1802–1945) là một giai đoạn đầy biến động. Nho học đỉnh thịnh vào đầu đời Nguyễn (1802–1885). Triều đình cải thiện khoa cử và đề cao luân lý Nho giáo. Triều đình đã cho xuất bản các bản dịch chữ Nôm của những kinh điển Trung Quốc, trong đó có Kinh Dịch.[9] Các lời bình chú của Chu Hi và Trình Di 程頤 (1033–1107) đã được chấp nhận như những văn bản chính thức để học thi.[10] Các nhà Nho đã bình chú rất nhiều và không ít những bình chú này vẫn hiện tồn. Phạm Quý Thích 范貴適 (1759–1825) đã viết quyển bình chú quan trọng nhan đề Chu Dịch Vấn Giải Toát Yếu 周易問解撮要 (Tóm tắt các câu hỏi và lời giải đáp về Chu Dịch, 1805). Nhữ Bá Sĩ 汝伯士 (1759–1840), một vị quan cao cấp, đã khai triển tư tưởng Nho giáo trong quyển Dịch Hệ Giải Thuyết 易系解說 (Giải thích về hệ thống của Kinh Dịch).

Cuối đời Nguyễn (1886–1945) là một giai đoạn đầy khủng hoảng và cải cách, tác động nhiều đến giới trí thức mới. Dưới ách cai trị của Pháp, Việt Nam đã tiếp nhận một chính sách văn hóa đề cao Tây học, bài xích Hán học. Thẩm quyền của học thuyết Chu Hi đã bị các học giả có tư tưởng cải cách chất vấn.[11] Nguyễn Khuyến 阮勸 (1835–1909), một vị quan kiêm thi nhân, đã bày tỏ nỗi lòng của mình trước sự suy tàn của hệ thống Nho giáo. Trong bài thơ «Độc Dịch» 讀易 (Đọc Kinh Dịch), ông đã viết:
Hải vũ nhược khai tân thế giới, 海 宇 若 開 新 世 界
Dân phong ưng nhập cổ hồng hoang; 民 風 應 入 古 鴻 荒
Thanh thần độc khởi quan Chu Dịch, 清 晨 獨 起 觀 周 易
Tiêu tức doanh hư vị dị tường. 消 息 盈 虛 未 易 詳
(Nếu đời mở khai tân thế giới,
Người ta cũng nên theo nền nếp thuở xa xưa,
Sáng sớm thức dậy, riêng mình ta đọc Dịch,
Hiểu rõ thế sự thay đổi cũng chưa dễ.) [12]

Cuối đời Nguyễn được xem là buổi suy tàn của Nho giáo và Hán học. Các lời bình chú cuối đời Nguyễn cho thấy một mức độ sáng tân và đả phá cựu tục mà điều này khó có thể thấy được trong bất kỳ giai đoạn nào khác trong lịch sử Việt Nam. Bầu không khí trí thức đang biến đổi này có thể thấy trong lĩnh vực Dịch học. Thí dụ, Phan Bội Châu 潘佩珠 (1867–1940) – một nhà cải cách và tiên phong trong các phong trào Tân học và Đông Du – đã nhấn mạnh sự quan trọng của việc áp dụng kinh điển Trung Quốc để phát huy các cải cách hiện đại.[13] Tác phẩm Dịch Học Chú Giải 易學注解 của ông là một nỗ lực theo xu hướng này. Lê Văn Ngữ 黎文敔 (1859–?) đã viết một tác phẩm mới mẻ và đầy tham vọng, nhan đề Chu Dịch Cứu Nguyên 周易究原 (Khảo cứu nguồn gốc Chu Dịch, 1916).

Có thể kết luận về đặc điểm trước tiên dễ nhận thấy nhất của một ngàn năm Dịch học Việt Nam là sự trì trệ kém phát triển. Dịch học chỉ dừng ở mức khai tâm hay nhập môn và Kinh Dịch chưa bao giờ trở thành một kinh điển phổ thông trong giới học giả Việt Nam. Các tác phẩm của Việt Nam viết về Kinh Dịch thì ít ỏi và không có ảnh hưởng gì lắm. Không giống như Dịch học của Nhật và của Triều Tiên, Dịch học Việt Nam đã không phát triển thành các phái nghiên cứu, chẳng hạn như phái khảo chứng, phái tượng số, phái chiêm bốc, hay phái thực hành.

Đặc điểm thứ hai: về cơ bản, Kinh Dịch chỉ được xem như sách học để đi thi. Triều đình bao lần cho tái bản các bản bình chú của Chu Hi và Trình Di cũng để phục vụ cho khoa cử. Hầu hết người ta học Dịch như là một bộ môn trong chương trình học để đi thi.

Đặc điểm thứ ba: học giả Việt Nam chưa đủ lão luyện để khai triển những sự thuyên thích riêng của mình về Kinh Dịch. Họ trung thành với các bản thuyên thích của đời Tống, còn các bản thuyên thích hay bình chú riêng của họ thì rất ít. Mặc dù một số học giả riêng lẻ đã chịu ảnh hưởng của Vương Dương Minh, khảo chứng học, và thực học, nhưng về cơ bản đã không có các trường phái Nho học khác được thành lập tại Việt Nam để ganh đua với Tống Nho của Chu Hi.

Đặc điểm thứ tư: Dịch học vẫn chủ yếu là thực dụng. Các học giả Việt Nam đã không quan tâm đến vấn đề hình nhi thượng và khảo sát văn bản. Đối với hầu hết người Việt Nam, Kinh Dịch vẫn là quyển sách thực hành. Họ học Dịch để đi thi và vận dụng Dịch lý vào mọi việc trong đời sống hàng ngày. Mặc dù không phải là một kinh sách phổ thông và có ảnh hưởng trong giới Nho sĩ Việt Nam, nhưng Kinh Dịch và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của nó đã ăn sâu vào tư tưởng và sự thực hành của người Việt trong các lĩnh vực chính trị, y học, nông nghiệp, lịch pháp, địa lý, tôn giáo, và dân học. Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã khuôn định quan niệm của người Việt về xã hội, chính trị, giao tế, và ngoại giới.[14] Biểu tượng Bát Quái được sử dụng phổ biến như một loại bùa.[15] Hoàng tộc và triều thần sử dụng Ngũ Hành để đặt tên.[16] Văn nhân Việt Nam dùng Kinh Dịch để cổ xúy thơ lục bát.[17] Một số quan lại Việt Nam cho rằng mình có thẩm quyền trong Bói Dịch.[18] Phong thủy – vốn dựa trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành – cũng rất phổ biến trong tư tưởng người Việt.[19]

1268
02-06-12, 11:02
(Tiếp theo)
________________________
[1] Nguyên tựa: Yijing Scholarship in Late-Nguyen Vietnam: A Study of Le Van Ngu's 黎文敔Chu Dich Cuu Nguyen 周易究原(An Investigation of the Origins of the Yijing, 1916).
[2] Chỉ có 13 tác phẩm về Kinh Dịch được liệt kê trong thư mục về các sách cổ do Viện Nghiên Cứu Hán Nôm xuất bản. Hầu hết được là các bản in lại bằng chữ Hán hoặc là các nguyên bản chữ Hán được đem vào Việt Nam. Chỉ có một số ít nhan đề (khoảng 2% của bộ sưu tập) là chú giải của các nhà Nho Việt Nam. Xem: Trần Nghĩa và François Gros (chủ biên), Di sản Hán Nôm Việt Nam: Thư mục đề yếu, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1993, tập I, các trang. 289–291, 591, 707, 769; tập III, tr. 738, 749–750, 761, 946–947.
[3] Trần Ngọc Long 陳玉龍, Hán văn hóa luận cương 漢文化論綱, Bắc Kinh Đại học xuất bản xã (xbx), 1993, tr. 387.
[4] Alexander Barton Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Nguyen and Ch'ing Civil Government in the First Half of the Nineteenth Century (Việt Nam và mô hình Trung Quốc: So sánh hệ thống hành chánh của triều Nguyễn và triều Thanh vào nửa đầu thế kỷ XIX), Cambridge, Harvard University Press, 1971, tr. 189.
[5] Hạ Thánh Đạt 賀聖達, Đông Nam Á văn hóa phát triển sử 東南亞文化發展史(Cultural History of Southeast Asia), Vân Nam Nhân Dân xbx, tr. 155.
[6] Ngô Sĩ Liên 吳士連, Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書(A Complete History of Great Vietnam, comp. 15th century), Tōyōbunka kenyūjō, Tōkyō, 1984, tr.1002.
[7] Fujiwara Riichirō 藤原利一郎(Đằng Nguyên Lợi Nhất Lang), Tōnan Ajia shi no kenkyū 東南アジア史の研究(Đông Nam Á sử nghiên cứu: A Study of Southeast Asian History), Hōzōkan, Kyotō, 1983, tr. 436–435, 460.
[8] Maurice M. Durand và Nguyễn Trần Huân, An Introduction to Vietnamese Literature (Dẫn nhập văn chương Việt Nam), bản dịch Pháp-Anh của D.M. Hawke, New York, Columbia University Press, 1985, tr. 71.
[9] Hạ Thánh Đạt, Đông Nam Á văn hóa phát triển sử 東南亞文化發展史, tr.184.
[10] Alexander Barton Woodside, Sđd., tr. 208.
[11] Về sự thay đổi thái độ của giới trí thức cuối đời Nguyễn, xem: (1) Trần Mỹ Vân, A Vietnamese Scholar in Anguish: Nguyen Khuyen and the Decline of the Confucian Order, 1884-1909 (Một nhà Nho Việt Nam thống khổ: Nguyễn Khuyến và sự suy tàn của hệ thống Nho giáo), Singapore, National University of Singapore Press, 1991; (2) Trần Đình Hượu, «Vitonamu ni okeru Jukyō to Jugaku»ヴィトナムにおける儒教と儒学 (Nho giáo và Nho học tại Việt Nam), in trong: Mizoguchi Yūzō (Câu Khẩu Hùng Tam 溝口雄三), chủ biên, Kanji bunkaken no rekishi to mirai 漢字文化圏の歴史と未来(Lịch sử và tương lai của khu vực theo văn hóa chữ Hán: History and Prospects of the Sphere of Chinese Characters), Tōkyō, Taishūkan shoten, 1992, tr. 79; (3) Oscar Chapuis, The Last Emperors of Vietnam (Vị vua cuối cùng của Việt Nam), London, Greenwood Press, 2000, tr. 94-101.
[12] Trần Mỹ Vân, Sđd., «Phụ lục». (Lê Anh Minh ghi chú: Ngô Vĩ Minh không trích dẫn nguyên văn chữ Hán. Tôi tra lại bài này ở phần phụ lục trong tác phẩm này của Trần Mỹ Vân và chép lại 4 câu như trên).
[13] Về cuộc đời và tư tưởng của họ Phan, xem: Phan Bội Châu, The Autobiography of Phan Boi Chau (Tự truyện Phan Bội Châu), bản dịch Anh ngữ của Vĩnh Sính và Nicholas Wickenden, Honolulu, University of Hawaii Press, 1999.
[14] Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Am hiểu Việt Nam), Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1993, tr. 11-15.
[15] Pham Kim Vinh, The Vietnamese Culture: An Introduction (Dẫn nhập văn hóa Việt Nam), CA.: Solana Beach, The Pham Kim Vinh Research Institute (Viện nghiên cứu Phạm Kim Vinh), 1990, tr. 120.
[16] Trần Ngọc Long, Sđd., tr. 374.
[17] Alexander Barton Woodside, Sđd., tr. 56.
[18] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tr.617–618, 1074–1075. Xem thêm: Fujiwara Riichirō, Sđd., tr. 617, 1074.
[19] Nguyễn Khắc Kham, An Introduction to Vietnamese Culture (Dẫn nhập văn hóa Việt Nam), Tōkyō, Centre for East Asian Cultural Studies (Trung tâm nghiên cứu văn hóa Đông Á), 1967, tr. 41.

1268
04-06-12, 11:50
Tại sao ba nét dương quẻ Càn giao dịch giao dịch với Khôn, thành Chấn, Khảm , Cấn. Ba nét âm quẻ Khôn giao dịch với Càn thành Tốn, Li Đoài. Phải hiểu thế nào?

Tức như: ba nét dương quẻ Càn vẫn là ba nét Dương,

nhưng mượn một nét đầu đổi cho Khôn, thành ra Chấn.
Mượn một nét giữa đổi cho Khôn thành ra Khảm.
Mượn một nét cuối đổi cho Khôn thành ra Cấn.
Đến khi đã biến hết ba nét rồi , thời quẻ Càn thành quẻ Khôn. Khi đã biến ra Khôn rồi, thì Khôn thành bất dịch.

Lại như: con tằm hóa ra bướm. Thế là biến dịch, mà đến khi bướm đẻ ra trứng, trứng nở ra tằm. Thế là do biến dịch, mà hoàn lại bất dịch.

Giải nghĩa chữ Dịch như thế cũng lược lược hiểu qua.

1268
06-06-12, 11:56
HÀ ĐỒ - LẠC THƯ

Khổng An Quốc nói rằng: “ Hà đồ là khi họ Phục Hy làm vua thiên hạ, có con long mã hiện ở sông Hà, Vua ấy bèn bắt chước các vằn của nó để vạch ra tám quẻ. Lạc thư là khi vua Vũ chữa được nước lụt, có con rùa thần đội vằn, trên lưng có số tới chín, vua Vũ bèn nhân đó mà xếp thứ tự thành ra chín loài”.

I- Hà Đồ


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/06/11/25/13389567231531356536_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/1268hoang/apps/photo/album/photo-detail/id/1438712264)

Hệ từ truyện nói : “ Sông hà hiện đồ , sông lạc hiện thư , thánh nhân bắt chước các thứ đó ’’. Lại nói “ Trời một đất hai, trời ba đất bốn, trời năm đất sáu, trời bảy đất tám, trời chín đất mười, số của trời là năm, số của đất là năm ’’. Ngôi ‘ năm’ tương đắc với nhau mà số nào lại có sự hội hợp của số ấy, thì số của trời là hai mươi nhăm, số của đất là ba mươi. Cộng cả số của trời đất là năm mươi nhăm. Đó là cái để làm nên sự biến hóa mà thông hành với quỷ thần. Ấy là số của Hà Đồ.

Trong khoảng trời đất, chỉ có một vật là khí chia ra làm hai, thì là âm, dương, năm hành gây dựng, muôn vật trước sau, đều bị cai quản ở đó. Cho nên ngôi của Hà đồ: Một và sáu cùng tông mà ở về Bắc, hai và bảy làm bạn mà ở về Nam, ba và tám đồng đạo mà ở về Đông, bốn với chín thành lứa mà ở về Tây, năm và mười giữ lẫn nhau mà ở chính giữa. Nghĩa là cái số của nó, chăng qua chỉ có một âm, một dương, một lẻ, một chẵn, để làm gấp đôi năm hành mà thôi.

Gọi là trời, tức là khí dương nhẹ trong, ngôi ở bên trên; gọi là đất, tức là khí âm nặng đục, ngôi ở phía dưới. Số dương lẻ, cho nên một, ba, năm, bảy, chín, đều thuộc về trời: Đó là số của trời có năm.

Số âm chẵn, cho nên hai, bốn, sáu, tám, mười, đều thuộc về đất, đó là số của đất có năm. Số của trời và số của đất, đàng nào theo loại đàng ấy, mà cùng tìm nhau. Ngôi “ Năm” tương đắc với nhau là thế.

Trời lấy số một mà sinh hành Thủy, đất lấy số sáu mà làm cho thành.
Đất lấy số hai mà sinh hành Hỏa, trời lấy số bảy mà làm cho thành.
Trời lấy số ba mà sinh hành Mộc, đất lấy số tám mà làm cho thành.
Đất lấy số bốn mà sinh hành Kim, trời lấy số chín mà làm cho thành.
Trời lấy số năm mà sinh hành Thổ, đất lấy số mười mà làm cho thành.

“ Đó là các số đều có sự hợp nhau vậy .”

1268
08-06-12, 14:27
II- Lạc Thư

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/08/13/56/133913860448184341_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/1268hoang/apps/photo/album/photo-detail/id/1440651431)

Lạc Thư thì theo ở hình tượng của con rùa, nên số của nó: đội bằng chín, dẫm lên một, phía tả ba, phía hữu bảy, hai và bốn là vai, sáu và tám là chân. Sái Nguyên Định nói rằng: Tượng của Hà đồ, Lạc thư từ Khổng An Quốc, Lưu Hậm nhà Hán, Quan Lãng nhà Ngụy, Khang Tiết Thiệu tiên sinh nhà Tống, đều bảo như thế. Đến Lưu Mục mới đòi cả hai tên, rồi thì các nhà nhân theo kiểu đó. Cho nên nay khôi phục lại, hết thảy theo như cũ.

Các số lúc đầu, chỉ có một âm một dương mà thôi. Tượng của Dương tròn thì đường kính một phần chu vi ba phần; tượng của Âm vuông, vuông thì đường kính một phần, chu vi bốn phần. Chu vi ba phần thì lấy số một làm “một”, cho nên nhân với một Dương mà thành ra ba. Chu vi bốn phần thì lấy số hai làm”một” cho nên nhân với Âm mà thành ra hai. Đó là nhân ba với trời nhân hai với đất vậy. Hai và ba hợp lại, thì thành ra Năm, vì vậy Hà đồ Lạc thư dều lấy số năm làm giữa.

Lạc thư thì lấy số lẻ làm chủ, cho nên ở giữa phải năm, cho đủ các tượng của năm số lẻ: Một chấm ở dưới cũng tượng số một của trời, một chấm phía tả cũng tượng số ba của trời, một chấm chính giữa cũng tượng số năm của trời, một chấm phía hữu là tượng số bảy của trời, một chấm phía trên thì tượng số chín của trời. Lạc thư chủ về biến đổi, nên nó cùng cực đến số chín mà ngôi vị ở trong là chủ mà ở ngoài là khách, ở giữa là vua, mà ở cạnh là tôi, đều có ngành ngọn, không thể trái lẫn

. Thứ tự của Lạc thư thì số Dương bắt đầu từ Bắc đến Đông, đến Giữa, đến Tây, đến Nam; số Âm bắt đầu từ Tây Nam, đến Đông Nam, đến Tây Bắc, đến Đông Bắc; hợp lại mà nói thì bắt đầu từ Bắc đến Tây Nam . đến Đông, đến Đông Bắc. cuối cùng ở Nam. Còn sự vận hành của nó thì Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, theo phía hữu mà quay một vòng, rồi Thổ lại khắc Thủy.
Lạc thư ngang dọc mười lăm mà bảy, tám, chín, sáu, đắp đổi tiêu lớn , bỏ trống số năm, chia sẻ số mười, mà số một ngậm số chín, số hai ngậm số tám, số ba ngậm số bảy, số bốn ngậm số sáu, thì năm, ba lộn góp, tới đâu cũng gặp số hợp vì vậy mà sự biến hóa vô cùng mới thành ra sự màu nhiệm.

Thực tượng của Lạc thư : Thì một là Ngũ hành, hai là Ngũ tự, ba là Bát chính, bốn là Ngũ kỷ, năm là Hoàng cực, sáu là Tam đức, bảy là Kê nghi, tám là Thứ trưng, chín là Phúc cực. Ngôi và số của nó càng rõ rệt lắm.Tượng của nó là trống rỗng vậy, cho nên mới nói:

Thái cực tách ra, mới sinh một lẻ một chẵn; thành ra hái cái vạch ấy là hai nghi, số của nó thì Âm một mà Dương hai, ở Hà đồ Lạc thư là chẵn với lẻ. Phía trên hai nghi, mỗi đàng lại sinh thêm ra một chẵn và một lẻ nữa, thành ra bốn cái hai vạch ấy là bốn tượng, ngôi của nó là : Thái Dương một, Thiếu Âm hai, Thiếu Dương ba, Thái Âm bốn; số của nó thì : Thái Dương chín, Thiếu Âm tám, Thiếu Dương bảy, Thái Âm sáu