PDA

View Full Version : Nhân Tướng Học Thực Hành.



DangHuyAnh
10-05-13, 11:03
CLB Nhân Tướng Học Thực Hành
Sinh hoạt thường xuyên vào lúc 10h30 sáng thứ 7 hàng tuần.
Chủ nhiệm: Mr Thái Hòa, Mr Huy Đức.
Hướng dẫn: DangHuyAnh

Phương pháp tiếp cận: Thông qua câu chuyện để nghiệm chứng.

Mở đầu.
Còn nhớ đầu năm nay, vào những ngày Tết âm lịch, từ mùng 2 đến mùng 10 tết, ngồi trong quán cafe từ 7h sáng đến 5h chiều khi nắng đã tắt, chỉ làm một việc: xem tướng cho khách theo lịch và cả khách phát sinh trong quán.
Mỗi ngày tiếp hơn 20 người, không kịp ăn, chỉ uống cafe. Người xem, người chờ lộn xộn cả một góc quán. Bản thân thấy không ổn, nhưng tâm niệm: mỗi cuộc gặp gỡ là một mối duyên. Thế nên không dám từ chối ai.
Hơn một tuần miệt mài xem, xem và xem, đầu căng cứng, mặt thì “đơ đơ như cây cơ”, ra đường không dám nhìn mặt ai vì cứ nhìn là lại luận tướng pháp, đầu lại căng lên để đong đếm, cân đo, gia giảm âm dương, ngũ hành hình tướng, khí sắc, căng thẳng đến buồn nôn.
Đúng ít sai nhiều, khách ưng cũng nhiều mà người ghét cũng không ít.
Hết tết, mọi người từ quê vào, học trò vào đi làm, đi học cũng ghé qua thăm thầy. Một trong những học trò đến thăm vừa gặp mặt liền nói: “Thầy sắp có kiện tụng gì à?”
Giật mình lấy gương nhìn lại mặt mình, phúc- mệnh- tật nổi đỏ kéo thẳng quan cung, lẩm nhẩm bấm quẻ thì ra
Phục – Minh Di
Tượng bị giam cầm chứ không phải kiện tụng. Nhìn kỹ lại thì thấy sắc đỏ vẫn chưa nhiều, điều chỉnh vẫn được.
Thôi đành thuận thời mà hành xử, khách gọi thì từ chối, cửa phòng dán kín để ánh sáng ít lọt vào, máy lạnh bật lên, ngồi nhà mà lướt FB, huyền không lý số.
Thế cũng là tự giam mình mà qua nạn.
Ngồi nhà 2 tuần liền, nhìn sắc đỏ chỉ giảm đôi chút. Kế tự giam mình không phát huy nhiều tác dụng, vì thế quyết định quay những hướng khác để kích hoạt duyên mới mà xóa hạn công việc này. Xin vào một công việc vô thưởng vô phạt: Môi Giới Nhà Đất.
Ngỡ rằng công việc mới sẽ chả dính dáng gì đến môn tướng pháp, nhưng cái nghiệp nó vây vào người, dùng tướng mà làm trò vui.
**********************************
Để tiện các bạn theo dõi những câu chuyện, nghiệm chứng của những buổi họp CLB Nhân tướng học- có thực hành, mình xin giới thiệu lý thuyết tướng pháp căn bản.
Đầu tiên:
*Mười hai cung trong tướng pháp:
1. Mệnh cung: ấn đường. Vị trí giữa hai đầu chân mày. Chân mày càng xa, cung mệnh càng rộng. Mệnh cung là nơi thể hiện toàn bộ những gì thuộc về tâm tính, tinh thần, khát vọng của thân chủ.
2. Quan lộc cung: thiên trung, thiên đình, tư không, trung chính. Mệnh cung kéo thẳng đỉnh trán là quan lộc cung. Quan lộc cung là nơi thể hiện công việc, học hành thi cử.
3. Tật ách cung: bao gồm sơn căn, niên thượng, thọ thượng. Vị trí là sống mũi.Tật ách cung khái quát về sức khỏe bệnh tật.
4. Tài bạch cung: toàn bộ mũi là tài bạch cung, khi xem thì thường chỉ xem đầu mũi và hai cánh mũi.
5. Nô bộc cung: địa cát, vị trí lấy khu vực từ hai khóe miệng kéo thẳng xuống cằm.
6. Phúc đức cung: vi trí là khu vực từ đầu chân mày đến giửa chân mày kéo thẳng lên mép tóc, lấy cả hai bên.
7. Phụ mẫu cung: vị trí là khu vực giữa chân mày đến đuôi chân mày kéo thẳng lên mép tóc.
8. Thiên di cung: từ đuôi chân mày kéo lên mép tóc.
9. Điền trạch cung: khoảng cách từ chân mày đến mí mắt
10. Phu thê cung: từ đuôi mắt đến hết thái dương.
11. Tử tức cung: phần dưới mắt đến quyền cốt.
12. Huynh đệ cung: hai chân mày
P/s: Thiếu nợ anh chị em phần hình ảnh minh họa. Khi nào có điều kiện sẽ up sau.
Thân mến !

huyducit
10-05-13, 17:48
Tên của 12 cung trong nhân tướng học rất giống với 12 cung trong tử vi. Nếu cầm lá số tử vi trên tay, Cung được nhìn đầu tiên là cung mệnh. Cung mệnh xấu, miễn bàn. Nhưng trong Nhân Tướng học thì sao ? Vậy chúng ta hãy cùng nhau bắt đầu từ cung thứ nhất: Mệnh cung.

Vì sao gọi là Mệnh ? Nếu Tính Cách của con người được hình thành một phần nào đó từ hành vi, thói quen được thể hiện ra bên ngoài, thì Mệnh được hình thành từ khi thọ thai trong bụng mẹ, ngày giờ sinh ra cũng chỉ là kết quả của một quá trình, mà Tử Vi, Tử Bình đều dựa vào đó để xác định Âm Dương, Ngũ Hành, an Sao . . .Hay nói cách khác là Con người đã hấp thu khí của vũ trụ ( Theo Phật Giáo, con người sinh ra do nghiệp lực của quá khứ !) mà hình thành. Thì Mệnh được ẩn bên trong thể hiện qua cả một quá trình lâu dài, chỉ biểu lộ một phần qua hình hài, tính cách, hành vi. . .

Trong Nhân Tướng học, Mệnh cung rất quan trọng trong 12 bộ vị, Ngoài Thần, Thanh, Sắc, Khí, Hình thì Mệnh cung sẽ được xem xét đầu tiên.

Vì Sao lại như vậy ? Mời các bạn xem tiếp các phần tiếp theo của Huy Anh nhé !


Huy Đức

DangHuyAnh
11-05-13, 22:38
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/00/781486197_349453148_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781486197)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG MỆNH

Đặc tính bộ phận: Cung Mệnh (Ấn đường) có ý nghĩa như là điểm căn cứ để dự đoán những thuận lợi, thành công cũng như những trắc trở, khó khăn của con người, nó giúp chúng ta nhận biết được ước nguyện của bản thân có khả năng trở thành hiện thực hay không. Cuộc đời của con người có thể chia thành 3 loại “làm ít hưởng nhiều” (hưởng lộc) và “làm nhiều hưởng ít” hay “làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu”. Những người cùng cha mẹ sinh ra, cùng sống trong một môi trường xã hội như nhau, nhưng tại sao số mệnh và vận may của họ lại hoàn toàn khác nhau? Chỉ cần quan sát tướng lý Mệnh môn, chúng ta có thể dự đoán được cuộc sống trong quá khứ cũng như trong tương lai của con người, bởi vì Mệnh môn chính là “công tắc nguồn” của hệ thống tư duy (tổ chức não), là cửa sổ để chúng ta thấy được trí tuệ, cá tính, tâm hồn và ý thức, cho thấy được 7 trạng thái tâm lý: hỉ - vui, nộ - giận, ai - đau buồn, mạn - lạnh nhạt, ái - yêu thương, ác - oán hận, dục - mong muốn và Lục dục như Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tất cả những thứ đó quy tụ và thể hiện trên Ấn đường, đồng thời, Ấn đường cũng là cửa ngõ để con người ta tiếp thu tri thức, tiếp nhận các thông tin về con người và sự vật từ thế giới bên ngoài. Tất cả những người có tướng lý Mệnh môn tốt đều có khả năng điều tiết được 7 trạng thái tâm lý và 6 ham muốn (Lục dục) trên. Trong học tập, người có tướng Mệnh môn tốt thường là người học ít hiểu nhiều, còn khi tiếp nhận các thông tin họ lại có thể thấy một biết mười. Trong cuộc sống, những người có tướng lý này cũng gặp nhiều thuận lợi hơn là khó khăn trắc trở, làm ít hưởng nhiều. Ngược lại, những người có tướng lý Mệnh môn xấu thường khó kiềm chế hoặc không điều tiết được 7 trạng thái tâm lý thường gặp kể trên, trong học tập, họ học nhiều nhưng tiếp thu được ít, khi tiếp nhận các thông tin, họ chỉ tiếp thu thông tin đó một cách đơn thuần, do đó, khó khăn đến với họ nhiều hơn thành công và thuận lợi. Người xưa coi Mệnh môn là đầu não của 12 cung. Như vậy, chúng ta đủ thấy được Mệnh môn quan trọng như thế nào trong 12 cung.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Mệnh môn rộng, bằng phẳng, không có vân xấu, không có sẹo hoặc nốt ruồi được coi là Mệnh môn có tướng lý tốt. Người có tướng Mệnh môn tốt là người có gen di truyền tốt, tổ chức não bộ và hệ thống hô hấp phát triển tốt, trong cuộc đời, họ hiếm khi gặp hoạn nạn, sức khỏe dồi dào, có cuộc sống tinh thần cân bằng, trí lực tốt, có ý chí và thể lực kiên cường, dù tham gia hoạt động chính trị hay làm ăn buôn bán họ luôn giữ được mối quan hệ gia đình và quan hệ xã giao thân thiết. Nếu khí sắc của Mệnh môn sáng rõ như gương thì chủ nhân sẽ gặp nhiều thuận lợi, sức khỏe và tinh thần ổn định. Ngược lại, Mệnh môn khuyết lõm, hẹp (hai đầu lông mày cách nhau dưới 2 phân) hoặc có vân xấu, sẹo hay nốt ruồi là Mệnh môn không đạt chuẩn, điều đó cho thấy chủ nhân là người có gen di truyền không tốt, sức khỏe, trí lực và tính tình đều có điểm yếu nhất định. Đặc biệt, những người có tướng lý Mệnh môn xấu thường là những người hay do dự, lo âu, căng thẳng, nhạy cảm, nôn nóng, ngang ngạnh, dễ cáu giận, hay oán hận,... Những nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, tuổi thọ, sự nghiệp và hôn nhân của họ (Chú giải: Đặc biệt là những người có nốt ruồi to, vân sâu hoặc hai đầu lông mày giao nhau thì cuộc đời của họ càng nhiều trắc trở hơn). Những người có vân Huyền châm càng dễ gặp gian nan trắc trở, cả đời sự nghiệp thành bại thất thường, thành công lắm mà thất bại cũng nhiều. Nếu cạnh Ấn đường có nốt ruồi Lao ngục thì trong cuộc đời, chủ nhân ít nhất phải vào tù một lần. Nếu khí sắc Mệnh môn u tối, dù tham gia quan trường hay thương trường, chủ nhân cũng gặp nhiều khó khăn, trắc trở, do đó cần nhẫn nại và chú ý giữ gìn sức khỏe. Nếu Mệnh môn có sắc đen, chủ nhân cần đề phòng tai nạn giao thông; nếu Mệnh môn có màu xám xịt, chủ nhân cần đề phòng miệng lưỡi thị phi, nghiêm trọng hơn có thể điều tiếng sẽ dẫn tới tù ngục (Chú giải: Nhân tướng học không tách rời tướng lý của các phần khác, khi xem tướng Mệnh môn, cần kết hợp với tướng lý của các bộ phận khác).
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
12-05-13, 13:08
Ấn đường rộng là Mệnh Cung tốt?

Cuối năm rồi có khách quen dẫn bạn đến xem.

Cô gái xuất hiện là thấy ngay ấn đường rộng, trán trung bình, khuôn mặt khả ái, quyền tròn không cao kéo lên thái dương, mắt xa nhau. Thân hình cao, mông tròn ngang bằng vai, ngực vị trí cao tròn cân xứng ít nảy nở. Da trắng, thoáng nhìn hơi xanh, xem kỹ thì trắng sáng mịn màng. Cổ cao, vai hơi xuôi, nhìn yểu điệu.
Khi cô gái ngồi vào bàn, làm thủ tục đầu tiên (không phải là đặt tiền quẻ đâu nhé) hỏi han ngày tháng năm giờ sinh, tên họ.
Tuổi 19, giọng phương bắc, sắc khí phụ mẫu chạy rõ cuộn tròn xoắn, cả cung bố và mẹ đều có, mẹ nhiều sắc và loạn hơn bố. Di cung động rõ ràng kéo từ phu thê cung lên cung phụ mẫu phần bố. Tử tức cung (bên phần con trai) có vết, mỏng mờ nhấp nháy gần tắt. Tật cung mịn, mũi cao nhưng khí hơi trệ.
Tới đây chắc anh chị em cũng đoán được ít nhiều việc đã qua và tương lai sắp tới của cô gái này ra sao rồi.
Câu chuyện tiếp tục:
- Mẹ bạn đang bệnh hay đang lo lắng gì sao?
- Dạ mẹ em sức khỏe bình thường thậm chí còn khỏe hơn ngày trước, không lo lắng gì có khi lại còn bình an hơn.
- Ồ, vậy thì hơi lạ. Bạn sắp di chuyển về phương bắc và đến gần bố bạn, vậy bố mẹ bạn ở xa nhau à?
- Dạ đúng rồi. Em về bắc ăn tết một tháng rồi vào lại.
- Chuyện này hơi tế nhị, nhưng mình hỏi là bạn mới phá thai phải không? Nếu đúng thì là con trai.
Cô gái gật đầu và bắt đầu khóc.
- Mẹ bạn trai em đi xem thầy ngoài đó cũng nói là con trai. Hôm nay em đến cũng để hỏi về việc này.

Nói chuyện một lúc thì biết mẹ cô ấy cách đó 6 tháng bị phá sản phải chạy vào nam, bố ở lại bắc, cô ấy đi theo mẹ nên phá thai, nhưng người bạn trai quyết tâm theo vào cùng, kiên trì thuyết phục cô về bắc làm lại. Đến mình hỏi có về lại ngoài đó lập gia đình và làm ăn không.


Phân tích hình tướng:
Người cao da hơi xanh thuộc mộc chất chính cách, xem kỹ thì kim hình.
Mông tròn ngang bằng vai , ngực vị trí cao tròn cân xứng ít nảy nở là quý tướng.
Khuôn mặt khả ái, quyền tròn kéo thẳng thái dương, ấn đường rộng, mắt xa nhau. Đây là điểm hình tướng không ổn nhất của cô gái. Ấn đường rộng thì dễ thông suốt, mắt xa nhau thì dễ yêu, quyền tròn kéo thẳng thái dương khuôn mặt khả ái thì đào hoa ham tình.
Kết luận sơ bộ:
Sinh ra trong sung sướng, nếu lấy chồng sớm trung vận phát mạnh, qua hậu vận an nhàn. Đáng tiếc, chưa chồng mà để có con, lấy luôn thì ổn, phá bỏ thì rơi vào thế thanh khí hóa hàn. Rơi vào thế này cũng là do ấn đường quá rộng, mắt xa, quyền tròn mà đào hoa.

Qua câu chuyện này ta thấy mệnh cung mà lấy ấn đường không thì chưa thật ổn, vả chăng cần thông suốt cả các bộ vị trong tâm khuôn mặt như: ấn đường, sơn căn, hai mắt và quyền cốt để đoán Mệnh Cung.

DangHuyAnh
12-05-13, 15:54
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/01/781486907_1596105230_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781486907)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG QUAN LỘC

Đặc tính bộ phận: Cung Quan lộc là phần nằm ở giữa trán, từ Thiên trung trở xuống Ấn đường, tượng trưng cho sự phát triển của não. Cung Quan lộc dài, thể hiện não bộ phát triển tốt. Người có tướng này có khả năng học tập, khả năng tư duy, khả năng ghi nhớ, khả năng sáng tạo, khả năng nhận biết, khả năng phán đoán và ứng phó cũng rất tốt. Họ có lòng tự trọng cao, sống nhân từ, có tài giao tiếp, vì thế trong cuộc đời họ cũng gặp nhiều may mắn trong sự nghiệp, nếu làm kinh doanh, họ sẽ khá phát tài.

Cung Quan lộc là tên gọi được bắt nguồn từ thời phong kiến, trong xã hội hiện đại ngày nay, dù trong bất kỳ lĩnh vực nào đều có những người đứng đầu, có năng lực vượt trội hơn những người khác, do đó cung Quan lộc không hạn chế trong phạm vi chỉ con đường quan lộc. Cái tên Quan lộc không bao quát được ý nghĩa thực tế của nó, vì vậy, nên gọi nó với cái tên hợp lý hơn: Cung Sự nghiệp!

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Nhìn chính diện, người có tướng lý cung Quan lộc tốt thì cả 4 phía của trán đều cao, đầy và bằng phẳng. Nhìn nghiêng, những người có tướng Quan lộc tốt là người có trán đầy đặn, hơi cao, không có nốt ruồi hoặc nếp nhăn. Trong cuộc sống, người có tướng Quan lộc phù hợp tiêu chuẩn thường dễ đạt được danh lợi, đặc biệt họ thường được quý nhân hoặc cấp trên giúp đỡ, cả đời không phải dính dáng đến chuyện không hay nơi công đường, nếu có thì sớm muộn họ cũng sớm được giải thoát. Ngược lại, những người có phần giữa trán lồi lên, lệch sang bên trái hoặc bên phải, có sẹo hoặc nốt ruồi là tướng Quan lộc không hợp chuẩn. Người có tướng này dù được nhiều người giúp đỡ và rất nỗ lực phấn đấu song họ khó đạt được danh lợi phú quý. Họ là những người có tài song không gặp thời, gặp nhiều trắc trở khó khăn trong sự nghiệp, vất vả nhưng khó thành. Rất nhiều người không tin vào tướng số, song nếu xét vận hạn về đường quan lộc trên cơ sở cung Quan lộc, họ có thể thấy được độ chính xác của các thuyết dự đoán trên cơ sở Nhân tướng học. Chỉ những người có cung Quan lộc đẹp, họ mới có được sức khỏe, trí tuệ tốt và có tâm hồn đẹp. Nữ giới có trán quá cao và rộng cá tính thường mạnh mẽ như nam giới, trong công việc họ thường khá thông minh, sáng suốt, có lòng tự trọng và có trách nhiệm với công việc. Nữ giới trán cao và rộng nên kết hôn sau 30 tuổi, hoặc kết hôn với người có trán cao và rộng hơn, nêu không, cuộc sống hôn nhân sẽ khó được như ý muốn, không chia tay cũng dễ tử biệt.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 13:58
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/01/781487224_130845816_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781487224)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG TẬT ÁCH

Đặc tính bộ phận: Cung Tật ách bao gồm 3 phần Sơn căn, Niên thượng và Thọ thượng. Muốn biết sức khỏe và tuổi thọ của con người, người ta thường xem cung Tật ách, đây cũng là cơ sở để chúng ta dự đoán được miễn dịch của mỗi người đối với những bệnh chưa phát sinh và sức đề kháng đối với những bệnh đã mắc phải. Ngoài ra, dựa vào cung Tật ách, người ta có thể đoán biết được tinh thần đối phó với những diễn biến bất ngờ chưa tới và phản ứng trước những diễn biến phức tạp đã xảy ra của con người. Sách tướng thuật cổ gọi cung Tật ách là cung Sức khỏe, bởi vì Sơn căn trên cung Tật ách có mối liên quan đặc biệt với tim mạch và hệ thống tuần hoàn, hệ bài tiết và nội tạng của con người. Sơn căn và Niên thọ chính là vùng phản ánh thần kinh của hệ tiêu hóa. Sống mũi có mối liên quan mật thiết tới hệ thống cột sống, chính vì vậy, người xưa đã gọi Sơn căn, Niên thượng và Thọ thượng là cung Tật ách.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điểm may rủi: Sống mũi cao và thẳng, khí sắc sáng bóng, không có vân xấu hoặc nốt ruồi, không bị lệch, lồi lên hoặc lõm xuống, Sơn căn không bị gãy hoặc lõm thấp, tất cả các yếu tố nêu trên đều được coi là cung Tật ách tiêu chuẩn. Người có tướng lý cung Tật ách hợp chuẩn thường là người cả đời mạnh khỏe, hiếm khi bị bệnh, có khả năng ứng phó trước mọi diễn biến không tốt về mặt sức khỏe. Ngược lại, những người có Sơn căn thấp, khuyết, sống mũi sụp thấp không có thần thế, chủ về thiếu sức khỏe, không có ý chí kiên cường, tính tình ngang bướng, lập dị, thiếu nhẫn nại, thường thay đổi mục tiêu trong sự nghiệp hoặc vị trí công việc, cả đời sự nghiệp ít thành. Nếu phần giữa Sơn căn và Niên thượng có nốt ruồi, hoặc giữa Sơn căn với Niên thọ lõm khuyết hoặc có sẹo, chủ nhân cần chú ý đề phòng tai nạn xe cộ, không nên điều khiển những loại xe có tốc độ lớn, đặc biệt những người có Sơn căn khuyết lõm, do khả năng ứng biến thấp nên cần đặc biệt giữ gìn. Nếu hai bên Sơn căn có nốt ruồi, chủ nhân thường bị bệnh đường tiêu hóa. Nếu trên Niên thọ và hai bên có nốt ruồi thì chủ nhân thường mắc các bệnh về hệ bài tiết, gan tạng. Nếu dưới Ấn đường, trên Sơn căn, phần sát với mắt có nốt ruồi thì chủ nhân thường mắc các bệnh về tuần hoàn như bệnh tim mạch. Nếu vân Huyền châm của Ấn đường kéo xuông Sơn căn và Niên thọ thì trong cuộc sống chủ nhân khó tránh được tai nạn bất ngờ, người không có vân Âm chất, dễ bị tử nạn. Người có vân ngang ở Sơn căn thường là người thất bại trong tình yêu và sự nghiệp. Người có vân dọc ở Sơn căn số phải nuôi con người khác. Người có Niên thọ nhô cao hoặc có dạng xương nối đốt nhau, trong đời sẽ gặp ít nhất một thất bại lớn, họ cũng là người tính tình quật cường nhưng ngang ngạnh. Nếu khí sắc của Niên thượng tối mờ, kéo đến Sơn căn, trong nhà chủ nhân thường có người ốm lâu.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:49
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/01/781487451_1900063678_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781487451)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG TÀI BẠCH (CUNG TIỀN TÀI)

Đặc tính bộ phận: Tài miên cung là cách gọi thông thường của cung Tiền tài trong các sách tướng số. Chuẩn đầu trên mũi thuộc Tài miên cung. Tuy vậy, Thiên thương và Địa khố cũng có mối quan hệ đặc biệt với Tài miên. Thiên thương giúp chúng ta dự đoán được gen di truyền thời ông cha của chủ nhân, còn Địa khố giúp chúng ta nhận biết được tương lai, con cái của chủ nhân. Trước đây từng có rất nhiều sách liệt Thiên thương và Địa khố vào phạm vi của Tài miên cung, nhưng nếu xét nhân tố có ảnh hương nhiều đến tiền tài trong cuộc đời con người thì phải kể đến đôi mắt. Bởi vì mắt chính là “Duyên của tiền tài”, một người mà không có duyên tiền tài (tướng mắt không tốt) thì dù có quản lý tài chính tốt đến thế nào, tiết kiệm ra sao thì tốt lắm cũng chỉ được tiểu phú. Nếu “duyên tiền tài” to rộng, dài và sâu (tướng mắt đẹp), lại biết cách quản lý tiền bạc thì dù họ không tiết kiệm, hà tiện thì số vẫn được đại phú. Tại sao người xưa lại coi Chuẩn đầu là cung Tiền tài? Chân lý đó được rút ra từ đâu? Đáp án cho câu hỏi này là: Mũi thuộc Thổ tinh, có đất là có tiền tài. Nếu mũi cao và đầy đặn thì Thổ (đất) sẽ phì nhiêu màu mỡ, như vậy ắt sẽ sinh được nhiều tiền tài. Theo cơ sở của sinh lý học và y học chúng ta cũng thấy, hai bên Chuẩn đầu của mũi cũng có mối liên quan đặc biệt với hệ tiêu hóa và hệ sinh dục của mỗi người (tham khảo hình minh họa về Ngũ hành ở sau sách), nếu hệ tiêu hóa và hệ sinh dục phát triển tốt, không có khiếm khuyết nào, chức năng của chúng hoàn toàn bình thường, xét về chức năng sinh lý, “hệ thống Thổ (đất) không thể áp chế được hệ thống Thủy (nước), mà hệ thống Thủy lại càng làm cho Thổ thêm xanh tươi màu mỡ”, từ đó nó cũng tạo ra những ảnh hưởng nhất định tới tính cách của chủ nhân. Những người có hai bên Chuẩn đầu tốt thì tính tình cũng ôn hòa, ổn định, không nôn nóng, làm việc có kế hoạch, do đó họ cũng có đủ sáng suốt và bình tĩnh để quản lý tài chính tốt hơn. Ngược lại, những người có tướng Chuẩn đầu không tốt, tức là hệ tiêu hóa và hệ sinh dục của họ cũng có những khiếm khuyết nhất định, chức năng tiêu hóa và sinh sản có hạn, do đó cũng có ảnh hưởng nhất định đến tính cách của họ. Tương tự, trong việc quản lý tài chính, do là người nôn nóng, hay làm việc theo hứng thú nhất thời nên thường chi tiêu khó kiểm soát. Không chỉ hành động và phát ngôn theo hứng thú nhất thời mà trong công việc và sự nghiệp, những chủ nhân thường đầu tư theo hứng, vì thế họ dễ thất bại, hoặc dễ rủi ro. Cho nên, một người nếu có tướng Chuẩn đầu và Tị dực (cánh mũi) không tốt thì sẽ khó tụ tài tụ lộc. Điều đó chính là câu trả lời vì sao người xưa quy Chuẩn đầu và Tị dực vào cung tiền tài.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Mũi nếu suôn cao đầy đặn, thẳng, không lệch, Chuẩn đầu tròn trịa, lỗ mũi hướng lên mà không thu về, tướng của hai phần bên Chuẩn đầu là Gián đài đình úy và hai quyền (má) tốt được coi là Tài bạch tốt, các bậc hiền triết gọi đó là “tài tinh đắc địa” (sao tài lộc được đất), chủ nhân có tướng Tài bạch tốt là người biết quản lý tài chính, có khả năng làm chủ được tiền tài, tiền tài càng ngày càng tụ về. Nếu tướng hai mắt tốt, chủ nhân sẽ được đại phú. Ngược lại, người có tướng mũi lệch, ngắn và nhỏ, gày và lộ xương, gẫy, hai cánh mũi hẹp, lỗ mũi hếch lên (loại trừ những người hình Mộc và Ngũ lộ cách), sống mũi và cánh mũi có vết sẹo hoặc nốt ruồi, hai quyền thấp bằng phẳng, không phục và không có thế thì cả đời tiền tài không như ý, ít thành công, thậm chí có cơ hội cũng khó nắm bắt. Cũng do không có tài quản lý tài chính và làm chủ nên cuối cùng tiền tài đến rồi lại đi. Khí sắc của Tài bạch cung đóng vai trò rất quan trọng, nếu khí sắc của Tài bạch cung không tốt thì dù chủ nhân là người có tài quản lý tài chính cũng chẩng tụ được tài mà còn bị hao tài tốn của.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:50
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/02/781487574_2027077294_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781487574)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG NÔ BỘC

Đặc tính bộ phận: Cung Nô bộc bao gồm các bộ phận ở hàm dưới như Địa các, Địa khố, và phần hàm dưới má. Cung Nô bộc thể hiện vận mệnh của con người khi về già và mối quan hệ với con cái của chủ nhân, người xưa gọi cung này là cung Thống ngự hoặc cung Quản lý. Địa các và Địa khố liên quan mật thiết với hệ nội tiết và các hệ thống vùng Hạ nguyên, còn phần dưới quai hàm lại có mối quan hệ chặt chẽ với hệ tiêu hóa và hệ thống chi dưới.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Địa các và Địa khố có thần thế, quai hàm đầy đặn, đoan chính, cả phần hàm dưới má không bị khuyết lõm được coi là tướng tốt. Người có tướng lý cung Nô bộc tốt thường là người có ý chí kiên quyết, trí tuệ siêu thường, họ cũng là những người quả quyết anh minh trong việc đối nhân xử thế cũng như trong công việc, là người công bằng, thưởng phạt phân minh trong việc giáo dục con cái. Chính vì những nét tính cách này, người có cung Nô bộc tốt thường rất biết cách dùng người, có khả năng quản lý, đạo đức và phẩm chất của họ đủ để thuyết phục mọi người. Người có tướng lý Nô bộc tốt cũng là những người được cấp dưới và người đời sau nể phục, con cái thảo hiền, về già họ sống khá mạnh khỏe, đầu óc minh mẫn, sự nghiệp ngày càng thuận lợi, ăn mặc dư dả, cuộc sống gia đình và cuộc sống hôn nhân mỹ mãn như ý. Người có Địa các nhô nhọn, lệch, có vân, sẹo, Địa các thu về phía sau, hoặc đua về phía trước, quá dài hoặc quá ngắn, Địa khố và hàm dưới lõm, lệch hoặc có vết sẹo thuộc tướng Nô bộc xấu. Người có tướng Nô bộc xấu là người thiếu ý chí, không quyết đoán, trí lực không tốt, tính tình ngang bướng, không lương thiện, chức năng của não không bình thường, cuộc sống gia đình và tình duyên lận đận, về già thương đau yếu, điều kiện sống thiếu thốn, lao động vất vả, họ thường sống khá đơn độc, thậm chí không được cấp dưới ủng hộ. Nếu có vân xấu hoặc nốt ruồi ở cung Nô bộc, xương hàm nhọn hoặc nhô ra thì chủ nhân là người không quân tử, về già phải sống đơn độc, bần hàn, xung khắc với người thân. Cằm đua ra phía trước cho thấy chủ nhân là người ngang ngạnh, quá tự tin vào mình, về già nhiều bệnh tật, cần đề phòng bệnh cao huyết áp và bệnh tim mạch. Tất cả những người có Địa các lõm khuyết, dù trước đó có thành công hay không thì đến năm 41 tuổi cũng gặp hạn hao tài tốn của, năm 71 tuổi có chuyện không vui liên quan đến sức khỏe.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa)

DangHuyAnh
13-05-13, 20:51
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/02/781487739_1008970620_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781487739)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG PHỤ MẪU

Đặc tính bộ phận: Cung Phụ mẫu nằm ở hai bên Nhật giác và Nguyệt giác. Nhìn vào cung phụ mẫu, chúng ta có thể đoán biết được yếu tố di truyền của chủ nhân. Người xưa coi Nhật giác và Nguyệt giác là cung Phụ mẫu (quan điểm coi xương và thần đại diện cho cha, thịt và máu đại diện cho mẹ). Nếu nhân tố di truyền của cha mẹ tốt, xương phần trán sẽ ẩn và tròn, các phần khác cũng không bị khuyết lõm, do đó không những cung Phụ mẫu tốt mà cung Tướng mạo cũng tốt.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Xương Nhật giác và Nguyệt giác trong mà không lộ, xương rộng, da thịt bóng, Nhật nguyệt giác không lệch thì phụ mẫu của chủ nhân là người khỏe mạnh, thọ cao, thành công trong sự nghiệp, bản thân chủ nhân là người có gen di truyền tốt từ cha mẹ, được cha mẹ thương yêu cưng chiều, chủ nhân được hưởng phúc từ cha mẹ. Nếu hai bên trán có xương phụ, chủ nhân sẽ được thành công (được hưởng phú quý bậc trung). Nếu xương Nhật giác và Nguyệt giác nhô tròn và kéo lên đỉnh đầu, Lục diệu đầy và sáng, chủ nhân thường có thành công lớn (có thể đại phú, đại quý). Nếu chỉ có xương Nhật nguyệt giác tròn đầy, các xương khác bình thường thì chủ nhân chỉ được thành công nhỏ (tiểu phú, tiểu quý). Tướng lý Hằng Châm có nói: “Nhật nguyệt giác thấp, chủ nhân sớm phải xa song thân, Nhật giác bị lệch, cha mẹ của chủ nhân yếu, đoản thọ. Nguyệt giác lệch cho thấy hoặc cha mẹ chủ nhân sức khỏe yếu, đoản thọ, hoặc có anh em cùng cha khác mẹ, hoặc phải theo mẹ xuất giá. Trán cao lệch về bên trái thì chủ nhân là người có cha mất sớm, trán cao lệch về bên phải là số mẹ mất sớm, mũi lệch sang trái là cha mất trước, mũi lệch sang phải là mẹ mất trước. Quyền trái cao là cha mất trước, quyền phải cao là mẹ mất trước, mang tai trái nhỏ là cha mất trước, tai phải nhỏ ngắn là mẹ mất trước. Hai bên trán hẹp thì mẹ đẻ thường phải làm lẽ hoặc cha mẹ do ngoại tình mà sinh ra chủ nhân. Lông mày trái thấp, lông mày phải cao là số cha mất, mẹ đi lấy chồng. Tóc mai mọc thấp hoặc chân tóc chạm lông mày là sớm phải xa cách cha mẹ”. Tất cả những điều nêu trên cho thấy, cung Phụ mẫu giúp chúng ta đoán biết được sức khỏe, tuổi thọ của cha mẹ chủ nhân, ngoài ra, nó còn cho chúng ta thấy được song thân của chủ nhân ai là người thọ cao hơn. Do đó, thông qua tướng lý của con cái, chúng ta có thể đoán biết được phần nào tình hình của cha mẹ chủ nhân. Nếu chủ nhân được thừa hưởng gen di truyền tốt từ cha mẹ thì tướng lý Nhật nguyệt giác đẹp (cung Phụ mẫu hợp chuẩn), đương nhiên họ sẽ là người có sức khỏe, trí lực và tính tình tốt, do đó họ có nhiều cơ hội thành công trong sự nghiệp, sở dĩ họ có thành công lớn trong sự nghiệp là bởi theo thuyết di truyền, họ sẽ được hưởng gen tốt từ cha mẹ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý: Tướng nữ giới tốt phải là không có Nhật nguyệt giác, vì nữ giới có Nhật nguyệt giác ở nhà bất lợi cho cha mẹ, đi lấy chồng gây bất lợi cho chồng. Bởi vì, nữ giới có Nhật nguyệt giác thường là những người nam tính mạnh, họ cũng là những người say mê sự nghiệp. Trong xã hội hiện đại ngày nay, những người phụ nữ có tướng này thường có tính tự lập cao, họ không dựa dẫm, ỷ lại vào cha mẹ, chồng con, nhưng nêu đặt trong hoàn cảnh xã hội thời xưa, tướng nữ giới có cung Phụ mẫu cao không hợp với lễ tục thời đó, vì thế, người ta xếp những người phụ nữ có tướng Nhật nguyệt giác cao thuộc vào tướng hình khắc cha mẹ chồng con (Chú giải: Những người có sẹo hoặc nốt ruồi ở Nhật nguyệt giác không những hình khắc cha mẹ mà cả đời thường kém may mắn, duyên phận hẩm hiu).
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:53
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/02/781487919_947941768_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781487919)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG PHÚC ĐỨC

Đặc tính bộ phận: về ý nghĩa, cung Phúc đức cho phép dự đoán hi vọng về công danh phú quý (tuy nhiên cũng cần kết hợp với các bộ phận khác). Cung Phúc đức giúp chúng ta đoán biết được các thành tựu trong thực tế của chủ nhân. Căn cứ vào kinh nghiệm của cổ nhân: Nếu các cung khác tốt mà cung Phúc đức xấu thì chủ nhân khó thành công. Ngược lại, nếu cung Phúc đức tốt mà các cung khác xấu thì dễ dẫn đến nguy hại. Khi đặt tên cho cung này, cổ nhân đã đặt chữ Phúc trên chữ Đức nhằm ý nhấn mạnh rằng, con người ta nếu không có đạo đức thì nếu có Phúc, Phúc cũng khó tồn tại bền vững. Người xưa coi Phúc đường, Thiên thương, Địa khố, Ngũ nhạc, Tứ độc đều thuộc cung Phúc đức (tuy nhiên theo quan điểm mới đây người ta thường coi phần Phúc đường trên lông mày là cung Phúc đức), bởi vì các phần này liên quan trực tiếp tới phúc đức của ông cha chủ nhân cũng như sự tu dưỡng của bản thân người đó. Hay nói cách khác, các bộ phận trên chính là phần thể hiện của Âm chất (tiền tài), nếu ông cha của chủ nhân là người có âm đức thì tướng lý của các phần kể trên sẽ tốt. Mặt khác, nếu bản thân chủ nhân tu nhân tích đức thì khí sắc của các phần trên cũng tươi sáng hơn. Quan sát cả tướng lý và sắc khí của các phần thuộc cung Phúc đức, chúng ta có thể thấy được chủ nhân là người có được hưởng phúc lâu dài hay không. Ngoài ra, cung Phúc đức còn được gọi là cung Quý nhân, tất cả những người được hưởng phúc đều là những người có quý nhân phù trợ, ngược lại những người phúc mỏng không những không được quý nhân phù trợ mà còn dễ bị tiểu nhân làm hại.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Cung Phúc đức đầy đặn, cân xứng (hai bên cân đối nhau), khí sắc tươi tắn thì chủ về phú quý dễ thành, cằm tròn trán hẹp, thủa thiếu niên gặp nhiều vất vả. Trán rộng đẹp mà cằm nhọn hẹp thì về già lận đận. Nếu các bộ phận thuộc các cung khác không tốt mà cũng không xấu nhưng lông mày cao và mắt sáng thì vận số bình thường. Ngược lại, những người có chân lông mày mọc lan xuống mắt, tai có Luân quách đảo ngược mà không phải người thuộc hình Hỏa thì người đó có ít phúc đức.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:53
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/02/781488093_1498972380_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781488093)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG HUYNH ĐỆ (CUNG ANH EM)

Đặc tính bộ phận: Hai lông mày được coi là Huynh đệ cung. Huynh đệ cung không những giúp chúng ta đoán được chủ nhân là người có đông anh em hay không mà còn giúp chúng ta nhìn nhận được tình cảm anh em, đồng thời cũng là điểm để chúng ta quan sát tình thân gia đình, mối quan hệ bạn bè và quan hệ xã giao của mỗi người. Người xưa gọi Huynh đệ cung là Giao hữu cung. Các bậc hiền triết gọi phần cuối của lông mày là “Cung của thê tử tài miên” (Cung vợ con và tiền tài). Lông mày mọc sát tượng trưng cho vợ con đông đủ, tiền bạc dồi dào, lông mày thưa thớt tượng trưng cho tiền tài thiếu thốn. Nhưng tại sao người xưa lại coi hai lông mày là Huynh đệ cung? Lý do là bởi hai lông mày chính là nơi để quan sát gen di truyền có tốt hay không. Sách tướng thuật có nói: “Tàng tinh dư cốt, hiện tinh dư mi” (cái tinh túy tiềm tàng thể hiện ở xương, cái tinh túy có thể thấy được thể hiện ở lông mày). Nếu cha mẹ là người khỏe mạnh thì xương mi nhô cao, lông mi dài quá mắt, như vậy chủ nhân ắt là người đông anh chị em. Đầu lông mày có mối quan hệ đặc biệt với phổi, đuôi lông mày có mối quan hệ đặc biệt với gan. Đầu lông mày chính là nơi thể hiện lượng khí trong cơ thể con người, đuôi lông mày thể hiện khí chất của con người. Hình lông mày đẹp không chỉ thể hiện khí lượng trong con người nhiều mà khí chất của người đó cũng tốt, vì thế, tình cảm anh chị em tự nhiên cũng sẽ tốt hơn, thân thiết hơn. Người có hình lông mày đẹp khi ra ngoài cũng dễ tạo dựng mối quan hệ tốt, vợ chồng hòa hợp, con cái ngoan hiền, hay nói cách khác, hình lông mày đẹp thì trong cuộc sống chủ nhân là người có nhiều quý nhân phù trợ, ít bị tiểu nhân làm hại, sự nghiệp dễ thành, tiền tài dồi dào.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Lông mày đẹp là lông mày thanh tú, cong và dài qua mắt, nằm gọn ghẽ ở phần dưới trán, lông mày dày, mọc xuôi, sáng và có thần thái, không che khuất tầm nhìn. Người có tướng lông mày đẹp thường có đông anh chị em, nhiều bạn bè, không khắc người thân và được mọi người giúp đở, ra ngoài tạo được nhiều mối quan hệ xã hội tốt. Ngược lại, nếu sắc lông mày nhạt, to thô, dựng lên, mọc ngược, mọc rải rác không sát nhau, hoặc mọc trùm lên Ấn đường, ngắn hơn mắt, lông mày bị đứt ở đoạn giữa, bên cao bên thấp, bên dài bên ngắn, xương mày không nổi, hoặc trên lông mày có vân, có sẹo hay nốt ruồi,... đều xếp vào loại tướng lông mày xấu. Người có tướng lông mày xấu là người ít anh em bạn bè, không tạo được mối quan hệ tốt, thiếu thốn tình cảm, khó có cuộc sống hạnh phúc như ý muốn.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:54
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/03/781488532_1808703680_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781488532)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG THIÊN DI

Đặc tính bộ phận: Cung Thiên di là tên gọi chung của Thiên thương, Phúc đường, Dịch mã và Sơn lâm. Cung Thiên di là cơ sở để nhận biết được việc ăn ở đi lại, các chuyến đi trong cuộc đời và sự nghiệp đầu tư cũng như những thay đổi về chức vị công tác của mỗi người. Sách tướng thuật xưa gọi cung Thiên di là cung Biến động. Cung Thiên di có mối liên quan mật thiết với hệ thống não bên, mà hệ thống não bên chính là cơ quan chủ quản của hệ thống âm thanh, phương hướng, vị trí, thời gian và cảm giác ánh sáng. Tất cả những thay đổi trong cuộc sống có thuận lợi như ý hay không đều có mối liên quan trực tiếp tới tiếng nói, âm thanh, phương hướng, vị trí, thời gian và cảm nhận ánh sáng. Do đó, người xưa coi Thiên thương, Phúc đường, Dịch mã và Sơn lâm - phần bên trái và bên phải của trán là cung Thiên di.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Các phần Thiên thương, Phúc đường, Dịch mã và Sơn lâm đầy đặn, sáng bóng, không khuyết lõm, không có sẹo hoặc nốt ruồi được coi là phù hợp tiêu chuẩn. Người có các phần kể trên hợp chuẩn (tướng lý Thiên di đẹp) thường có cơ hội ra ngoài hoặc phát triển sự nghiệp ở nước ngoài, dù trong hoạt động thương mại hay công tác trong lĩnh vực khác thì người có tướng Thiên di đẹp cũng là người thuận lợi, làm ít thành nhiều. Ngược lại, những người có Thiên thương, Phúc đường, Dịch mã và Sơn lâm lệch, bên cao bên thấp, khuyết lõm, có sẹo hoặc nốt ruồi, khí sắc Thiên di u tối thường là những người gặp nhiều trắc trở khi đi xa, trong nhà họ cũng gặp những khó khăn nhất định, đặc biệt, môi trường làm việc của họ không được thuận lợi. Người có tướng Thiên di xấu nếu hoạt động kinh doanh thường khó tìm kiếm được đối tác, nhiều kẻ ganh ghét thị phi. Người có sẹo hoặc nốt ruồi ở Thiên di khi ra ngoài khó được quý nhân phù trợ, thường bị tiểu nhân làm hại, bản thân người đó thường thiếu tinh thần cảnh giác và khả năng ứng biến với môi trường xung quanh, do đó những người có tướng lý cung Thiên di không đẹp nên làm những công việc cố định, môi trường làm việc đơn thuần, không nên làm các công việc phải tiếp xúc với nhiều người như công tác ngoại giao, lễ tân, du lịch, kinh doanh buôn bán. Chính vì thế, người có tướng Thiên di không đẹp hoặc khí sắc Thiên di không nhuận sắc nên đặc biệt chú ý tới an toàn khi điều khiển phương tiện giao thông cũng như trong việc di chuyển. Nếu khí sắc cung Thiên di chuyển sang màu hồng hoặc vàng, chắc chắn sẽ có thay đổi tích cực.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:56
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/03/781488630_316349673_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781488630)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG THÊ THIẾP

Đặc tính bộ phận: Cung Thê thiếp là phần nằm ở đuôi lông mày và đuôi mắt (còn gọi là đuôi cá) kéo dài đến chân tóc mai, còn gọi là Gian môn, một số sách cũng coi Thiên thương thuộc cung này. Xét về tính thời đại, chúng ta có thể gọi cung Thê thiếp là cung Phu thê hoặc cung Hôn nhân, vì như thế sẽ bao hàm hơn và cụ thể hơn. Gian môn là nơi giao nhau giữa tiểu não với thần kinh của gan, tiểu não là trung khu chỉ đạo ham muốn giới tính, còn gan lại là nơi khởi nguồn của tì khí. Từ đây có thể thấy, tiểu não chính là nơi chỉ đạo ham muốn xác thịt, còn gan lại là nơi chỉ huy tinh thần của mỗi người. Mà quan hệ phu thê (vợ chồng) lại là mối quan hệ gắn bó thân thiết nhất trong mối quan hệ gia đình. Cũng có thể nói, cuộc sống vợ chồng và cuộc sống tinh thần chính là hai nội dung quan trọng nhất trong mối quan hệ vợ chồng, chính vì thế mà người xưa đã liệt Thiên thương vào cung Thê thiếp. Cũng có một số sách xưa coi Ấn đường thuộc cung Phu thê, vì bộ phận này cũng có mối quan hệ mật thiết với não và gan.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Gian môn có thịt đầy đặn, da trơn nhẵn, không có vân xấu hoặc nốt ruồi, phần đuôi cá không bị lõm khuyết, vân đuôi cá không nhiều cũng không quá ít, các vân này sắp xếp có trật tự được coi là tướng Gian môn tốt. Người có tướng Gian môn tốt thường là người có não và gan phát triển bình thường, tính tình lương thiện, dễ gần, họ không vội vàng mà cũng không quá chậm chạp, tâm tính ổn định, không dễ nóng giận, khả năng giới tính bình thường, dễ bằng lòng với những gì đang có, thỏa mãn với cuộc sống vợ chồng, có cuộc sống vợ chồng hòa hợp ân ái và cuộc sống gia đình vui tươi hạnh phúc. Cũng do não và gan phát triển tốt nên điện năng tốt phát ra từ cơ thể họ dù ở tần suất nào, tốc độ tần suất ra sao, sóng điện phát ra thế nào thì họ cũng luôn ở tâm thái bình thường. Dù là nam giới hay nữ giới, những người có điện năng này thường khá ổn định, dễ kết vợ chồng, họ là những người có cung Thê thiếp đẹp. Nam giới nếu có cung Thê thiếp đẹp thì sẽ cưới được người vợ xinh đẹp, hiền dịu, nữ giới có cung Thê thiếp đẹp sẽ lấy được người chồng giỏi giang. Ngược lại, nếu Gian môn lộ xương, không đầy đặn hoặc bị lõm sâu, đuôi cá (đuôi mắt) lõm vào trong, hoặc Gian môn có vân cắt nhau hoặc có nốt ruồi đen thì đó là tướng Gian môn không đạt chuẩn. Người có tướng Gian môn này thì gan, não, hệ nội tiết và điện năng không tốt, do đó cũng ảnh hưởng ít nhiều tới cuộc sống vợ chồng (dù là sức khỏe hay tinh thần). Trong sự nghiệp, những người có Gian môn không hợp tướng thường do phán đoán sai dẫn tới thất bại, hoặc bạn đời của họ dễ gặp hiểm nguy, nghiêm trọng thì bạn đời có thể chết trẻ (khi xem tướng cần chú ý kết hợp xem phần khí sắc). Những người có tướng như trên được người xưa gọi là “Khắc thê” hoặc “Hình phu”. Nếu cả vợ và chồng đều có tướng Gian môn không đẹp thì đều là những người ngang bướng, nôn nóng, vợ chồng dễ xảy ra xích mích, dẫn tới cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, cuối cùng dẫn tới phân ly mỗi người một ngả. Ngoài ra, những người có tướng Gian môn không đẹp cũng dễ có những mối quan hệ tình cảm bất chính, hoặc là ngoại tình, hoặc là hay tìm thú vui hưởng lạc, đó chính là hậu quả từ sự tương khắc điện năng giữa hai người. Sách tướng xưa có dạy: “Gian môn vân giao chủ thê thiếp ải tử” (người có vân cắt nhau thì thê thiếp thường chết do thắt cổ tự vẫn). Mặc dù lý luận này đã có những bằng chứng thực tế, song nó vẫn chưa chứng minh được chân lý, thậm chí quan điểm trên còn được coi là mê tín, do đó ở đây chúng tôi chỉ có thể kết luận rằng, những người có vân xấu ở Gian môn thường bị tật bệnh ở gan, não hoặc hệ nội tiết không bình thường. Ngoài ra, những người Gian môn có vân xấu cũng là những người có tính tình gàn dở, nhu cầu tình dục không quá mạnh, cũng không quá yếu. Vì thế, nữ giới có tướng Gian môn không tốt thường không thỏa mãn trong cuộc sống vợ chồng, bên cạnh đó, họ cũng gặp những cản trở nhất định trong cuộc sống tinh thần, sống trong chế độ phong kiến chuyên chế, do không được ly hôn với chồng, vì thế họ dễ phải tự vẫn để giải thoát. Sống trong chế độ xã hội tiên tiến ngày nay, những chủ nhân thường có khuynh hướng ly hôn để giải quyết vấn đề, do đó, hiện tượng “thê thiếp ải tử” (thê thiếp thắt cổ mà chết) cũng hạn chế hơn. Những người có sẹo hoặc nốt ruồi ở Thiên thương, Gian môn sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới cuộc sống vợ chồng. Sách tướng cổ có nói: “Bên trái cung Thê thiếp có sẹo hoặc nốt ruồi thì khắc vợ - Nam trái, nữ phải” (Tả biên Thê thiếp cung hữu chí chủ khắc thê). Nữ giới mà bên phải cung Thê thiếp có sẹo hoặc nốt ruồi thì cuộc sống hôn nhân không được như ý hoặc dễ ngoại tình. Theo kinh nghiệm của những người nhiều năm làm công tác liên quan đến Nhân tướng học cho thấy, tới 90% những người có nốt ruồi ở Thiên thương và Gian môn thường có cuộc sống hôn nhân không như ý muốn. Người có nhiều nếp nhăn, vân giao nhau ở đuôi cá, Gian môn lộ xương thường là những người lao động vất vả hoặc ham muốn tình dục lớn. Những người trên 40 tuổi mà đuôi cá không rõ vân thường là người thiếu lạc quan, không tích cực, ham muốn tình dục. Người trên 20 tuổi mà nếp nhăn ở phần đuôi cá rõ thường là người lao động vất vả, gian giảo. Nếu sắc khí cung Phu thê thay đổi thường là dấu hiệu quan trọng, bạn đọc cần tham khảo thêm phần quan sát sắc khí toàn diện.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:57
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/03/781488769_1945844265_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781488769)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG ĐIỀN TRẠCH

Đặc tính bộ phận: Cung Điền trạch nằm ở giữa lông mày và mắt. Cung Điền trạch chính là phần thể hiện tài sản, đất đai, hoàn cảnh gia đình và danh vọng của mỗi người. Tuy nhiên, cung Điền trạch cũng có mối quan hệ mật thiết với gen di truyền của cha mẹ, khác với cung Tài bạch - cung thể hiện Tiền tài của mỗi người. Xét về mặt sinh lý học, cung Điền trạch là nơi phản ánh chức năng của hệ thống tiêu hóa trong con người, nó có mối quan hệ đặc biệt với hệ tiêu hóa di truyền từ cha mẹ của chủ nhân. Ngoài thể hiện tài sản, đất đai ra, cung Điền trạch còn là cơ sở để đoán biết cuộc sống gia đình, phẩm chất đạo đức và mối quan hệ tình cảm của mỗi người.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điểm may rủi: Mi trên đầy đặn, cao rộng thanh tú, không có vết sẹo, không có nốt ruồi được coi là tướng mi đẹp. Người có tướng mi đẹp là người được thừa hưởng gia sản của bề trên để lại, hoặc nếu không cũng tự dựng được sản nghiệp, cuộc sống gia đình vui vẻ, bình yên. Người có tướng cung Điền trạch tốt thường coi trọng cuộc sống tinh thần, họ cũng là những người trung chính nhân hậu, sống khá lương thiện, dễ nhận được thiện cảm từ người khác giới, cuộc sống hôn nhân mỹ mãn, con cái thường kết hôn sớm, cuộc sống vợ chồng hòa hợp. Người có tướng Điền trạch tốt cũng là người có tinh lực dồi dào, nhân duyên như ý, dễ nhận được sự giúp đỡ của bề trên, cấp trên, nếu làm nghề liên quan đến điện ảnh, nghệ thuật dễ được quần chúng đón nhận. Ngược lại, những người có mi mắt trên lõm sâu (trừ những người hình Mộc và người ở một số địa phương giáp Quảng Đông - Trung Quốc), hoặc nhỏ hẹp (rộng chưa đầy chiều ngang ngón tay) hoặc có sẹo hay nốt ruồi thì chủ nhân thường có bệnh về đường tiêu hóa hoặc gen di truyền không tốt. Ngoài ra, người có tướng Điền trạch không tốt dù là người tích cực phấn đấu, song họ là người hay nôn nóng, nhân duyên không tốt, họ có tài trí nhưng tính tình và phẩm đức nhiều hạn chế. về gia sản, họ không những không được hưởng gia sản của ông cha để lại mà thời thanh niên còn khuynh gia bại sản. về gia đình, những người có cung Điền trạch không tốt thường không có được mối quan hệ gia đình thân mật, sớm phải xa cha mẹ, khó lập nghiệp ngoài xã hội, khó mua đất dựng nhà, dễ khuynh gia bại sản hoặc phải liên tục chuyển nhà. Sắc khí của cung Điền trạch u tối cho thấy chủ nhân là người tham lam, không đáng tin cậy, thiếu đạo đức, trong nhà thường có chuyện không vui (thậm chí có án mạng), họ cũng là người khó hòa hợp trong cuộc sống vợ chồng. Những người có mi trên quá rộng (rộng hơn hai ngón tay đặt ngang) là người có tướng phú quý, họ cũng là người có tính tình phóng khoáng, nhân từ, hài hước, có tầm nhìn xa trông rộng, có số trường thọ. Tuy nhiên, những người có cung Điền trạch quá rộng thường là người không có chí tiến thủ, không có khả năng tính toán và quản lý tiền bạc, thích hão huyền và không có chính kiến, họ thường thiếu tự tin trong đối nhân xử thế và trong công việc. Tướng nữ giới kỵ Điền trạch quá rộng, người có tướng này thường khá kiêu căng. Người phương Tây không kỵ cung Điền trạch quá hẹp, vì Điền trạch hẹp là đặc tính chung của họ.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
13-05-13, 20:58
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/11/22/03/781488945_856488238_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/781488945)

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ CUNG NAM NỮ

Đặc tính bộ phận: Nam nữ là cách gọi khác của cung Tử nữ (cung con cái), hay thường được gọi là Lệ đường, cung Âm chất, Long cung, Phượng đại, Ngọa tàm, Tam dương tam âm, Lục dương. Cung Nam nữ là phần nằm phía dưới mắt, cách mắt khoảng 2cm. Đây là nơi “Tim thận giao nhau”, là đầu não của hệ nội tiết và là nơi giao nhau của hệ tuần hoàn và hệ thần kinh, mà con người ta được sinh ra từ “tinh cha huyết mẹ”, vì thế người xưa đã gọi nơi đây là “cung Nam nữ”. Cung Nam nữ là nơi giúp chúng ta nhận biết được tâm tính, hành động của con người có phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức không. Đặc biệt, cung Nam nữ cũng là phần giúp chúng ta nhận biết mối quan hệ nam nữ của chủ nhân có đúng đắn hay không. Cung Nam nữ có mối quan hệ đặc biệt với thần kinh trên não, vì thế, người xưa gọi cung này là cung Âm chất, hoặc cung Tâm tính.

Tiêu chuẩn tướng lý tốt xấu và điềm may rủi: Phần dưới mắt đầy đặn và bằng phẳng, sáng và nhuận sắc, người 40 tuổi trở lên có vân Âm chất được coi là cung Nam nữ đẹp. Người có cung Nam nữ đẹp là người có thể lực và tinh thần khỏe mạnh, sống nhân từ, chân chính, cuộc sống vợ chồng ân ái, con cái đông đúc, thảo hiền, họ cũng là người thành công trong sự nghiệp, ít gặp hiểm nguy. Dưới mắt có sẹo, có vân xấu, có nốt ruồi hoặc phần da dưới mắt khô nhăn cho thấy chủ nhân từng bị bệnh về nội tiết hoặc rối loạn nội tiết, những người như vậy thường không có con, hoặc nếu có con thì con cái của họ không khỏe mạnh. Nếu dưới quầng mắt có sẹo hoặc nốt ruồi, chủ nhân là người phải lo âu, vất vả về đường con cái hoặc xung khắc với con cái (Nam xem bên trái, nữ xem bên phải). Nếu chưa đến 40 tuổi mà dưới mắt đã có những cục thịt nhỏ xếp chồng lên nhau hoặc dưới mắt khô lõm không có thịt thì cho thấy chủ nhân từng vì nhục dục mà hao tổn tâm sức, hoặc phẩm đức kém, thường làm những chuyện thiếu đạo đức, do đó cũng ảnh hưởng đến chức năng của hệ thống tuần hoàn máu và hệ nội tiết, dù là nam hay là nữ, đã có con hay chưa có con thì trong tương lai, họ cũng không còn khả năng sinh sản. Trong sự nghiệp, những người có tướng này thường gặp nhiều gian lao trắc trở, cuộc sống hôn nhân không được như ý. Nếu thịt dưới mắt chảy xệ xuống như hình túi, chủ nhân là người không còn khả năng giới tính, trong họ không còn động lực để yêu thương ân ái (Chú giải: Người già nếu Lệ đường không chảy xệ thành hình túi cho thấy khả năng tình dục của họ vẫn bình thường). Phần dưới bầu mắt có màu u tối cho thấy chủ nhân là người có cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, hoặc con cái đang gặp hoạn nạn, trắc trở, hoặc họ đang gặp chuyện không may trong sự nghiệp, hoặc gặp vấn đề về sức khỏe. Nếu cả quầng mắt màu tối, chủ nhân là người bất chính, hoặc rối loạn về thần kinh não, cần đề phòng chuyện bất hòa và tranh chấp trong gia đình. Nam giới có vợ đang mang bầu hoặc người đang mang bầu mà mắt có quầng thâm u tối thì con cái sinh ra mắt nhiều tròng trắng. Nếu dưới bầu mắt có vân xâm phạm vào Âm chất (vân thẳng hoặc vân lưới) thì chủ nhân thường là người có phẩm chất đạo đức kém, thường làm chuyện bất lương hoặc làm những chuyện nghiêm trọng xâm phạm đến đạo đức. Nếu có gân xanh hoặc mạch máu đỏ ở Lệ đường thì chủ nhân thường là người có tâm địa gian ác, cần cảnh giác, những người như vậy cần sớm tu tâm dưỡng tính, giữ cho tâm thanh thản, dần dần gân hoặc mạch máu ở đó sẽ nhạt màu.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

DangHuyAnh
15-05-13, 16:23
NGŨ HÀNH HÌNH TƯỚNG


Ý NGHĨA TƯỚNC PHÁP CỦA NGŨ HÀNH HÌNH TƯỚNG

Bàn về Nhân tướng học, trước hết phải nói đến Ngũ hình (Ngũ hình là cách gọi trong Nhân tướng học, trong Mệnh lý học, người ta gọi là Ngũ hành). Để đoán biết được vận mệnh của con người, trước hết người ta không xét đến Ngũ quan hay câu nệ về các nốt, vân, tướng tay hay tướng chân. Việc này cũng giống như khi người ta đánh giá một cỗ máy, trước hết phải đánh giá về chất liệu tạo nên cỗ máy đó, chất liệu dùng để chế tạo cỗ máy thuộc loại chất lượng cao hay thấp, sau đó sẽ xét đến kết cấu bên trong và ngoại hình của cỗ máy, xem nó đã được thiết kế thế nào, cuối cùng là cỗ máy đó sẽ được vận hành ra sao, có ưu điểm gì, mã lực, công suất là bao nhiêu. Tướng pháp Ngũ hình là cơ sở để nhận biết 5 bộ phận trên cơ thể được cấu tạo ra sao, ngoài ra, căn cứ vào các xương trên cơ thể người,chúng ta có thể dự đoán được gương mặt chủ nhân và sắc da trên toàn cơ thể người đó. Ví dụ, người hình Mộc thường vừa gầy vừa cao, màu da thường xanh bóng; người hình Hỏa thường lộ xương, xương nhọn, màu da hồng hào; người hình Thổ thường đầy đặn, sắc da hơi vàng; người hình Kim thường vuông vức, màu da trắng trẻo; người hình Thủy thường béo tròn, màu da đen bóng, cổ nhân dạy rằng: “Được một hình trong Ngũ hình, không quý cũng phú, được một hình trong Ngũ hình, không phú thì cũng thọ”. Ngũ hình tướng pháp ra đời khá sớm, nó được coi như sự khởi nguồn về hình thái “linh khu” (các huyệt) trong y học. Ngũ hình có ảnh hưởng khá lớn đối với Nhân tướng học cũng vì lẽ đó. Tuy nhiên, những người chỉ thuộc một hình (người có tướng lý vận mệnh rõ) trong Ngũ hình là khá ít gặp, mà chủ yếu là những người kiêm hình (có đặc điểm của nhiều hình khác nhau), do đó rất khó nhận biết và dự đoán được vận mệnh của những chủ nhân, bởi lẽ đời thường “sai một ly đi một dặm”! Theo tướng số học phương Tây, người ta xét tướng pháp trên các góc độ như: dinh dưỡng, hệ thống cơ xương, tính cách. So với Nhân tướng học phương Đông, cách xem tướng như trên là khá nông cạn, bởi vì tướng lý học phương Tây thường được xét trên cơ sở sinh lý học và bệnh lý học. Còn Ngũ hình dựa trên cơ sở các lập luận về vũ trụ, về hình thức, mặc dù nó được chia thành ngoại hình, tình hình sức khỏe, tâm tính của con người, nhưng ngoài ra, nó còn là cơ sở để dự đoán những thuận lợi khó khăn trong cuộc sống cũng như trong hôn nhân của con người. Đặc biệt, dựa trên cơ sở hợp, khắc theo quy luật của những người kiêm cục và kiêm nhiều cục, chúng ta có thể xét tướng số vận mệnh của con người một cách cụ thể hơn. Dưới đây, chúng tôi xin khái quát vài nét về từng hình trong Ngũ hình (các hình trong Ngũ hình thường liên quan đến di truyền của cha, các cục thường liên quan đến di truyền của mẹ).

PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ NGƯỜI HÌNH THỦY

Hình Thủy chính cục: Đặc điểm chung của những người hình Thủy chính cục gương mặt ngắn, sắc da đen, Ngũ bộ đầy đặn, quầng xung quanh mắt đầy, tiếng nói tròn. Người có khẩu hình vuông rộng, lông mày thô và to, eo tròn thường là người khoan dung độ lượng, có khả năng tùy cơ ứng biến, không thích đấu tranh hay gây thù hận với mọi người. Họ cũng là người khá cẩn trọng, không nôn nóng, tài trí hơn người, cả đời được hưởng phúc lộc, được công thành danh toại và thuộc tuýp người đại phú, đại quý. Nếu Ngũ bộ gầy nhỏ được coi là Quý Thủy chính cục, người có tướng này chủ về trung quý và tiểu quý. Người hình Thủy kỵ sắc mặt vàng đục, tiếng nói không đanh, người như vậy thường ngu muội, trì trệ, cả đời nghèo hèn. Người hình Thủy kỵ mũi nổi đốt xương hoặc có yết hầu, người như vậy thường xung khắc người thân. Ngoài ra, người hình Thủy còn kỵ tai bị khuyết, ánh nhìn đục, mơ hồ, mũi nhòm miệng, những người như vậy trong cuộc đời thường khó gặp may mà hay gặp cảnh tai ương và khó khăn trắc trở. Tướng nữ hình Thủy gọi là “Mãn nguyệt liễm” (mặt trăng tròn), nếu lông mày cong và thanh tú thường khi xuất giá sẽ gặp được chồng giàu, bản thân chủ nhân là người thông minh tài trí, có đầu óc kinh doanh, nếu là Kim Mộc ắt ích phu vượng gia (Chú giải: Căn cứ vào ngoại hình và thể chất của người hình Thủy, chúng ta có thể chia thành các loại: Hoạt Thủy - nước chảy, Tử Thủy - nước đứng yên, Tuyền Thủy - nước suối, Độc Thủy - nước đục. Các loại hình khác nhau thì số mệnh và điềm may rủi cũng khác nhau, bạn đọc có thể tham khảo ở phần phụ lục khí sắc đại toàn).

Hình Thủy kiêm Mộc cục: Người hình Thủy kiêm Mộc cục thuộc Ngũ hành tương sinh hóa cách. Người hình Thủy kiêm Thổ cục thường cao lớn, khuôn mặt không tròn, lông mày và râu thưa, ít màu, eo và mông nhỏ, thân hình không có uy thế. Người thuộc hình trên tính tình hay nôn nóng, trong cuộc đời họ ít được thành công, nếu có cũng chỉ là tiểu phú, tiểu quý, trừ những người thuộc hình Quý Thủy. Tất cả những người hình Quý Thủy nếu da thịt không săn chắc mà rủ xuống thì chủ về đoản thọ. Những người có sắc diện xanh xao là kiêm quá nhiều Mộc, thuộc Ngũ hành tương sinh không hóa cách, người như vậy cả đời long đong, sau chết do gặp nạn.

Hình Thủy kiêm Hỏa cục: Người hình Thuỷ kiêm Hỏa cục thuộc Ngũ hành tương khắc hóa cách. Những người thuộc hình này thường có khuôn mặt hơi tròn, đầu tai nhọn, lông mày ít, không có râu, thân hình rắn chắc, ánh mắt có thần thái. Thủy và Hỏa kết hợp hài hòa, chủ về thông minh tài trí, biết thiên biến vạn hóa, có tài cao mưu sâu. Tuy nhiên, những người thuộc hình này thường ít gặp may, phải sống cảnh bần hàn, nếu thành công cũng chỉ là nổi danh văn chương truyền thế mà thôi. Tuy nhiên, nếu sắc mặt đỏ hồng là tương khắc hóa cách, chủ nhân có thể được hưởng trung phú, trung quý. Quanh mặt có sắc nâu gọi là tương khắc không hóa cách, chủ nhân sớm xung khắc người thân, cả đời cô quả. Nếu sắc mặt đen trầm, ánh nhìn đục thì chủ nhân thường có tật bệnh, không nghèo hèn cũng chết yểu, về già vẫn phải sống cuộc đời gian khổ.

Hình Thủy kiêm Thổ cục: Người hình Thủy kiêm Thổ cục thuộc Ngũ hành tương khắc hóa cách. Đặc điểm chung của người thuộc hình này là bước đi chậm, vai rộng, lưng dày, thân hình thấp tròn. Nếu sắc mặt vàng nhuận, môi hồng, răng trắng được coi là nước có nguồn, người như vậy thường trung thành, được hưởng phúc thọ, trong cuộc sống họ thường khá vất vả nhưng thành công và được hưởng phúc. Tướng nữ giới hình Thủy kiêm Thổ cục là tướng vượng phu ích gia. Thần không rõ mà khí đủ đầy, Ngũ quan không đẹp, lưng dài, eo mập, xương thô thịt ngang, thân hình béo mập, lông mày và râu mọc lan không tập trung được coi là kiêm quá nhiều Thổ, như vậy Thủy và Thổ sẽ tương khắc không hóa cách. Nếu sắc mặt vàng hoặc đen, chủ nhân thủa nhỏ đã xung khắc cha mẹ, phải tha hương cầu thực, những người này thường có tính tình hung bạo, dễ gặp nghịch cảnh.

Hình Thủy kiêm Kim cục: Người hình Thủy kiêm Kim cục thuộc Ngũ hành tương sinh hóa cách. Người thuộc hình này thường có khuôn mặt hơi vuông, sắc mặt hơi trắng hoặc ngăm đen, béo nhưng không trì trệ, khí túc thần sung, Ngũ quan cân đối, đầy đặn, lông mày và râu đẹp, tính tình chịu thương chịu khó, nhẫn nại, kiên trì, có tài văn võ, dù là nam hay nữ đều sớm có tham vọng làm giàu, cuối cùng được hưởng đại phú, đại quý (trừ những người thuộc hình Quý Thủy). Tuy nhiên, những người thuộc hình này nếu là nữ giới thì cuộc sống hôn nhân thường không được như ý muốn, không sớm thì muộn cũng có mâu thuẫn hay xung khắc với người thân. Người thuộc hình này nếu sắc mặt trắng như phấn, cánh tay rắn chắc là tướng tương sinh không hóa cách, chủ phá Thủy, trong cuộc đời dễ gặp nhiều tai ương trắc trở.

Hình Thủy tạp cục: Người hình Thủy tạp cục ngoài đặc điểm là thân hình béo mập ra thì đặc điểm và cá tính của họ thường phức tạp, khó nhận biết. Người hình Thủy tạp cục có đặc trưng cá tính của cả các cục Mộc, Hỏa, Thổ, Kim thể hiện ở các bộ vị khác nhau trên cơ thể, các bộ vị này có thể là bộ vị chính, cũng có thể là bộ vị phụ. Người hình Mộc tạp cục có thể kiêm từ 2, 3 cục trở lên, thậm chí có thể kiêm trùng cục, ví dụ: Hình Thủy kiêm Hỏa Hỏa Mộc Mộc cục. Do các tố chất của người mang tạp cục nói chung không thể hòa hợp được với nhau mà thường tương khắc với nhau, vì thế, nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, trí tuệ và cá tính, kéo theo những ảnh hưởng nhất định tới thành công cũng như tuổi thọ của họ.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).

http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198871_716905867_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198871)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198902_2073516899_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198902)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198885_734415663_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198885)
Tướng cách này có thể rơi vào hình tướng biến cách Heo.
Tướng Heo:Vinh hoa phú quý đến năm 45 tuổi thì tử nạn chết bất đắc kỳ tử (vậy mới thấy ông Kiên này còn may chán, 48 tuổi mới bị bắt, án kêu 15 năm là cùng :34336:)

DangHuyAnh
15-05-13, 16:29
PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ NGƯỜI HÌNH HỎA

Hình Hỏa chính cục: Ngũ bộ của người hình Hỏa chính cục thường có dạng trên nhọn dưới rộng, trên sắc dưới đầy đặn. Đặc điểm chung của người hình Hỏa chính cục là: Tính tình nôn nóng, lông mày vàng, sống mũi lộ đốt xương, mắt trắng sắc hồng, quyền cốt nhô nhọn, lộ gân, vùng xương lông mày lộ, ngón tay thon gầy, giọng nói dứt khoát, nhanh gọn. Những chủ nhân nếu có khí sắc hồng hào, hai tai cao, có tham vọng thành công từ sớm thì họ sẽ phát đạt ngay từ thời thanh niên, tuy nhiên, trong sự nghiệp họ cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, trắc trở, khó vượt qua. Những người hình Đinh Hỏa thường chỉ phát đạt đến giới hạn nhất định, rất khó dựng nghiệp. Nam giới thuộc hình Hỏa hợp với quân đội, nữ giới hình Hỏa hợp với hoạt động nghệ thuật. Người hình Hỏa kỵ khí tàng sắc tĩnh, kỵ quá béo. Về giọng nói, người hình Hỏa kỵ tiếng nói yếu ớt, những người như vậy cả đời khó thành công. Ngoài ra, trong Nhân tướng học, hình Hỏa kỵ tai nhọn, sắc mặt khô xám, những người như vậy chủ về hãm tài bại nghiệp, kỵ nói to, vì cả đời chẳng gặp may (Chú giải: Dựa vào ngoại hình và thể chất, người hình Hỏa có thể chia thành các loại: Thuần đại - lửa lớn, Dã Hỏa - lửa cháy tự do, Vi Hỏa - lửa nhỏ, Liệt Hỏa - lửa yếu; các loại hình khác nhau kéo theo vận mệnh cũng khác nhau, bạn đọc có thể tham khảo thêm phần phụ lục Khí sắc đại toàn).

Hình Hỏa kiêm Mộc cục: Người hình Hỏa kiêm Mộc cục thuộc Ngũ hành tương sinh tương hóa. Những chủ nhân thân hình thường cao gầy, có thần thái, mũi thẳng, đầy đặn, Sơn căn hơi thấp, Ấn đường phẳng rộng, lỗ tai hơi lộ, râu và lông mày hơi khác thường, khí xung thần ẩn. Những người có gương mặt nhọn, khí sắc thanh mà sáng thường có tài cán hơn người, tuy nhiên, họ là những người cô đơn, hoặc không theo bè phái, nên dù gặp nhiều may mắn cũng khó có được uy quyền, hay nói cách khác, họ thường làm công tác liên quan tới hoạt động nghệ thuật. Nếu sắc khí trì trệ, vàng vọt không hóa được cách thì cả đời nghèo hèn khó thành.

Hình Hỏa kiêm Thổ cục: Người hình Hỏa kiêm Thổ cục thuộc Ngũ hành tương sinh hóa cách, những người thuộc hình này thường có khuôn mặt nhọn, xương hàm đầy đặn nhưng góc độ của Lục phủ không rõ, cơ thể béo mập nhưng không cân đối, mắt dài nhưng không có thần thái, mũi cao nhưng hơi hếch. Những người thuộc hình này nếu có râu không đẹp thường gian tham, xung khắc mọi người. Nếu khí sắc vàng nhuận thì sẽ thọ cao, về già được hưởng tiểu phú. Người thuộc hình này quá béo thì không hóa cách được, do trọng lượng cơ thể lớn mà khó phát tài, cả đời phải vất vả gian lao, con cái bất hiếu, họ hàng không ủng hộ. Đinh Hỏa kiêm Thổ là tướng tối kỵ.

Hình Hỏa kiêm Kim cục: Người hình Hỏa kiêm Kim cục thuộc Ngũ hành tương sinh hóa cách. Người thuộc hình này khuôn mặt hơi vuông. Nếu Ngũ quan hơi vuông, sắc mặt trắng hồng thường là người tài cao mưu lớn, tuy vậy, họ thường phải sống cô đơn, thời trung niên và về già thường được thành công. Đinh Hỏa kiêm Kim là người khó thành đạt. Nếu sắc mặt quá trắng, thiếu hồng hào thì không thể hóa cách được, người như vậy sớm phát đạt nhưng cũng mau lụi tàn, khó thụ tài thụ lộc, thậm chí còn phải chịu cảnh phá gia bại sản, bản thân lưu vong, Đinh Hỏa kiêm Kim là tướng tối kỵ. Người hình Hỏa kiêm Kim thì dù là Bính Hỏa hay Đinh Hỏa thường xung khắc người thân, thủa nhỏ đã phải tha hương cầu thực, dễ gặp hiểm nguy.

Hình Hỏa kiêm Thủy cục: Người hình Hỏa kiêm Thủy cục thuộc Ngũ hành tương sinh tương khắc. Những người thuộc hình này gương mặt tròn, râu tóc và lông thường nhiều và rậm, Ngũ quan hơi lộ, sắc mặt hồng hào, gọi là Thủy Hỏa kế tề, sẽ được thành công. Những người Đinh Hỏa kiêm Thủy thường ít thành công hơn. Những người thuộc hình này mà thân hình béo mập, ánh nhìn không có thần, mũi to không rõ sống, miệng to không rõ góc, môi như thổi lửa, thần tạp khí ngắn thì tính tình kỳ quái khác người. Những người sắc mặt tối, trì trệ là người kiêm Thủy nhiều, đây là tướng khắc khó hóa cách. Họ thường là những người xung khắc người thân, tha hương cầu thực nhưng khó thành. Người Đinh Hỏa kiêm Thủy nặng thường bần hàn, nghèo túng.

Hình Hỏa tạp cục: Người thuộc hình Hỏa tạp cục ngoài đặc điểm là trán lộ xương ra, Ngũ bộ thường không có điểm đặc trưng, tính tình phức tạp. Người hình Hỏa tạp cục thường không thể hiện rõ mức độ của các cục Mộc, Thổ, Kim, Thủy mà các bộ vị không đồng nhất một cục. Hình Hỏa tạp cục thường kiêm từ 2, 3 cục trở lên, thậm chí còn kiêm trùng cục như hình Hỏa kiêm Kim Kim Thủy Thủy,... Tố chất của người hình Hỏa tạp cục thường không hòa hợp với nhau, các tố chất đó có thể xung khắc với nhau, do đó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, trí tuệ và cá tính của chủ nhân. Trong cuộc sống, những người hình Hỏa tạp cục thường khó thành và thọ yểu.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198556_32120024_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198556)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198586_577710249_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198586)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198528_1302346257_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198528)

DangHuyAnh
15-05-13, 16:30
PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ NGƯỜI HÌNH MỘC

Hình Mộc chính cục: Người hình Mộc có Ngũ bộ to, dài cân đối, thân hình gầy nhưng đĩnh đạc, dáng người cao, trung trực, eo gầy và tròn, môi đỏ, vân môi nhỏ, cổ lộ rõ xương hầu, xương mũi lộ, hơi gẫy, đầu có xương nhô, trán dựng, mắt và lông mày thanh tú, có ria ở nhân trung (kỵ ria lan vào miệng). Người hình Mộc thường có tinh thần sung sức. Bàn tay của người hình Mộc thường dài và gầy, bàn tay có nhiều vân thường là người hình Mộc chính cục. Mộc chính cục thứ nhất tương đối nhỏ và ngắn, kém Giáp Mộc. Hình Giáp Mộc không kỵ kiểu đầu trọc, nhưng kỵ kiểu đầu hói hoặc bị rụng từng khoảng tóc. Người hình Mộc nếu bị hói dễ đoản thọ, hoặc nếu không cũng phải chịu cảnh nghèo hèn. Người hình Mộc kỵ chân tóc quá cao (Ghi chú: Người hình Kim, hình Thủy và hình Thổ chân tóc càng cao càng tốt). Người hình Giáp Mộc không kỵ Huyền châm nhưng những người có Huyền châm thường không những khó tránh được gian lao thời trẻ mà về già họ cũng thường phải chịu cảnh long đong lận đận. Phụ nữ có Huyền châm thường bị tổn thai hoặc bất lợi cho chồng, dễ phải chịu cảnh cô quả. Người hình Ất Mộc kỵ đầu trọc, lộ xương Huyền châm. Tất cả những người hình Mộc thường hợp với màu thiên thanh và màu đen, kỵ màu vàng. Đặc trưng quan trọng nhất của người hình Mộc là thon dài, ngay thẳng nên người hình Mộc không nên sợ gầy yếu. Người hình Mộc thì tính cách phải hội tụ đủ điều kiện Ngũ trường, khí sắc không tạp, tinh thần không loạn, cử chỉ ôn hòa, điềm đạm, bước đi thanh thản. Người hội tụ được những đặc điểm này là người có nhân có đức. Người hình Mộc chính cục thì hình hài xuôi thẳng, mắt sáng và có tụ thần, râu và tóc thanh nhã, môi hồng, ngón tay thon dài, chỉ tay nhỏ và rõ, lưng thon hẹp, da mịn, âm thanh cao và trong trẻo. Nếu chân tay hoặc thân hình nghiêng lệch, da khô, thịt bệu hoặc lộ xương, gân tạp loạn là tướng xấu. Xương thô, người béo và lùn, lưng cong là phá cách (căn cứ vào ngoại hình của người hình Mộc, có thể chia hình Mộc thành Kiên Mộc, Tiết Mộc, Nhu Mộc, Khúc Mộc. Điềm may rủi của các tướng Mộc này cũng khác nhau, bạn đọc có thể tham khảo thêm ở phần “Khí sắc đại toàn”).

Hình Mộc kiêm Hỏa cục: Người hình Mộc kiêm Hỏa thuộc Ngũ hành tương sinh. Những chủ nhân dù dạng Ất Mộc hay Giáp Mộc thì đều coi tướng lý đỉnh đầu nhọn, tai cao, sắc khí hồng hào là người thông minh trí tuệ, sự nghiệp sớm thành, ắt được phú quý. Tuy nhiên, họ thường là người có tính cách hiếu động, hay nôn nóng. Người hình Mộc nói chung không được nghiêng về hình Hỏa, cục Hỏa, như: Ngũ quan lộ và nhọn, sắc tối sẫm, ánh nhìn mơ hồ, nói nhanh (tất cả những nhân tố kể trên đều được coi là nghiêng về Hỏa), không thể hợp cách được. Những người như vậy tính tình thường hung bạo, lúc nhỏ gặp nhiều sóng gió, xung khắc người thân, sự nghiệp khó thành, nhiều bệnh tật, không nghèo cũng hèn.

Hình Mộc kiêm Thổ cục: Hình Mộc kiêm Thổ cục thuộc Ngũ hành tương sinh. Những chủ nhân thường có gương mặt dài, ánh nhìn sâu, có thần thái, mũi to, xương má nhô cao, lưng và eo thẳng, tròn. Tuýp người hình Giáp Mộc kết hợp với khí sắc hồng hào, bóng bẩy chủ về phú quý. Người hình Mộc kỵ quá nghiêng về Thổ. Những người có xương to thịt bắp, ánh nhìn không có thần thái là không hợp cách. Những người như vậy sự nghiệp khó thành, bởi vì Mộc không thể chế ngự được Thổ.

Hình Mộc kiêm Kim cục: Người hình Mộc kiêm Kim cục thuộc Ngũ hành tương khắc tương hóa. Những chủ nhân sắc mặt trắng, khuôn mặt vuông vức. Nếu là Giáp Mộc, Mộc là do Kim làm gẫy, từ thời trung niên trở đi sẽ được thành công. Chủ nhân nếu là công chức, nếu không quý cũng sẽ có quyền. Hình Mộc mà không kiêm Kim thì dù quý cũng thiếu uy quyền. Nếu sắc mặt quá trắng, trán vuông, xương ngang, mũi lộ xương, thân hình nhiều thịt, mắt to không có thần thái, Ngũ qụan không hài hòa thì thuộc Ngũ hành tương khắc không hóa cách, những người như vậy thường mưu sự khó thành, đến già cũng không được thành công. Người hình Ất Mộc mà kiêm Kim quá nhiều, khí sắc trắng lạnh thì cả đời khó phát đạt, xung khắc người thân, gặp nhiều khó khăn trắc trở và khó thọ cao.

Hình Mộc kiêm Thủy cục: Người hình Mộc kiêm Thủy cục thuộc Ngũ hành tương sinh, tương hóa. Những người thuộc hình này mắt thường to, ánh nhìn có thần thái, mũi cao thẳng, tai sáng, môi dày, khuôn mặt trái xoan, lông mày to rậm, dung mạo đẹp đẽ khác người, thân hình thẳng, khí sắc hơi xanh,... tất cả những yêu tố kể trên được liệt vào loại Mộc Thủy tương sinh, dù là hình Ất Mộc hay Giáp Mộc đều được phú quý (thường quý về nghiệp văn). Những người hình Mộc kiêm Thủy quá nhiều, vẫn được xếp vào loại tương sinh mà không tương hóa. Những chủ nhân dáng người cao to, Ngũ quan bình thường không có gì khác người, thần khí trì động, nước da đen xạm. Họ là những người có tính khí không rộng lượng, trong người thường có bệnh tật, trong cuộc sống ít khi gặp được vận may. Trong sự nghiệp họ hiếm khi có được thành công, nếu có thường là những việc nhỏ, ít ai biết đến. Ngoài ra, những người thuộc hình Mộc kiêm Thủy cục quá nhiều thường xung khắc người thân, gặp nhiều tai ương trắc trở, về già phải sống cuộc đời đơn độc. Tướng nữ giới thuộc hình Mộc, Thủy cục được coi là “Thượng liễm - mặt phượng” (Chú giải: Khuôn mặt vuông, quý của nam giới là Kim hình, còn khuôn mặt dài, quý của nữ giới là Phượng liễm), những người phụ nữ có tướng này gọi là “Vượng phu hưng gia”, thường được kết hôn với những người phú quý.

Hình Mộc tạp cục: Những người thuộc hình Mộc tạp cục, dáng người thường cao gầy, ngoài ra thường có đặc điểm nổi bật ở Ngũ bộ, tuy nhiên rất khó đoán biết được tướng lý thuộc loại nào, bởi vì thoạt nhìn họ kiêm cả các cục Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Tính tình của những người hình Mộc tạp cục thường khá phức tạp (kiêm cả tính cách của các cục). Những người hình Mộc tạp cục thường kiêm từ 2, 3 cục trở lên, thậm chí là kiêm trùng cục, ví dụ: Mộc kiêm Kim Kim Thổ Thổ cục. Những chủ nhân do tố chất Ngũ hình khó kết hợp hài hòa, do đó tố chất thường pha trộn phức tạp, thậm chí các nhân tố này có thể khắc nhau, do đó cũng ảnh hưởng nhất định tới sức khỏe, trí tuệ và tính tình của họ. Cũng vì thế, nó ảnh hưởng tới sự nghiệp của chủ nhân. Trong cuộc sống, những người hình Mộc tạp cục thường khó thành và thọ yểu.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198742_877381694_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198742)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198778_1886246266_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198778)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198762_20193410_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198762)

DangHuyAnh
15-05-13, 16:35
PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ NGƯỜI HÌNH KIM

Hình Kim chính cục: Ngũ bộ của người hình Kim chính cục thường khá hài hòa. Đặc điểm chung của người hình Kim chính cục là: Lông mày và mắt thanh tú, giọng nói trong trẻo, xương thịt cứng rắn, da dẻ sáng sủa, các phần trán, quyền, mũi và Tam đình thường khá cân đối, đầu tròn, tai trắng hồng, môi đỏ, răng trắng, thân hình cân đối, râu tóc thưa thớt, bụng xệ, lưng dày và rộng, xương má nhô, ngực phẳng nhiều thịt, khi hành động, cơ thể tương đối vững chắc, bàn tay đầy đặn, tiếng nói trong và sắc. Nếu khí sắc trắng hồng chủ quý về nghiệp văn, đây là tướng của các bậc đế vương dựng nước, làm hưng thịnh đất nước hoặc chí ít cũng là người đại phú. Nếu sắc khí đen nhuận chủ đại quý về nghiệp võ, chủ nhân thường là đấng trượng phu dẹp yên thiên hạ. Người hình Kim thường là những người có tinh thần kỷ luật và khá nghiêm khắc, tinh lực dồi dào, sung sức, họ cũng là những người có tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, chính vì vậy trong cuộc sống họ thường khá vất vả. Những người này thường chỉ thành công ở mức độ vừa phải. Người hình Kim kỵ mũi nhọn, kỵ khí sắc nhợt nhạt như xương khô, những người như vậy chủ về bần hàn. Người hình Kim cũng kỵ mũi và tai nhỏ, những người như vậy dù có thành công song cuộc sống của họ khá truân chuyên. Người hình Kim kỵ tiếng nói lanh lảnh, người như vậy thành ít mà bại nhiều. Ngoài ra, người có sống mũi lộ đốt xương cũng là người có tướng không đẹp, người có đặc điểm này thường có tính tình nóng nảy, xung khắc người thân. Người hình Kim kỵ khí sắc khô, tối, những người như thế thường là người chủ quan khinh địch. Đặc điểm chung của người hình Kim là dũng cảm, hay giúp đỡ mọi người, suy nghĩ và hành động khá thực tế, đáng tin cậy, có thể làm công chức hoặc làm nghề tự do. Nữ giới thuộc hình Kim được coi là “Hổ diện”, họ là những người có trí tuệ tài ba, thông minh, năng động, chắc chắn sẽ thành công. Tuy vậy, họ cũng là những người xung khắc nhiều người, trừ những người có giọng nói yếu ớt. Bạn đọc có thể tham khảo thêm về vận số của người hình Kim ở phần cá tính của người hình Kim (Chú giải: Căn cứ vào ngoại hình và thể chất, người hình Kim có thể chia thành: Thuần Kim, sinh Kim, sa Kim, tạp Kim, những người thuộc hình Kim khác nhau thì vận mệnh của họ cũng khác nhau).

Hình Kim kiêm Mộc cục: Người hình Kim kiêm Mộc cục thuộc Ngũ hành tương khắc. Người thuộc hình này gương mặt vuông vức, thân hình cao lớn, mũi thẳng, miệng và tai đẹp, mắt đẹp có thần, lông mày và râu thanh tú, khí sắc trắng xanh được coi là hình Kim kiêm Giáp Mộc. Những người hình Kim kiêm Giáp Mộc thường là những người có tài, thông minh lanh lợi, có chí khí và khá mạo hiểm, quý về cả văn nghiệp và võ nghiệp. Tuy vậy, thời trẻ họ thường gặp nhiều khó khăn trắc trở, phải đến tuổi trung niên trở đi mới có được thành công. Thân hình và khuôn mặt gầy nhỏ và lộ xương được xếp vào hình Kim kiêm Ất Mộc, những người như vậy chỉ được thành công ở giới hạn nhất định mà thôi. Hình Kim kiêm Mộc cục kỵ gương mặt như trống cơm (Ngũ nhạc, Ngũ tinh không rõ), người như vậy thường xung khắc Lục thân, số long đong, đoản thọ.

Hình Kim kiêm Hỏa cục: Người hình Kim kiêm Hỏa cục thuộc Ngũ hành tương khắc hóa cách. Người thuộc hình này thường có khuôn mặt vuông vức, đỉnh đầu nhọn, tai nhọn, sắc mặt trắng hồng, râu và lông thanh mỏng, hai mắt có thần thái, trí tuệ hơn người, năng động, thông minh, tuy nhiên, tính tình thường nóng nảy, trường hợp này được gọi là Hỏa luyện Kim. Những người thuộc hình này thường sớm cô quả, bần hàn, thường chỉ phát ở tuổi từ 35 đến 45, nếu sống vào thời loạn lạc sẽ có được thành công do xã hội, nếu thời thế thuận sẽ khó được phú quý nhưng có thể có được danh lợi. Người hình này nếu có khuôn mặt nhọn, mũi nhọn ít thịt, Niên thọ nhô xương, mắt lộ rõ thần thái, tai lộ vành, sắc mặt tối được coi là tướng kiêm nhiều Hỏa, Kim và Hỏa tương khắc không hóa cách được. Những người có tướng lý Hỏa vượng Kim dung cả đời gặp nhiều gian nan trắc trở, không nghèo cũng chết yểu.

Hình Kim kiêm Thổ cục: Người hình Kim kiêm Thổ cục thuộc Ngũ hành tương sinh hóa cách. Đặc điểm chung của những người thuộc hình này là: Khuôn mặt vuông, lưng dày, vai ngang, bước đi chậm chạp, thân hình tròn lẳn, vạm võ, Ngũ quan cân đối, thần vượng khí túc, sắc mặt nhuận vàng, tính tình trung nghĩa, cẩn thận. Người Canh Kim kiêm Thổ cục nếu sống trong thời thế hòa bình sẽ được hưởng đại phú đại quý, nếu không cũng được danh cao vọng trọng và thọ cao, nếu sống vào thời loạn, phú quý và danh lợi sẽ giảm đi nhiều phần. Người thuộc hình Tân Kim kiêm Thổ cục chủ tiểu phú, tiểu quý. Người thuộc hình này nếu lưng cao, đầy đặn, mặt có nhiều thịt, Ngũ quan bình thường, giọng nói thấp, sắc mặt vàng xạm, kiêm quá nhiều Thổ, thuộc Ngũ hành tương khắc, không hóa cách thường có trí tuệ không cao cường, phải sống trong môi trường không mấy thuận lợi, cả đời khó phát đạt. Những người này nếu Ấn đường khuyết lõm hoặc có nốt ruồi là Thổ kiêm Hỏa, trong cuộc sống họ thường phải lo lắng khôn nguôi. Khi về già, họ sẽ có được thành công, tuy nhiên, họ không có uy quyền, vì thế, họ chỉ thích nghi với các ngành nghề mới. Người có bàn tay mỏng, ngón tay nhỏ, tiếng nói trầm đục thường là người vụng về, cả đời khó phát đạt, khó thành công, dễ thất bại, đặc biệt những người thuộc Tân Kim.

Hình Kim kiêm Thủy cục: Người hình Kim kiêm Thuỷ cục thuộc Ngũ hành tương khắc. Người thuộc hình này thường có khuôn mặt vuông vức, đầy đặn, sắc mặt đen bóng hoặc trắng sáng, cả đời được hưởng phúc dày. Đặc điểm chung của những người này là bước đi nhẹ nhàng như thanh vân, có thể thành công trong võ nghiệp. Người hình này nếu sống vào thời loạn chủ quý về nghiệp võ, có thể làm quan tư chính, nếu sống vào thời bình thường dựng được nghiệp võ trên cơ sở tài văn, vận số của họ khá may mắn, thường gặp thời mà dựng nghiệp. Nếu thịt nhão, khí hư, sắc khí u tối coi như kiêm quá nhiều Thủy, trường hợp này thuộc Ngũ hành tương khắc không hóa cách, những người như vậy thường kém may mắn, đặc biệt những người Tân Kim càng khó gặp may.

Hình Kim tạp cục: Người hình Kim tạp cục ngoài đặc điểm có thân hình ngay thẳng, đầy đặn ra, Ngũ bộ của họ thường có đặc điểm riêng, cá tính phức tạp, khó nhận biết. Những người kiêm các loại tạp cục khác nhau thì đặc điểm và cá tính cũng khác nhau. Người hình kim tạp cục thường kiêm từ 2, 3 cục trở lên, thậm chí kiêm trùng cục, như: Hình Kim kiêm Hỏa Hỏa Mộc Mộc cục. Do các tố chất của người mang tạp cục nói chung không thể hòa hợp được với nhau mà thường tương khắc với nhau, nên nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, trí tuệ và cá tính, kéo theo những ảnh hưởng nhất định tới thành công cũng như tuổi thọ của họ.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198635_430969269_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198635)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198714_1538506551_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198714)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198695_1854356854_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198695)

DangHuyAnh
15-05-13, 16:38
PHÂN TÍCH TƯỚNG LÝ NGƯỜI HÌNH THỔ

Hình Thổ chính cục: Đầu tròn, đỉnh đầu ngắn, lưng cao, da dày, người ngắn, eo tròn, vùng quai hàm rộng và dày, tai to, môi dày, Địa các vuông đầy, Ngũ nhạc hướng vào nhau, bước đi vững chắc, giọng nói chậm và từ tốn, tóc dày lông rậm, mũi đầy đặn, đốt xương tay to dày, giọng nói trầm và chậm là đặc điểm chung của những người hình Thổ. Người hình Thổ mà khí sắc vàng nhuận là số được giàu sang, thọ cao. Người thuộc hình Thổ chính cục là số phát đạt, nếu là tướng nữ giới thì vượng phu hưng gia - lợi chồng ích nhà. Tuy nhiên người hình Thổ kỵ sống mũi nhô xương, cổ có yết hầu, đặc biệt kỵ những người có râu rậm, vì những người như vậy tính tình nông nóng nhưng khá ngang bướng. Ngoài ra, người hình Thổ còn kỵ giọng nói đục tạp, rè rè, vì những người như thế rất khó phát đạt. Người hình Thổ nên làm kinh doanh, càng kinh doanh càng phát đạt.

Hình Thổ kiêm Mộc cục: Người hình Thổ kiêm Mộc cục thuộc Ngũ hành tương sinh hóa cách. Những người thuộc hình này thân hình không cao lớn, không lộ xương, gân được xem là hợp cách, nếu phạm phải một trong các đặc điểm nêu trên thì được coi là Thổ bị Mộc khắc, những người phạm tướng này khó phát đạt hay thọ cao. Nếu Ất Thổ kiêm Mộc thì trong cuộc đời chủ nhân có thể thành công, nhưng là thành công nhỏ. Nếu kiêm cả Kim thì chủ nhân có thể đạt được thành công ở mức trung bình. Nếu người hình Thổ mà râu tóc rối bời, thần thái u tối, khí sắc lạnh, gương mặt xanh xám, thanh thấp âm phá, Lục phủ không rõ, Ngũ quan không đẹp được coi là tướng không hóa cách, những người như vậy tính tình thường không tốt, trong sự nghiệp thành công thì ít mà thất bại thì nhiều, thường gặp khó khăn trắc trở, số không được dựa dẫm người thân.

Hình Thổ kiêm Hỏa cục: Người hình Thổ kiêm Hỏa cục thuộc Ngũ hành tương khắc. Những người thuộc hình này gương mặt trên thon nhỏ, dưới đầy đặn, da thịt hồng hào, Ngũ quan đầy đặn, khí sắc có thần, râu lông đẹp đẽ, ngồi vững như bàn thạch, đứng hiên ngang như trụ cột, tính tình trung hậu, trọng nhân nghĩa, số ban đầu vất vả, khi về già được hưởng hậu phúc. Người Mậu Thổ thuộc tướng đại phú quý, người thuộc Kỷ Thổ là tướng tiểu quý. Sắc mặt khô khan và kiêm Hỏa nhiều thuộc tướng không hóa cách, chủ nhân thường là người tham lam nghèo hèn, do ngu muội mà thất bại, cả đời gặp nhiều gian lao sóng gió, luôn phải lo lắng không nguôi, sống đơn độc đến già. Nêu màu da xấu, chủ nhân cả đời bần hàn vất vả.

Hình Thổ kiêm Kim cục: Người hình Thổ kiêm Kim cục thuộc Ngũ hành tương sinh hóa cách. Người thuộc hình này thường có khuôn mặt vuông vức, sắc mặt trắng hồng, Ngũ quan đầy đặn, mà trong Thổ tàng Kim, số tay trắng dựng nghiệp, được hưởng phúc trạch, phú quý bậc trung, sắc mặt trắng lạnh, quá nhiều ria, thần thái hư trầm, trung khí không đủ, kiêm quá nhiều Kim, Kim nhiều Thổ hư được coi là không hóa cách, chủ nhân thường nhiều bệnh tật, không được khỏe mạnh, những người thuộc hình này thì dù Mậu Thổ hay Kỷ Thổ đều khó phát đạt.

Hình Thổ kiêm Thủy cục: Người hình Thổ kiêm Thủy cục thuộc tương khắc hóa cách. Người thuộc hình này thân hình khác người, đầu mặt tròn nhỏ, Ngũ quan đầy đặn, khí sắc đen nhuận được coi là Thổ kiêm ít Thủy, vạn vật sinh sôi, người như vậy số gặp thuận lợi từ thủa thanh thiếu niên, thường được giàu sang phú quý. Nêu đầu, mặt và Ngũ quan quá tròn, mắt to lộ thần, khí túc thần mờ, sắc mặt đen xạm thì được coi là Thổ kiêm nhiều Thủy, trong Nhân tướng học được xếp vào Ngũ hành tương khắc, dù Mậu Thổ hay Kỷ Thổ chủ nhân cũng khó gặp may, trong người có tật bệnh. Nếu sắc mặt nhuận vàng, mắt to mà không lộ thần thì chủ nhân sẽ được thành công nhưng ở mức độ vừa phải, đủ cơm ăn áo mặc.

Hình Thổ tạp cục: Người hình Thổ tạp cục thường có phần trán đầy đặn, ngoài những đặc trưng bề ngoài ra, cá tính của họ không rõ mà tàng ẩn. Ngược lại, mức độ kiêm các cục Mộc, Hỏa, Kim, Thủy và tính tình cũng khác nhau, rất khó có thể xếp vào dạng hình Thổ kiêm cục nào, mà thường là kiêm từ 2, 3 cục trở lên, thậm chí là kiêm trùng cục như: Thổ hình kiêm Mộc Mộc Thủy Thủy cục. Người thuộc hình Thổ tạp cục do các tố chất khó hòa hợp với nhau, nên có thể khắc nhau, do đó cũng có những ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe, trí tuệ và cá tính của họ. Trong cuộc sống, những người hình Thổ tạp cục thường khó thành và thọ yểu.
(Trích Nhân Tướng Học - Thiệu Vĩ Hoa).
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198807_1944289943_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198807)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198846_735955307_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198846)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198821_246815051_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198821)
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/15/15/33/786198835_1350208274_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/786198835)

DangHuyAnh
17-05-13, 10:10
Giải trí.


Ảnh ảo 3D
Rất thịnh hành ở thập niên 90, những thế hệ 8x ai cũng từng chơi trò này khá thú vị nhưng chơi nhiều quá cũng không lợi. Không ít người đã bị tật ở mắt như lé, loạn thị hoặc thần kinh nhẹ như ảo tưởng ...
Vì vậy giải trí thôi, đừng xem nhiều không có lợi cho mắt.

Các phương pháp
1. Phương pháp Alpha

Để ảnh cách xa mắt 20-30 cm, nhìn xoáy sâu vào một điểm của ảnh như nhìn qua một tấm gương. Hãy giữ cái nhìn đó một lúc tới khi mắt bạn có ấn tượng về độ sâu của ảnh

2. Phương pháp Beta

Hãy để mặt ảnh ngay sát mắt, nhìn sâu vào một điểm. Sau đó từ từ đưa ảnh ra xa, mắt vẫn luôn luôn theo điểm định hướng. Với khoảng cách lớn dần, ảnh sẽ từ từ hiện lên

3. Phương pháp Gamma

Tập trung nhìn vào một vật bất kỳ gần bạn. Đưa ảnh tới sát vùng nhìn thấy của bạn mà không thay đổi ánh mắt. Ảnh sẽ dần hiện

4. Phương pháp Omega

Hãy nhìn vào ảnh và tìm cách làm hiếng mắt. Khi mắt bạn giữ được tình trạng hiếng, ảnh chắc chắn sẽ hiện lên

http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/17/08/59/788243472_31342905_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/788243472)

Khuyến cáo: hình này dành cho những ai đã biết nhìn ảnh ảo rồi, nếu bạn định tập nhìn trên màn hình máy tính thì rất có hại cho mắt của bạn đấy! In ra và nhìn thử xem.


Vẽ lại những hình có ý nghĩa.

http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/17/08/59/788243639_1090504514_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/788243639)

Trò chơi nối những nét, chấm thành những hình có ý nghĩa.
ví dụ: tiểu sinh nhìn thấy có một con rắn.
Cố gắng nhìn cả tấm hình nhé.
http://d.f18.photo.zdn.vn/upload/original/2013/05/17/08/56/788239469_2010015561_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/diathien_hoathien/788239469)

Trò này cũng giống như trên, nhưng hơi khó hơn vì nó là những ngôi sao và có yếu tố không gian.
vd: tiểu sinh nhìn thấy một con ngựa đang phóng lên.

Hãy cho trí tưởng tượng bay xa. :761:

DangHuyAnh
23-05-13, 14:22
THẦN KHÍ SẮC

ĐẠI CƯƠNG VỀ THẦN KHÍ SẮC

Thần, Khí, Sắc là ba ý niệm đặc biệt của tướng học Á Đông, rất khó lĩnh hội .

Xưa nay các sách tướng đều nói đến Thần, Khí, Sắc đều cho rằng Thần, Khí, Sắc tuy phân ra làm ba nhưng thực ra là một. Về cách quan sát ,người thường nói xem Thần tại mắt, khí ở nội tạng và phát thành âm thanh còn sắc ở ngoài da. Nhưng đó chỉ là một cách diễn tả khái quát không bao hàm đầy đủ mọi khía cạnh cần thiết .Đi sâu vào chi tiết, Thần, Khí, Sắc rất phức tạp, hàm hỗn và tương quan mật thiết .Tách rời Thần ,Khí ,Sắc ra từng phần riêng rẽ chỉ là một cách mổ xẻ máy móc để tiện trình bày mà thôi. Phần dẫn nhập này tóm tắt một cách khái quát những điểm trọng yếu trước khi cố gắng phân tích chi tiết từng thành tố Thần, Khí, Sắc trong tướng học .

Sở dĩ tướng học Á đông xem Thần, Khí, Sắc là một vì đó là ba dạng thức khác nhau, nhìn dưới những khía cạnh khác nhau của dữ kiện duy nhất, có tính cách siêu vật thể hơn là vật thể của con người .

Theo tướng học, chính dữ kiện đó đã tạo nên tinh hoa, hoạt lực nội tại và các yếu tố tâm linh của con người. Người Á Đông, vốn thấm nhuần truyền thuyết âm Dương Ngũ hành, dưới khía cạnh vật là một thứ khí trong khi kết hợp và biến hóa đã tạo ra vạn vật, trong đó có con người. Nếu nói đến bản thể của khí trong con người là nói đến bản thể của khí âm Dương Ngũ hành trong vũ trụ đã hội nhập vào con người từ lúc thọ thai kết hình và cùng với nhục thể tạo thành một khối duy nhất đó là con người .

Như vậy ,trong con người ta có thể tạm nói khí là một thứ nhựa sống vô hình, nếu thể hiện qua đầu mày đuôi mắt thì gọi là thần hiện ra một nơi, cố định trên làn da thành ra màu sắc thì gọi là sắc. Do đó, Thần ,Khí ,Sắc tuy ba nhưng xét về bản chất thật ra là một và có tính cách bất khả phân trong thực tế. Nói cách cụ thể hơn, Thần ,Khí ,Sắc có thể ví như ba trạng thái khác nhau như thể hơi ,thể lỏng ,thể đặc của nước :thể hơi là thần, thể lỏng là khí ,thể đặc là sắc. Thể lỏng là thể thông thường căn bản của nước nhưng thể hơi và thể đặc không bao giờ hoàn toàn tách rời ra khỏi thể lỏng cũng như thần và sắc không bao giờ tách ra khỏi khí.

Trong phần khí, ở khía cạnh cấu tạo (structual) nhìn dưới vị thể tĩnh nghĩa là khi con người bất động ,ta có thể quan sát được là khí mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,tốt hay xấu. Vì vậy ,nhiều dưới khía cạnh này, giữa khí và sắc có sự tương quan mật thiết trong tướng học người ta thường gộp chung thành một mà gọi là khí sắc với ngụ ý rằng trong việc quan sát khí thì khí chỉ được nói đến một cách gián tiếp còn sắc mới là trọng điểm .Chính vì thế mà sáchThủy kính tập gọi nó là khí sắc chi khí.

Trong vị thế động của con người, và dưới khía cạnh cơ năng(fone-tionnel), qua các tác động của thân hình, ta thấy có thể phát hiện những cá tính đặc biệt, những đặc điểm tâm hồn từng cá nhân. Dạng thức này của khí được mệnh danh là khí phách.

Tác giả Phạm Văn Viên của cuốn Thủy kính tập là người đầu tiên đặt ra danh từ khí phách để phân biệt với khí và sắc khi ông nói :”khí phách chi khí” và "khí sắc chi khí ” .Trong tác phẩm của ông , phần màu sắc của da bị xem nhẹ ,còn phần thần lại được chú trọng rất nhiều và xem như là liên kết chặt chẽ với khí . Do đó ,đôi khi ta gọi là khí phách, ta lại gọi chính danh hơn là tinh thần và khí phách, và để cho giản tiện ,người ta gọi tắt là thần khí. Chính phần thần khí này mới là phần cao thâm của tướng lí Á Đông, nó giúp phân biệt được quý tiện hiền ngu, dự đoán được thành bại của con nguời trong tương lai cũng như mạng vận dài ngắn ,thô bạo hay thanh khiết .

Từ trước đến nay ,thần khí vì tính cách hư hư thực thực của nó,vừa có bản chất là siêu hình vừa có bản chất là thực tại, lại đòi hỏi người quan sát phải có một nhãn quang và thính giác bén nhạy đã được xếp vào loại học thuật bí truyền. Hơn nữa, cách diễn tả của nguời xưa lại rất hàm hỗn cố ý thần bí hóa và lại không được phổ biến sâu rộng như phần hình tướng, nên từ đời Đông Hán đến gần đời Tống gần như bị thất truyền. Đến hai đời Minh,Thanh ,một vài cuốn sách tướng cổ điển có nhắc đến, nhưng không mô tả.

Mãi đến đời Thanh ,sách Thủy kính tập mới lại đề cập đến ,nhưng vẫn chưa rõ ràng cho lắm .Tuy vậy ,xét qua mớ tài liệu rời rạc tản mát trong kho tàng văn hóa tướng học còn lưu lại đến nay cộng thêm với một đoạn bình chú của tướng thư ta có thể suy diễn ra được một phần lớn những điều cổ nhân muốn gói ghém qua ý niệm khí phách.
(tổng hợp)

Vậy để nhận biết được thần khí sắc thì cần thực hành liên tục và được nghiệm chứng đầy đủ mới mong tăng tiến trong việc xem tướng ở trường phái này.
Ở Nhóm Nhân Tướng Học Thực Hành các anh chị đã bắt đầu nhận ra được khí và sắc nên tạo ra không ít điều vui và bất ngờ cho những người đến nghiệm chứng.

DangHuyAnh
23-05-13, 14:44
THẦN

I –Ý NIỆM VỀ THẦN:

“Thần” là một khái niệm căn bản của tướng học Á Đông, nhưng lại là một ý niệm rất khó diễn tả. Một phần vì người xưa học tướng theo lối tâm truyền, lấy trực giác và kinh nghiệm để lĩnh hội dần dần nên không cần và có thể nói là không thể diễn tả đầy đủ, một phần là nếu vài ba cuốn tướng học cổ điễn tả thì lối diễn tả đó vừa mơ hồ vừa huyền bí khiến người đọc bị hoang mang như lạc vào mê hồn trận. Thật sự, bản chất của thần không có gì là hoang đường, cũng không đến nỗi khó lĩnh hội cho lắm.
Đến giúp hiểu được ý niệm thần trong tướng lý Á Đông , ta lấy ý niệm thần theo một khảo hướng thực tiễn, ngược lại với lối diễn tả huyền bí của sách vở cổ điển bằng cách đưa ra nhiều ví dụ cụ thể trước khi đi vào phần định nghỉa lý thuyết.

Trong đời , hẳn mọi người đều có dịp quan sát lắm cặp mắt có nhãn lực đặc biệt khó quên. Nhãn lực đó khi đầy ác khiến kẻ nhìn phải khiếp sợ, có khi đầy vui tươi khiến kẻ nhìn quyến luyến. Những loại ánh mắt đó gọi là ánh mắt có thần. Ngược lại, cũng có nhiều đôi mắt ảo não, xa xăm, lờ đờ, thiếu sinh lực, hoặc không gây một cảm giác nào cho người quan sát đó là những ánh mắt thiếu thần.

Có những tư thế đi, đứng, ngồi chững chạc, ổn trọng tự nhiên, tạo một cảm giác uy nghi khả kính: đó là những tác phong có thần. Có nhiều giọng nói chanh chua gây tức giận, hoặc hùng hồn làm cho hân hoan phấn khởi, hoặc trong trẻo, êm dịu truyền cảm, khiến người nghe như bị thu hút bàng hoàng: đó là hợp âm thanh có thần .

Một phụ nữ nhan sắc có hấp lực lôi cuốn sự chú mục không ngừng , khiến mọi người phải nhìn, nhìn hoài không chán, hoặc lúc nhìn mà động lòng ham muốn hay tấm tắc khen ngợi: đó là nhan sắc có thần.
Cũng có phụ nữ không mấy xinh đẹp nhưng cách đi, cách đứng, giọng nói, nụ cười đều toát ra vẻ thùy mị, đoan trang khiến con người sinh lòng cảm mến cũng là loại người có thần.

Trong đoàn vũ công dang biểu diễn, có người diễn xuất nổi bật hơn hết khiến cho khán giả thấy được ý nghĩa của điệu vũ qua cử chỉ, vũ công đó có thần trong điệu vũ.
Những cụ già dù gần đất xa trời, nhưng vẫn còn đầy vẻ quắc thước, nghiêm phong, dũng liệt là những kẻ có thần.
Những trẻ em nhìn vào là thấy ngay tướng thông minh, đĩnh độ cũng là hạng người có thần.

Những ví dụ trên cho thấy thần được biểu lộ không những ở đôi mắt mà còn trên toàn thể khuôn mặt, trong phong thấy, giọng nói, nụ cười, trong thế cử động và cả trong thế bất động của con người nữa. Thần được phát lộ rõ rệt nhất lúc vui, lúc hứng, lúc giận, lúc sợ, lúc ham muốn, lúc cãi cọ. Lúc thuyết phục, lúc đấu võ, lúc đánh kiếm.

Tóm lại , bất cứ lúc nào con người thoát khỏi trang thái bình thường mà toát ra những nét khác biệt kẻ phàm, trong ánh mắt, tướng đi, đứng, nằm, ngồi, cười thì đó vẫn là người có thần. Chính trong trạng thái bình thường ta thấy thần khó được lý hội nhất. Người xem tướng bao giờ cũng gặp phải đối tượng và trang thái này.

Những ví dụ và sự diễn tả trên cho phép ta địng nghĩa thần như sau: Thần là âm hưởng nhận thức được trên các nét tướng con người, là tiếng dội trong tâm hồn người xem tướng của những nét tướng quan sát được, chỉ những nét tướng nào tạo được những cảm giác, cảm tướng, cảm xúc, dư âm trong tâm tư người xem tướng thì mới là những nét tướng có thần. Trái lại, những nét tướng nào không có ý nghĩa, không gây một chấn động nào trong tâm tư, không có gì khác biệt với thiên hạ là những nét tướng thiếu thần. Những nét tướng lộ thần rõ rệt (như sát khí trong ánh mắt, sự thô bạo của cử chỉ, tiếng nói lớn, giọng cười to) thì bất cứ người phàm nào cũng quan sát được. Nhưng có những nét tướng không lộ thần một cách rỏ rệt đối với người phàm thì chỉ có nhà tướng thuật thượng thừa mới tra xét được thần khí mà thôi. Như thế, quên chuẩn nhận thức thần là trực giác riêng của thần tướng , Đây hiển nhiên là tiêu chuẩn hết sức chủ quan và cá biệt. Việc khảo sát thần sở dĩ khó là vì lí do, và sự khác nhau giữa các nhà tướng chính cũng vì nguyên nhân trên.

Đề định nghĩa giản dị hơn, thần là tinh thần. Đó là nguồn động lực tiềm ẩn trong con người, kết tinh từ sự ham muốn, từ ý chí, từ nghị lực, từ tình cảm, từ trí tuệ, từ huyết thống, từ văn hóa được phát lộ ra ngoài, ít hay nhiều, mạnh hoặc yếu.

Nó có thể tiềm ẩn hoặc phát lộ, khang kiện hay suy nhược. Xem thần là xem tinh thần, xem nội tâm, xem phần chân tướng bên trong qua những nét phát biểu ra ngoài.Thường khi cái bên ngoài không gói ghém hết cái sinh động và uẩn khúc bên trong.

Vì vậy, thuật xem tướng bao giờ cũng phải cố gắng thấu đáo nội tâm thì mới đạt tiêu chuẩn. Đó là lí do tại sao khảo sát thần phải bằng mắt chưa đủ mà phải dùng đến tâm để tìm hiểu tâm. Cái khó của việc quan sát Thần là ở chỗ đó. Cái vi điệu cũng từ đó mà ra.

DangHuyAnh
23-05-13, 14:51
II - NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THẦN

1) Nguồn gốc của thần dưới nhãn quan tướng học cổ điển Thần ở đâu mà ra? Để giải đáp câu hỏi này , cổ nhân đã đưa ra lập luận sau:
Con người , bẩm thụ tinh hoa của trời đất mà sinh ra . Thần là vật vô hình , là tinh hoa tối cực của con người có trước rồi mới có hình hài . Hình hài sở dỉ có là đến chứa đưng nội thần . Do đó thần bàng bạc trong nội tang con người . Lúc ngủ thì nội thể , lúc thức thì hiện ra ở cặp mắt.
Đối với chúng ta , lập luận trên không đủ nhưng có vài điểm khả dụng . Những điểm khả dụng đó soạn giả sẽ đề cập đến ở những đoạn sau

2) Vai trò cặp mắt trong việc quan sát Thần Qua những ví dụ đan cử ở đầu phần này , chúng ta thấy thần rất bao la bàng bạc chứ không phải chỉ thu hẹp ở cặp mắt . Nhưng hẳn chúng ta đều có dịp ngắm những bức học chân dung con người , ta thấy bức họa vẽ linh hoạt hay không phần lớn là ở cặp mắt . Mạnh Tử đã từng nói :”Quan sát người thì quan sát ở cặp mắt , mắt chính đính thì tâm hồn ngay thẳng , mắt tà vay thì tâm tính cũng tà vay” .Tây phương cũng có câu:” Cặp mắt là cửa sổ tâm hồn ”. Thần là tinh hoa , là tấm gương phản ánh tâm hồn con người . Thế mà quan sát mắt (nói đúng ra là quan sát ánh mắt) ta biết được tâm hồn nên cổ tướng học nói là quan sát ở mắt, tuy chưa đầy đủ nhưng không phải là vô lý .

Vả chăng quan sát mục quang ta biết được nhiều về thần của con người hơn bất kỳ bộ vị hoặc nét tướng khác . Chẳng hạn ta có thể biết ánh mắt mạnh hay yếu , dữ hay hiền hoà , gian xảo hay thuần phúc … Do dó , ta phải thùa nhận rằng vị trí quan sát thần thuận tiện nhất là cặp mắt con người . Tuy rằng một mình nhãn thần chưa đủ
để tượng định một cách dứt khoát về thần của một cá nhân , nhưng người quan sát sâu sắc có khá nhiều dữ kiện cần thiết để giải đoán về phẩm cách và vận mạng nói chung của con người . Dân gian hay nói ” Xem quí hiển hay hạ tiện thì xem ở mắt” và ở đây ta đặt trong tâm vào việc quan sát mắt để suy luận và tìm hiểu về thần.

3) Phân loại Thần qua mục quang Trong tướng học Á Đông nói đến thần qua cặp mắt thì điểm cần đặc biệt chú ý không phải là hình dạng của mắt mà là tính chất của mục quang . Quan sát mục quang gúp ta phân loại được các loại Thần của con người và định được sự tương quan hợp nhãn thần với công danh sự nghiệp của một cá nhân . Đại để , căn cứ vào mục quan ta phân biệt được :

- Thần tàng
Đây là nét thượng thừa cách về nhãn thần . Thần tàng có nghĩa lá ánh mắt sáng sủa giữa không rực rỡ tương tự như một hạt ngọc ở trong tư thế an tĩnh phát ra ánh sáng nhưng ánh sáng đó ở cặp mắt có tính cách phảng phất , nhẹ nhàng , thoáng qua như không có nhưng nhìn kỹ , ngắm lâu ta mới phát hiện được . Loại nhãn thần ẩn tàng này rất hiếm nhưng kẻ có loại nhãn thần này lá dấu hiệu chác chắn thành đạt được đại nghiệp , hưởng phú quí lâu dài.

- Thần lộ
Ngược lại với Thần tàng thì gọi là Thần lộ . Lộ ở đây không những tròng mắt lồi ra để lộ cả tròng trắng mà ánh mắt cũng quá lộ liễu tựa như cọp nhìn con mồi chằmchằm , ánh mắt sáng rực tựa bao nhiêu tinh anh của con người đều theo ánh mắt mà tiết ra ngoài . Đó là đều đã được Nguyễn Du tả qua hai câu thơ trong Đoạn TrườngTân Thanh:

Tinh anh phát tiết ra ngoài Ngàn thu bạch mệnh một đời tài hoa

Dưới nhãn quang tướng học , thần lộ là kẻ tinh hoa phát tiết chủ về gin tham hình khắc , có may được quý hiển thì cũng chỉ được một quảng thời gian ngắn rồi lại lụi tàn . Số thọ cũng không được dài vì tinh hoa lộ thì thần mau kiệt mà thần là căn bản của thọ mạng .

- Thần tĩnh
Thần tĩnh ở đây có nghĩa là mục quang sáng sủa tự nhiên hiền hòa không nôn nả , giống như mặt nước mùa thu , nhưng thoáng thấy rồi lại không thấy rõ , nhìn thật lâu lại thấy rõ. Nói một cách khác , thần tĩnh chính là lối gọi tinh thần thư thái nhàn hạ thì hiện qua ánh mắt . Người có loại thần tĩnh tâm tính nhân từ không hiểm độc , cuộc đời thanh nhàn , ít sóng gió .Đó là tướng học loại người thanh quí.

- Thần cấp
Thần cấp là loại ánh mắt phát sáng phát động không ngừng giống như một hỏa diệm sơn phun lửa liên miên .Đó chính là loại mục quang của loại mắt jhỉ , trông thoáng qua là nhận ra ngay tính tình nóng nảy , khích động . Nếu ngôn ngữ , đi đứng , ăn nói đều có dáng vẻ gấp gáp thì kẻ đó sớm phát đạt nhưng cũng mau tàn.

- Thần uy
Khuôn mặt lúc mở lúc , khi thu nhỏ , mục quang có oai lực tự nhiên khiến người khác nhìn vào cảm thấy kiên nể . Loại nhãn thần này là dấu hiệu của hạng người làm nên sự nghiệp phi thường . Chẳng hạn như cặp mắt của nhà độc tài Đức quốc xã A.Hitler, khi nhìn ai cũng như chế ngự kẻ đó khiến kẻ đối diện chỉ biết cúi đầu khuất
phục.

- Thần hôn
Đó là loại mục quang mờ mịt , ánh sáng yếu ớt gần như không có , đại khái như mắt heo , mắt cá ( xem phần nói về các loại mắt điển hình trong tướng học ) Loại mắt này tượng trưng cho cá tính ươn hèn suốt đời không làm nên chuyện gì thường chết yểu.

- Thần hoà
Loại mục quang này phần nào giống như loại thần tĩnh nhưng khác ở chỗ thầ tĩnh chỉ về sự ổn cố thanh thản còn thần hoà là ánh mắt chẳng những hiền dịu thường xuyên mà khuôn mặt sắc thái lúc nào cũng tươi vui lạc quan , dù lúc giận dữ cũngkhông mất vẻ từ ái ,chẳbng hạn cặp mắt của bức tranh ông Thọ của người Trung Hoa hay Phật Di Lặc trong các chùa chiền .Về mặt cá tín . người có ánh mắt xếp vào loại thần hoà tâm tính lúc nào cũng hồn nhiên bất chấp ngoại cảnh , không bao giờ mưu tính hại người .Về mặt mạng vận . ít khi bị lâm vào cảnh nguy hiểm ngặt nghèo , không quý hiển thì cũng không bao giờ đói rách , khốn khổ .

- Thần kinh ( hay còn gọi là thần khiếp )
Mục quan lúc nào cũng hớt hải lấm lét như đại họa sắp tới dù rằng thực tế không có gì đáng sợ . Đó là tình trạng của ke có tâm hồn bất định , ăn uống , nằm ngồi lúc nào cũng có vẻ bồn chồn , hốt hoảng bất an . Kẻ có mục quang như thế , công danh sự nghiệp hoặc thọ số không được bền lâu , thường nửa đường gãy đổ.

- Thần túy
Ánh mắt hôn mê , lúc nào cũng như người ngái ngủ ( xem lại Túy nhãn trong chương nói về mắt ).Loại người có mục quang này tâm tính hồ đồ , thiếu sáng suốt , thường dễ bị ngộ độc ( ẩm thực , sắc dục …) mà chết hoặc tiêu tan danh vọng sự nghiệp.

- Thần thoát
Ánh mắt thất thần , sắc mặt thẫn thờ . Đó là trường hợp thường thấy ở những người gặp lúc kinh hoàng tột độ thì mặt thộn ra , chân tay cứng đờ tựa như lúc thấy ma. Nếu chỉ xảy ra trong trường hợp bất thường quá đột ngột thì đó la dấu hiệu của tin thần yếy đuối bạc nhược , không tự chủ được . Nhưng nếu không vì sự kinh hoảng mà bỗng nhiên mục quang thất thần thì lại là dấu hiệu tinh lực khô kiệt báo hiệu thọ số sắp đứt đoạn.

DangHuyAnh
23-05-13, 14:53
4) Phân biệt vài đặc thái của nhãn thần:
Như trên đã nói , trong khi quan sát thần người ta nghĩ ngay đến tinh hoa của con người phát hiện ra trong nhiều lãnh vữc và dưới nhiều hình thái nhưng chủ yếu vẫn là ở cặp mắt . Nói đến mắt ta không nên chú trọng nhiều lắm tới hình thể của nó ( lớn nhỏ , nông sâu , dài ngắn , rộng hẹp …) ,à phải để ý đến mục quang . Chính mục quang mới gíup ta nhận định va phân biệt được nhãn thần . Mục quang nói chung có thể ở vào một trong hai trường hơp chính.

a) Phù quang :
Đây là loại ánh mắt có vẻ sáng nổi , hời hợt , người tinh mắt có thể bằng trực giác nhận ra rằng ánh mắt tuy có vẻ sáng tỏ mà thực ra là không có thần tựa hồ như mặt trăng phản chiếu lại ánh sáng thái dương hoặc như chất lân tinh được sơn phết vào các tấm bảng chỉ đường ban đêm sáng rực khi có ánh đèn xe rọi tới.

b) Chân quang :
Ngược lại với phù quang là chân quang.Đây là loại sáng thực có sinh khí nên ánh mắt linh họat nhìn vào là thấy sống động như ánh thái dương vậy.

Trong phép quan sát thần để định quý tiện hiền ngu , chỉ có chân quang mới đáng được lưu ý còn phù quang phải gạt bỏ, vì phù quang là ánh sáng muợn hay quá yếu ớt không đủ để kết luận rằn có thần nênkhông hể dựa vào đó mà biết được hiền ngu quý tiện. Vả lại ,phù quang còn có ý nghĩa là kẻ đò sắp chết trong tương lai rất gần. Kẻ như thế còn gì đáng bàn đến .

Chân quang được chia thành bốn loại tùy theo tính chất đặc tính của mục quang như sau :

- Thủ chân ( ánh sáng thực và giữ lại được) :
Tròng mắt như vì sao sáng ,không dao động mà tự phát quang ,, lúc tĩnh thì ngưng tụ, lúc động thì bừng sáng,khiến người ngoài không dám nhìn thẳng vào mắt mình.
Người có thủ chân quang tính tình trung thực ,lương hảo danh vang thiên hạ, dù gặp nguy hiểm cũng vẫn vượt qua được.

- Hàm chân ( ánh sáng thực nhưng ẩn tàng vào mắt): ánh mắt tự phát quang giống như ánh sáng của viên ngọc quý ,nhìn kĩ mới thấy vẻ sáng ,khiến người ta cảm thấy dễ chịu, tự trong thâm tâm nảy sinh cảm giác hân hoan.
Rộng ra khi ta nhìn thấy cây cỏ suới nước xinh tươi mà thấy ấm lòng vui mắt thì cái vẻ sáng của cảnh vật là tinh hoa của núi sông .Cái đó mệnh danh là hàm quang.

Người có thần mắt thuộc loại hàm chân thì đỗ đạt sớm ,lưu lại tiếng thơm cho đời.

- Tàng chân (sáng thực nhưng không lộ liễu): ánh mắt sáng mờ mờ ,mới nhìn thì như không đủ mà nhìn lâu lại có vẻ dư.Kẻ có tàng chân mạng vận vinh hiển ,sự sang cả lưu tới đời sau nhưng phát đạt muộn.

- Hồi chân ( sáng thực mà như sẵn sàng tuôn ra): bình thường rất khó nhìn ,muốn thấy phải mở mắt thật to, lúc đó mới thấy rõ vẻ sáng .loại chân quang này thường xuất hiện trong ánh mắt những người cận thị,.Nó có thể tụ hay có thể tán ,hay lệch,có thể êm đềm nưh ánh trăng rằm ,cũng có thể như ánh sao nhấp nháy,Loại chân này nên có vẻ sáng ngấm ngầm và hơi đen ám thì mới quý

Cái quý của loại mắt có chân quang này khác hẳn với ba loại trên ,tốt xấu từng trường hợp .Những kẻ kì hình dị tuớng thành đạt đều thuộc loại này.

Tóm lại, có chân quang dù nhiều hay ít là tướng của kẻ mưu sự dễ thành ,cầu công danh sẽ đạt.Đại khái, chỉ rất về mặt Thần Khí mà đoán kẻ có mục quang thuộc loại tàng chân hậu vận phát triển tốt đẹp, sự nghiệp chắc chắn viên mãn nhưng không thoát khỏi cảnh thiếu thời bị sóng gió ,bị vấp váp rất nhiều trong cuộc đời, không được sống thanh thản bình dị như kẻ thuộc loại thủ chân và hàm chân .Phàm người ta dù các bộ vị có bị khuyết hãm ,cốt cách có vài điểm bị xếp vào loại hạ cách mà ánh mắt lúc nào cũng có chân quang bất kể lúc nào thì cũng giống như rồng thiêng lân quý ,tuy ở nơi đầm hẹp rừng tưha coi như đủ để hóa giải những khuyết điểm của hình thể và có thể đạt được phú quý vượt ra ngoài dự liệu thường tình .Đây chính là một trong nhiều bí quyết của tướng học á Đông và thuộc về nguyên lí trọc trung hữ thanh .Sách vở bàn về tướng thuật đầy rẫy các giai đoạn liên quan tới điểm tế nhị này.

5) Những điều kiện tối hảo của nhãn thần:

Nói đến nhãn thần ta không cần chú ý tới hìng dạng của mắt mà phải đặc biệt lưu ý đến mục quang .Mục quang được xem là tối hảo khi nó hội đủ 7 điều kiện sau đây :

a. Tàng nhi bất hối :

Nghĩa là nhãn thần phải có vẻ che khuất đi được, nhưng mục quang không được tối ám.Nói một cách khác rộng rãi hôn là mục quang tuy sáng nhưng là một tứh ánh sáng có vẻ hàm xúc, động trong cái tĩnh, tương tự như vẻ sáng của một viên ngọc báu tự nó có thể phát quang nhưng không rực rỡ, lộ liễu phải quan sát thật lâu mới phát hiện được .Còn hối là mắt lờ đờ như mắt ngáy nhủ.

b. An nhi bất ngu :

Mục quang ổn định nhưng không trơ trẽn bất động,Từ ngữ ổn định tự nó đã ngầm chứa tính cáhc sống động nhưng là cái vẻ sống động linh hoạt chứ không phả ial2 giao động “trơ trẽn bất động” có nghĩa là mục quang im lìm (inertie) không biểu lộ được đầy đủ sinh khí cần thiết ,không biến thông được .
Nói cách khác đi ,nhãn thần sung túc thì tự nó có vẻ sáng như một ngọn đèn điện dược thắp bằng dòng nhân điện xoay chiều có thể thu rút lại cường độ trong một giới hạn nào đó. Chẳng hạnnhư khi đàm thoại ,ánh mắt ta tuy không dao động nhưng lúc thích túh và khi cụt hứng độ sáng của mắt phải có nhịp độ chuyển biến thích nghi đủ để diễn tả được cái trạng thái tình cảm nội tâm của ta lúc đó. Trái lại, mục quang của một cá nhân lúc nào cũng cùng một cường độ dù nghe câu chuyện rẻ nhạt hay giật gân mà vẫn không có gì thay đổi thì không có thể coi là an nhi bất ngu được .Lúc đó ,mục quang của kẻ đó phải được gọi là an nhi ngu .

c. Phát nhi bất lộ :

Mục quang được coi là phát khi tia mắt như xạ ánh sánh ra ngoài nhưng mức độ phát quang của nó vừa phải, không quá mạnh mẽ rõ ràng ,chỉ người quan sát thật tinh tuờng mới phát hiện ra được. Nói khác đi ,mục quang như viên ngọc sáng giữa ban ngày, tuy phát quang nhưng ánh sáng rất mờ so với ánh sáng thái dương chứ không phải là một ngọn đuốc để bất cứ ai cũng thấy được dễ dàng.

Từ ngữ lộ có nghĩa là tròng mắt lồi ra như nhìn trừng trừng vào đối tượng quan sát , lộ cả tròng trắng .Đại để lúc mèo rình chuột, cọp chuẩn bị vồ mồi, nhìn chằm chằm vào con mồi thì lúc đó mục quang gọi là lộ.

d. Thanh nhi bất khô:

Điều kiện này đặt nặng vào việc quan sát cấu tạo của mắt về phương diện phẩm chất. Thanh có nghĩa là lòng đen ,lòng trắng cũng như đồng tử phải trong trẻo nghĩa là ranh giới ba phần đó phải phân biệt rõ ràng ,chất liệu cấu tạo phải thuần khiếtkhông được có các tia máu ,màng mắt xen lẫn vào , một khi có tất cả chất liệu cấu tạo đều thuần khiết thì nhìn vào mắt người ta có cảm giác như nhìn vào một hồ nướv sâu thẳm ,trong trẻo như các tiểu thuyết gia vẫn thường mô tả :mắt trong sáng như nước hồ về mùa thu .Đấy chính là điều tuớng học gọi là thanh vậy. Cònkhô có nghĩa là cằn cõi ,không có vẻ sống động hiện lên ở bề mặt .Mắt htanh mà khô có nghĩa là nhãn thần lạnh lẽo suy nhược ,không được kiên cố. Để dễ hiểu hơn,xin lấy 1 ví dụ cụ thể : thanh nhi bất khô ví như cây tùng ,bách về mùa đông , cốt cách thanh nhã và nhìn vỏ cây cành là vẫn có vẻ xanh tươi biểu hiện một sức s61ng tiềm ẩn bên trong. Gược lại, thanh nhi khô ví như thân cây lau sậy về mùa đông, cành lá trơ trọi, cằn cõi ,nhìn kĩ có htể biết ngay là thân cây hết nhựa ,chỉ còn hình mà mất hết chất.

e. Hòa nhi bất nhược

âm dịu nhưng không mềm yếu. Nói rộng ra mục quang được coi là Hòa nhi bất nhược khi ánh mắt sáng một vẻ êm dịu nhưng không mềm yếu, khả ái chứ không phải khả hiếp khiến nguời khác nhìn thấy có cảm tưởng một niềm vui thích muốn tiếp xúc với ta chứ không dám khinh mạn vì trong sự hóa ái đó ẩn tàng mo65t sức mạnh khiến kẻ đối diện phải nể phục trong lòng.chẳng hạn mắt các tượng Phật trong chùa ,tuy ánh mắt từ bi bác ái nhưng vẫn không nhu nhuợc ủy mị.

f. Nộ nhi bất tranh :

Lúc giận không lộ vẻ cạnh tranh ,oán tức thì gọi là nô nhi bất tranh .Tuy nhiên ,trong ý nghĩa của tướng học , ý nghĩa câu trên phong phú hơn nhiều .Nộ phải được coi là chính khí vì khi giận dữ phát xuất ra bởi một lí do thực sực chính đáng nhưng mặt không biến sắc ,chỉ hơi cau mày, ánh mắt nghiêm nghị biểu lộ một tâm hồn ày công hàm duỡng luôn luôn giữ được bình tĩnh .Có đủ các đặc tính kể trên thì mới gọi là nộ.

Còn giận mà mắt đờ ra ,mắt xạm lại ,tia mắt như tóe lửa ,nưh muốn ăn tươi nuốt sống người khác là dấu hiệu bề ngoài của kẻ khôngcó đức tính trầm tĩnh, mất tự chủ gọi là tranh .Chính vì tranh bao gồm những phản ứng có ẩn ý ăn thua đủ ,chỉ biết thỏa mãn tự ái nhất thời không nghĩ đến hậu quả về sau ,nên tranh bị xếp vào loại khí luợng hẹp hòi, biểu thị khí phách nhỏ mọn ,do đó tranh bị coi là tà khí.

g. Cương nhi bất cô:

Nghĩa đen là cứng ,mạnh mà không lẻ loi ,nhưng ý nghĩa chính yếu ở đây chỉ loại mục quang tỏa ra ánh sáng hồn nhiên oai nghi khiến kẻ khác nhìn vào phải vị nể tưởng như sau con người của ta là cả một khối đông đảo sức mạnh vô hình chứ không phải chỉ là một cá nhân đơn chiếc.

DangHuyAnh
23-05-13, 19:35
KHÍ

I- Ý NIỆM VỀ KHÍ:

So với phần Thần ,ý niệm Khí trong trong tướng học Á Đông cò khó miêu tả hơn nhiều vì nó vừa có tính cách mông lung vừa có tính cách thực tiễn. Chẳng hạn khi quan sát xương cốt của một cá nhân, ta thấy khí thế ổn trọng, dù người đó mập hay ốm, tạo một cảm giác khang kiện cho nội tạng. Hiện tượng đó được gọi là cốt khí mạnh mẽ . Nhìn vào khuôn mặt có ngũ nhạc triều quy nghĩa là trán, cằm, hia tai và lưỡng quyền phối trí hòa hợp (harmonieux) từ đó giúp ta suy ra cốt cách của cá nhân đó mạnh hay yếu thì đấy cũng gọi là cốt khí.

Quan sát lông mày, râu tóc ta thấy ba thứ lông đó đều tươi mát, thanh nhân tạo ra ấn tượng, nội tạng tốt, nhìn Tứ đậu sáng sủa có sinh khí, da thịt rắn chắc và ấm áp thì tất cả các dấu hiệu được coi là biểu hiện của khí tốt. Ngược lại, lông mày, râu tócvàng khô như cỏ úa, Tứ đậu ảm đạm, da thịt lãnh lẽo mềm bệu thì ta biết ngay là khí xấu, điều đó cũng tương tự như người quan sát chất đất ,không cần phân tích chất đất chỉ cần nhìn cây cỏ mọc trên mặt đất là đủ biết đất phì nhiêu hay khô cằn.

Nghe tiếng nói của một cá nhân ta nhận biết được làn hơi của kẻ đó mạnh hay yếu qua âm thanh phát ra: có người nói tiếng rổn rảng mạnh mẽ tựa như muốn rung chuyển cả mái ngói, có kẻ rì rào như tiếng dế kêu và ta cũng thấy rằng tiếng nói to nhỏ mạnh yếu, vang đi xa hay gần không hẳn tùy thuộc vào người tác lớn hay nhỏ, cao hay thấp mà do những nguyên do nội tạng. Nghuyên do nội tạng đặc thù của từng con người tạo ra các trang thái âm thanh kể trên được tướng học Á Đông gọi là nội khí của con người.

Như vậy ,khí trong nhân tướng học là phần thực tại nhưng vô hình ở trong cơ thể con người tượng trưng cho phần hoạt lực (vitaliré) tiềm ẩn có tính cách phẩm nhiều hơn lượng, phát hiện ra ngoài sự mạnh mẽ của xương cốt, sự thanh tú hay thô trọc của râu, tóc, lông mày, mắt mũi tai, miệng, sự mạnh yếu của âm thanh, sự rắn rỏi ấm áo hay lạnnh lẽo mềm bệu của da thịt.

Nói cách khác cụ thể hơn, khí trong con người có thể ví như nhựa cây nhưng đây là một thứ nhựa vô hình chu lưu bàng bạc khắp cơ thể toả ra hay thu gọn lại, mạnh mẽ hay suy yếu, thanh hay trọc, tiến triển hay giảm thiểu tùy theo từng thời kì từng cá nhân.

Vì hiểu vậy, người xưa coi khí là phần bản thể trong các bộ phận trong nội thể con người, nó vừa có tính cách siêu hình vừa có tính cách vật thể.

Với tính cách siêu hình , khí trong con người là một phần khí của âm Dương Ngũ hành bàng bạc trong vũ trụ hội nhập vào con người, lúc thọ tinh kết thể, nương vào con mà hình thành nên tượng, khiến cho ta có thể cảm thấy hay nhận thức được. Chẳng hạn khi Mạnh Tử nói : "Thiên dưỡng nhiên hao chi khí " (ta cần phải khéo bồi dưỡng cái khí hạo nhiên của mình), thì khí trong câu nói trên là khí tự nhiên của trời đất thể hiện nơi người, không mấy liên hệ tới ý nghĩa vật thể mà lại nặng về phầntiên nhiên siêu hình.

Với tính cách vật thể, khí phần nào được cụ thể hóa bằng hơi của buồng phổi, tinh khí của con người. Âm thanh hùng tráng trong trẻo, khàn đục không là do buồng phổi lớn hay nhỏ, người lớn hay nhỏ con, tính khí mạnh yếu không phải do người bề ngoài lớn hay nhỏ thó. Nguyên động lực của các âm thanh tinh khí, theo người xưa là do khí mà ra. Bởi vậy, hình thể khôi ngô, hùng vĩ khỏe mạnh không hẳn là đã chứa đựng khí hùng mạnh. Ngược lại ,dưới nhãn quang tướng học á Đông, thân thể nhỏ bé không bắt buộc coi là khí yếu .

Tóm lại, khí trong nhân tướng học Á Đông là một ý niệm đặc thù dùng để chỉ cái bản thể siêu nhiên vô hình,ta không thể dùng thị giác để nhận biết trực tiếp ,nhưng có thể nhận thức được sự hiện diện của nó nơi con người qua các tác dụng của nó hay dưới khía cạnh cấu tạo cơ thể như sự cứng cáp đắc thế hay lệch lạc của xương cốt ,sự mạng yếu của âm thanh hay dưới khía cạnh động tác này , khí luôn luôn không thể tách khỏi thần và cho ta biết được sự kiện khang của thân thể, cái cá tínhtâm hồn của con ngưòi nên thường được các tướng học gia mệnh danh là thần khí để phân biệt với hiện tượng khí đi kèm sắc để đoán cát hung, bệnh trạng (được gồm chung thành ỳ ngữ duy nhất là khí sắc). Đó là ý nghĩa của khí khi người ta nói đến sát khí , uất khí , khí phách, khí chất.

II- VAI TRÒ CỦA ÂM THANH TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU KHÍ:

Như đã nói ở trên , khí trong con ngừơi biểu lộ ra ngoài dưới nhiều hkía cạnh, trong nhiều dạng thức, nhưng dễ nhận định nhầt và rộng rãi nhất là là dạng thức âm thanh. Nghe âm thanh của một cá nhân phát ra to nhỏ ,rõ ràng hay không rõ ràng,trong trẻo hay khàn đục, cao hay thấp,có sinh lực hay không ,người có cặp tay minh mẫn thường phân biệt được rất rõ.Những tính chất về phẩm âm thanh nói trên, không tùy thuộc vào lồng ngực lớn hay nhỏ ,người mập hay gầy, cao hay thấp mà do ở cáchcấu tạo nội tại tự nhiên(naturiel) của kẻ đó.

Nói khác đi ,Những điễm đó do ở khí chân nguyên của mỗi cá nhân có tìm cách thiên phú ,bẩm sinh, không phải muốn có là được .Bởi nhận định như vậy, nên cổ nhân cho rằng muốn biết khí chân của người nào mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,dài hay ngắn ,ta chỉ cần xét âm là đủ...dưới nhãn quang y lí Đông phương ,khí chân nguyên mới là thọ căn (gốc thọ) của con người chứ không phải là hình hài, bộ vị

Cho nên ,Đạt ma đã nói :"Cầu toàn tại âm thanh" và người xưa nói :" Tướng pháp thượng thừa chủ ở âm thanh, hạ đẳng tướng cấp căn cứ vào hình thể con người " là vậy.

III- PHÂN LOẠI KHÍ :

Ta phân biệt Ba loại Khí :

1) Khí tự nhiên (chân nguyên):
Đó là phần tinh lực vô hình ,một thứ nhựa sống tiềm ẩn của con người có tính cách bẩm sinh. Nói cách khác đi , khí tự nhiên có tính cách tiên nhiên tùy theo lúc bẩm sinh, thanh trọc, cường nhược mà nó có thể mạnh hay yếu thanh trọc theo từng nội tạng của mỗi người.

2) Khí hàm dưỡng (hay tu dưỡng):
Đó là khí tiên thiên đã được gọt giũa sửa chữa theo chiều hướng cải thiện.
Dưới mắt cổ nhân, khí tiên nhiên không bất di bất dịch ,mà lại không thể chuyển biến được một phần nào. Một khi con người ý chí mạnh ý thức được sự kém cỏi tiên nhiên của thể chất thì có thể tu dưỡng để chế ngự bớt sự thô trọc hay ngăn chặn phần thô trọc và phát huy thêm phần thanh khiết, bồi bổ khí lực để ngày thêm tráng kiện.Loại khí đã được cải biến nhờ sức của con người được mệnh danh là khí hàm dưỡng .Chẳng hạn , làn hơi không được mạnh ta có thể tập cho bớt yếu ,tiếng nói quá nhanh và vấp váp ta có thể cố gắng luyện tập để nói thông thả ,gân xương lệch lạc yếu đuối có thể kiên nhẫn huấn luyện để sữa chữa phần nào .Dấu hiệu bên ngoài củ loại khí hàm dưỡng là thần khí an hòa ,tự tin ,nội tâm không bị giao động mạnh vì các biến cố bên ngoài, thanh âm ổ trạng, từ tốn. Về phép đoán tướng ,khí chất hàm dưỡng được xem là chính khí ,người luyện được chính khí là kẻ trượng phu quân tử .

3) Khí sở tập :
Khí chân nguyên tiên nhiên tốt đẹp ,khí đượcbảo trì mà buông thả khiến phần hùng kiện ,cao khiết bị tiêu ma, phần ô trọc xấu xa được dịp tăng trưởng thì gọi là Khí sở tập .Nói khác đi, có giọng nói trong trẻo ban đầu mà không gìn giữ ,trác tán ăn chơi khiến cho giọng khàn nhỏ ,xương cốt mạnh mẽ trở thành cằn cỗi suy nhợc, v.v...đều bị xếp vào loại khí sở tập. Dấu hiệu bề ngoài của khí sở tập là cư xử thô bạo , giọng nói hấp tấp buông thả .Cũng bởi loại Khí này do ngoại cảnh xấu tạo nên làm che mờ bản chất tốt đẹp nguyên thủy hay không chịu cái tiến phần khuyết điểm của bản chất nguyên thủy cho tốt đẹp hơn,nên bị xếp vàp loại tà khí ,tượng trưng cho hạng tiểu nhân ,tâm tính hàtiện.

Hữu tâm vô tướng, tướng tuỳ tâm sinh
Hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ tâm diệt

Tướng tuỳ tâm sinh - Tướng tuỳ tâm diệt, tướng tốt xấu là ở cái tâm con người!
Tất cả chỉ là khảo nghiệm vậy hãy giữ chữTâm

IV- TƯƠNG QUAN GIỮA KHÍ VÀ SẮC :

Khí là chất nhựa sống chu lưu trong nội tạng và phối hợp khi Âm Dương của vũ trụ nên mắt nhìn không thấy. Bởi người ta không thể đi thẳng vào nội tạng để tìm hiểu khí mà phải quan sát gián tiếp nó qua các biểu lộ ngoại diện. Nhìn dưới nhãn quang tĩnh mà đặt nặng khía cạnh cấu tạo ta thấy giữa sắc và khí liên quan mật thiết không thể tách rời. Về đặc điểm này hầu hết đều đồng ý ở điểm sau đây:

"Khi ở trong da thịt ,xương tủy chưa biết được điều đó rõ ràng thì gọi là khí. Khi đã định rõ được vị trí ,xét được trạng thái qua việc quan sát làn da thì gọi là sắc. Sắc và khí như vậy, bất khả phân."

Như thế ,ta thấy rõ ,dưới nhãn quang tướng học, sắc là phần ngoại biểu của khí khi quan sát bằng thị giác. Quan sát bằng thị giác dễ dàng hơn là vậy, phần khí sắc( hiểu theo nghĩa quan sát khí sắc ) được trước tác rất nhiều và dành cho đại chúng. Thoạt kì thủy ,việc quan sát khí sắc chỉ có ý nghĩa giúp ta biết được kiện khang. Về sau ,từ các đời Tống, Nguyên người ta mới đề cập đền họa phúc ,may rủi trong việc quan sát sắc.

DangHuyAnh
23-05-13, 19:56
SẮC

I-Ý NIỆM SẮC:
Trong tướng học Á Đông, từ ngữ sắc bao trùm nhiều lãnh vực:

1) Màu da của từng cá nhân:

Tướng học Á Đông là kết quả tích luỹ các kinh nghiệm thực tế của nhiều thế hệ, chỉ áp dụng được cho các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng, có cơ thể tầm vóc tương tự như người Trung Hoa và cùng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tập quán và văn hoá Trung Hoa như Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam mà thôi.
Nói chung, người Á Đông tuy là giống da vàng, nhưng trong thực tế, trong cái vàng tổng quát đó, ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc trắng ngà, sắc hung hung đỏ như mặt Quan Công, sắc hơi mét xanh như Đơn Hùng Tín, trong truyện cổ của người Trung Hoa.

Về vị trí quan sát, tuy nói tổng quát là làn da, nhưng trong tướng học khi nói đến sắc da, người ta chú ý nhất đến da mặt, chỗ sắc dễ thấy nhất, còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.

2) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hoặc thân thể

Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau:

-Màu hồng, màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay, của vành tai

-Màu đen hoặc hung hung của râu tóc, lông mày

-Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu ( ta thường gọi là đen của tròng đen )

-Màu đỏ của các tia màu mắt ….

3) Sự đậm lạt của từng loại màu

Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt hay làn môi ta thấy có môi hồng lạt, hồng đậm, hồng phương trắng. Cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng, trắng xanh, trắng ngà.Tóm lại, sự đậm lạt của màu cùng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.

4) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần

Cùng một màu hồng của môi, của cặp má, nhưng ta thấy có người môi khô, có người môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô trông như vỏ cây hết nhựa.

Ngoài màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hợp do nhiều màu đơn thuần hợp thành. Lãnh vực của chúng cũng đồng một khuôn khổ như các lãnh vực của các đơn sắc.

Sau hết, trên khuôn mặt của một cá nhân, dù màu đơn thuần hay mau phức hợp, chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác, hoặc về phẩm chất, về độ đệm lạt, về thành phần cấu tạo (đối với các loại màu phức tạp) qua thời gian. Chẳng màu da trắng của một người có thể sau một thời gian biến sang hồng hay xanh xám: tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ, cặp mắt trong xanh và là môi tươi thắm có thể vì một lý do bệnh nào đó mà biến thành cặp mắt trắng đã làn môi thâm sì.

Tóm lại, khi nói đến sắc trong tướng học là ta nói đến màu của các loại da, màu của các bộ vị, độ đậm lạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của màu trên con người từ khu vực này sang khu vực khác, từ thời gian này sang thời gian khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lãnh vực nói trên, đi từ tổng quát tới chi tiết, từ chỗ đơn thuần tới chỗ phức tạp. Đôi khi quan sát bằng thị giác chưa đủ, người ta còn phải vận dụng đến cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là trong lãnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.

II - CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC

Nói đến sắc tức là nói đến màu, nhưng ở đây nặng nề về phần màu của da trên khuôn mặt. Tướng học Á đông phân ra bảy loại đơn sắc:

màu đỏ - màu xanh - màu vàng - màu hồng - màu trắng - màu tía - màu đen

-Ba màu Đỏ, Hồng, Tía được tướng học Ngũ hành hoá thành ra hỏa sắc là màu chính thức của ba tháng hè, là màu da căn bản của loại người hình Hoả trong phép phân loại Ngũ hành hình tướng.
-Màu xanh thuộc Mộc, là màu sắc chính của ba tháng mùa xuân màu da căn bản của loại người hình Mộc.
-Màu trắng thuộc Kim là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu là màu da căn bản của người hình Kim.
-Màu đen thuộc thuỷ là màu sắc thuộc về mùa đông là màu da chính cách của loại người hình Thủy.
-Sau cùng, màu vàng thuộc thổ, là màu sắc tượng trưng an lan quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.

1) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người:

Theo sự kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy thông thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có một ý nghĩa riêng biệt như sau:

-Màu xanh chỉ về lo lắng, kính hiểm, tật ách, trở ngại, tiểu nhân, nhục nhã
-Màu đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng,tù ngục phá tà , tật bệnh, hung tai
-Màu đen chỉ thuỷ ách, hao phá, mất chức, chết chóc
-Màu trắng chỉ hình khắc, hiếu phục, tật bệnh
-Màu hồng ( và đôi khi màu Tía ) chỉ về các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi, may mắn ngoài ý liệu
-Màu vàng chỉ vui vẻ, tài lộc thăng tiến, bình an may mắn

Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, trong thực tế, việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ xa gần chằng chịt với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói “ vui buồn, may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc".

Sắc phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp, tuỳ thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hoặc khô hoặc nhuận. Khởi nguyên của khí ở Ngũ tạng, sắc bắt nguồn từ khí, ban ngày hiện ra ở ngoài. Cái dụng của sắc còn tùy theo thời gian, khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông ngắn như chiều dài hạt tấm. Thế cảu sắc có thịnh có suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian, khí hậu và Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại sắc, sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác, hoặc do nội trạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hoặc do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hoặc do uất ức mà mặt đỏ, hoặc uống rượu mà mặt đỏ. Chỉ đỏ sắc tự nhiên thiên bẩm hặoc vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thực là sắc đỏ của tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện rõ rệt ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung quan sự gia vận.

Nói tóm lại, biết ý nghĩa đặc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng được ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó:

-Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc
-Tính cách thanh trọc của sắc
-Hư sắc hay thực sắc
-Bộ vị xuất hiện
-Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người ( Ngũ hành hình tướng )
-Phối hợp hay không phối hợp với màu sắc từng mùa
-Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt
-Đơn thuần hay tạp sắc …

Chẳng hạn màu đen, tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thủy trong ba tháng mùa đông mà đặc biệt lại ở Địa các, với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.

Màu đỏ, tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu ởn gười hình Kim trong ba tháng hè, sắc tươi tắn không hỗn tạp. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh pha lẫn màu xanh hay vàng mà lại là thanh sắc thì tuy tai ương vẫn có nhưng mức độ nguy hại giảm thiếu tới tối đa, rốt cuộc không có gì đáng ngại. Từ đó, ta có thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.

2) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc:

Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung.
Ngoài các yếu tố kể trên, ta còn phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc. Đó là :


a) Hư sắc và thực sắc :
Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp, chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí. Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí.

Trái lại, thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ảnh trung thực chất nhựa cây chu lưu ở dưới lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.

Trong tướng học chỉ có thực sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.

b) Vương sắc, trệ sắc, hoại sắc :
Bất cứ loại thực sắc nào dù đơn thuần hay phức hợp cũng đều có thể ở vào một trong ba trạng thái trên.

*Vương sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa, phân phối đều khắp bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vượng sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.

*Trệ sắc : Màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc, nhưng phẩm chất xấu hặoc phân phối không đều đặn (hoặc lốm đốm, hoặc chỗ đậm chỗ nhạt).

Trong tướng học, nói đến vượng sắc cách và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hoặc các bộ vị chính yếu.

Như danh xưng của nó , trễ sắc chủ về các sự bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát

- Kim trệ: Da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là đềim báo trước vẽ sự cùng khốn, ngưng trệ về của cải.

- Mộc trệ: Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về tật bệnh, tai họa.

- Thuỷ trệ: Toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai tai mờ ảo như khói ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ về quan trung thị phi.

- Hỏa trệ: Mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc.

- Thổ trệ: Màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.

*Hoại sắc:Xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hoặc pha trộn nhiều màu sắc tương khắc.

phuduc0203
23-06-13, 20:52
Anh DangHuyAnh ơi, anh ở Sài gòn thì chưa biết bao giờ gặp được để nhờ anh xem được. Em đang ở HN. Thấy trong đó anh có nhóm tướng pháp thực hành gặp nhau sáng thứ bảy mà em muốn tham gia quá. Ngoài HN có nhóm nào của diễn đàn mình sinh hoạt trao đổi nhóm như trong đó không anh. Cái chính của xem tướng là thực hành mà ngoài này em tìm mãi không có thày nào mở lớp hoặc có người hướng dẫn nhóm cả.

nanashi1993
06-07-13, 23:54
PHÉP XEM KHÍ SẮC
Có 2 cách
1. Khí do Lục phủ - Ngũ tạng cùng với xương tủy phối hợp trong thân thể hiện ra ngoài da một cách lờ mờ không rõ rệt, thoáng nhìn như có dấu vết, nhìn lâu lại như không có gì cả, chính là nguyên-khí chu lưu trong các thân-mạch của phần thịt, nên gọi là khí-thế
2. Khí ẩn-tụ ở trên thịt dưới làn da trông như bụi bặm bám vào vật gì, li ti mờ ảo bám vào da chính là sắc

Quan sát chỉ có KHÍ mà không có SẮC thời lành dữ chưa thể biết tường tận được, cần phải tìm kiếm cho thấy bộ-vị và phương thế nằm ở đâu, rồi căn cứ vào Ngũ-hành và thời-tiết để suy đoán các công việc sắp xảy tới, nếu thấy sắc hiện rõ lên ngoài da thời tiết hung, biểu hiện hóa phúc chính xác.


QUAN SÁT BỘ VỊ KHÍ SẮC

SẮC thời dễ thấy nhưng KHÍ khó tìm, nên phải tìm xem KHÍ-SẮC hiện ra ở bộ vị nào, như thế thời-họa-phúc không sợ bị lầm lạc sai thú nữa.

Muốn được chính xác hơn, lưu ý tối đa tới phần KHÍ SẮC phân ra nhiều loại, một là KHÍ-SẮC của ngũ-hành, hai là KHÍ SẮC thuộc bộ vị, ba là KHÍ SẮC chu lưu ở khắp mặt người.

KHÍ SẮC của ngũ-hành là: ĐỎ VÀNG XANH ĐEN TRẮNG.


KHÍ SẮC THUẬN BỐN MÙA

Khi bàn tới KHÍ SẮC hiện lên ở khắp mặt, không riêng một bộ-vị nào, ví như khắp mặt hiện lên sắc ĐEN và sắc XÍCH (ĐỎ gay gắt), sắc VÀNG bợt trệ hay sắc TRẮNG bạch khô sắc, thời phải căn cứ vào lý ngũ-hành tương-sinh tương-khắc mà luận mới được chính xác, vì mỗi KHÍ SẮC đều hung cát khác nhau

Cho nên về mùa Xuân thấy người da mặt xanh lét, không phải hung sắc, trước có việc lo âu nhưng sau lại được đại cát-khánh, vì mùa Xuân trọng sắc XANH

Tới mùa Hạ thấy người mặt có XÍCH sắc (đỏ gay) phải phân định phương hướng để suy đoán, nếu họ cư trú tại phương Bắc lạnh lẽo, lại là phản họa vi phúc, chính là điềm báo tốt đẹp
Nếu họ cư trú phương Tây mà mặt đỏ gay đại kỵ, vì theo Ngũ-hành tinh-lý phương Tây thuộc Kim, sắc XÍCH (đỏ gay) chỉ Hỏa, Hỏa khắc Kim là đại kỵ

Tới mùa Thu sắc ĐEN sáng hiện lên mặt, không xấu, lại là sắc tốt theo ngũ hành tương sinh, mùa Thu thuộc hành Kim, sắc ĐEN thuộc hành Thủy, Kim sinh Thủy hợp.

Tới mùa Đông sắc TRẮNG hiện lên mặt, sắc TRẮNG không bị khô sắc, trông nhuận sáng cũng rất tốt, chính là được tương sinh vì Ngũ-hành tương-sinh là Kim sinh Thủy, mùa Đông thuộc Thủy chủ sắc ĐEN, kim chủ sắc TRẮNG.

nanashi1993
07-07-13, 03:54
ĐỊA KHÍ VÀ NHÂN SẮC

Lấy tinh-lý Ngũ-hành, phối hợp với Ngũ-hành hình nhân mới được hoàn toàn chính xác

Người thân thể phì mập là trọng Thủy, nếu cư trú ở phía Nam thường được đại phát, chính là tinh-lý chế hóa của Ngũ-hành, y cứ thổ khí tùy thuộc ở KHÍ-SẮC người, theo ở SẮC là do khí Hỏa đã bao dung được Thủy, là lý Thủy Hỏa ký-tế chi sinh, để làm cho Thủy được trở nên hữu ích và đại dụng.

Áp dụng nguyên tắc này cho Ngũ-hành hình nhân và Địa-khí thuộc ngũ phương vị.

Cũng như tuy Hỏa khí hung, mà sắc ĐEN bóng sáng lại được ví như cát sắc, thời chủ gặp dữ hóa lành không thể đại hung được.

Ví như trong sắc XÍCH (đỏ gay gắt) ở trên mặt, lại có sắc hơi VÀNG vàng sáng ẩn-tàng, chính là người hung-trung hóa-cát, nhân gặp tai vạ mà sau được phát đạt

Người khắp mặt sắc ĐEN, đến khi quan sát thấy có một nơi trắng sáng hiện lên, là điềm bị nguy khốn đã lâu nay sắp được khai thông, chính là điềm mừng vì là triệu chứng cát-tường.

Nếu khắp mặt thần-thái hiện lên một cách quá sáng sủa, lại có nhãn-quang như đới lộ, sáng vạt hơn lên không như các ngày thường, tướng pháp chê là thoát-tiết, hoa tận khai không phải là dấu hiệu tốt, sự dữ sắp tới rất phải quan-phòng.

Nên việc suy đoán tướng pháp nhất là KHÍ SẮC, không phải mới sơ kiến người lần thứ nhất đã quyết đoán được, nhất là mục lục và tướng pháp còn kém nên phải tỷ mỷ dè dặt mới khỏi bị chúng nhân nghi ngờ.

nanashi1993
09-07-13, 02:49
KHÍ SẮC ĐEN
HÌNH 1
Hình đồ KHÍ SẮC ĐEN lành dữ hiện trên diện-bộ
http://i403.photobucket.com/albums/pp117/nanashi1993/picture022.jpg

LƯỢC KÊ HẮC KHÍ HUNG CÁT
hiện trên các bộ vị hình 1
Khí sắc đen tại huyệt:
Thiên Trung
Trung Chánh
Dịch Mã
My-tâm (lông mày)
Thiên-thương
Tam-âm
Song-nhĩ (2 tai)
Quyền cốt
Địa-khố
Thần khẩu (môi miệng)
Địa-các (cằm)
Tụng-Đường (dưới môi)
Nhân-trung
Chuẩn-đầu (đầu mũi)
Niên-thọ (mũi)
Sơn-căn
Ấn-đường (ngang mày)


ĐỐI CHIẾU HÌNH ĐỒ 1
Huyệt Thiên-Trung:
Có khí ĐEN hiện lên chủ quan-tai, thị-phi, chức-tước sợ bị đái-ấn, triệt-hồi, e sợ thị-phi bất lợi

Huyệt Trung-Chính:
Có khí ĐEN hiện lên, chủ mưu sự không được như ý, trong vòng 100 ngày đề phòng phá hoại, gia-sự có nạn tai bất ngờ xẩy tới, tối kỵ cho bậc quan chức

Huyệt Dịch-Mã:
Để xem việc xuất hành đi ra ngoài, nếu có sắc ĐEN hiện lên phải e dè hình-thương
Nếu sắc ĐEN sẫm đậm thời tối kỵ không nên đi đâu, ám chỉ hình-thương và đề phòng thủy nạn
Nếu huyệt Dịch-mã sáng, đi đứng tốt, nhất là khi tạo nghiệp mới sẽ được nhiều may mắn

Huyệt My-Tâm:
Hiện khí ĐEN, nhúng tay vào việc ác, thất đức, đề phòng phá hoại, tiểu nhân, nhất là nữ, tu nhân tích đức, phải đề phòng nạn hiếp dâm cực ác, nếu quá thâm đen tại huyệt này phải đề phòng hình-thương hung tử vì bị hiếp dâm, vì nữ phái thuộc âm vị, tại huyệt Tam-âm thường liên hệ tới đường sinh-thực (bộ phận sinh dục)

Huyệt Song-nhi: (hai tai)
Tai trái là Kim-tinh, tai phải là Mộc-tinh, cần sáng nhuận, nếu bị khí ĐEN ảm đạm và gia-vận không tốt đẹp sẽ bị nguy khốn lâu ngày.

Huyệt Nhân-Trung:
có sắc ĐEN hiện lên là dễ dàng mang bệnh, dễ bị ngộ độc thực phẩm, đề phòng tai-tật chính cho thân mình và con gái.

Huyệt Chuẩn-Đầu: (đầu mũi)
sắc ĐEN hiện lên chủ đương thời và tương lai gặp họa.
Nhưng huyệt Ấn-đường không ám trệ, thần mắt không bị đới sát mà sắc ĐEN ám tại đầu mũi, mọi việc chỉ nên tính toán thôi, nếu kinh doanh sẽ bị phá bại

Huyệt Niên-Thọ:
sắc ĐEN hiện lên, bản thân hoặc người trong nhà bị mắc bệnh, sắc ĐEN không thu gọn, đề phòng bị cướp của.
Nếu sắc ĐEN thu gọn lại như một vết ban điểm, bản thân bị mắc bệnh trong người khó qua khỏi.

Huyệt Sơn-Căn:
sắc ĐEN hiện lên, gia vận gặp rủi ro, bản thân bị bệnh lâu lành, hoặc đề phòng có tang, hoặc vợ chồng bất lợi.

Huyệt Ấn-Đường:
Có khí sắc ĐEN ám, chủ nhân bị ưu phiền.
Nếu khí ĐEN sậm lan tỏa ra sẽ mắc đại họa, nếu Chuẩn-đầu cũng bị ám ĐEN, tai họa ứng tức thời ngày hôm đó.

Huyệt Thần-Khẩu:
khí ĐEN ám hiện, mắc tà chứng hoặc bệnh nan y
Nếu thần-nhãn hôn mờ, mội miệng đen sậm, con cái đề phòng bệnh kinh phong, nếu mắt sáng sủa bình thường thì chỉ bệnh nhẹ, hoặc gia-vận bị túng quẫn khá lâu.

Huyệt Tụng-Đường:
hiện sắc ĐEN, mưu sự bất thành, kiên cữ đi sông nước bất lợi, hoặc do uống rượu bia mà lãnh tai vạ.

Huyệt Địa-Các: (cằm)
hiện sắc ĐEN, thị phi khẩu thiệt, đề phòng tai nạn xe cộ, thủy nạn.
Nếu Chuẩn-đầu bị ám hãm sắc ĐEN, không tránh được tai họa
Nếu Chuẩn-đầu sáng nhuận mà sắc ĐEN hiện lên ở huyệt Địa-Các vào mùa Thu mùa Đông, không cần đề phòng đại sự, nếu có việc xảy ra chỉ qua loa việc nhỏ không đáng kể

Huyệt Địa-Khố:
khí ĐEN hiện lên, phòng xe cộ, ghe thuyền, khẩu thiệt, trong vòng 100 ngày sẽ ứng nghiệm.
sắc ĐEN tại Địa-Khố mùa Hạ đại kỵ, mùa Thu mùa Đông cũng kỵ

Huyệt Quyền-Cốt:
khí ĐEN hiện lên, giao thông sông nước và xe cộ bất thường, bề trên như ông bà cha mẹ gặp điều không hay.

Huyệt Tam-Âm , Tam-Dương:
Huyệt này đối với nữ giới giống như Huyệt My-Tâm
có khí ĐEN hiện lên thời tâm tính ác, thường a dua làm việc thất đức, nam chủ phá gia lãng đãng, nữ chủ cực-dâm; nếu thân thể bệnh đới nội-tật, thời luận xét giảm 1/4; huyệt này ám sắc ĐEN đề phòng tiểu nhân ám hại, đối với nữ giới rất bất lợi, nên tu nhân tích đức để được giảm thiểu hung-họa

tienhaiutc
09-07-13, 21:14
Lại tiện nói về Thần khí của bác HuyAnh, em đọc sách nội công thì thấy có đoạn viết về nội công "ngũ hình quyền" có mục đích như sau:luyện Thần của con rồng, luyện Cốt của con cọp, luyện Lực của con beo, luyện Khí của con rắn, luyện Tinh của con hạc. Mọi người thử suy nghĩ xem Thần của con rồng thế nào? Xương cốt gân lực của cọp beo thế nào? Khí của con rắn thế nào? Câu mà tienhai thấy thích nhất là Luyện tinh của con hạc.Không biết mọi người nghĩ sao?
Còn để luyện được con mắt "khinh nhi bất tuấn" thì lên nghiên cứu thôi miên nhé. (cẩn thận kẻo bị mù hay lác khi luyện lại đổ tội cho tienhai thì chết).hiiii

nanashi1993
23-07-13, 03:48
KHÍ SẮC ĐEN
HÌNH 2
http://i403.photobucket.com/albums/pp117/nanashi1993/khisacdenh2copy.jpg

Lược kê khí sắc ĐEN hung cát
Hiện trên các bộ vị hình 2
Huyệt Ngạch-bộ (trán)
Huyệt Phúc-đường (trên lông mày)
Huyệt Gian-môn (đuôi mắt)
Huyệt Mạnh-môn (sát tai)
Huyệt Pháp-Lệnh


Đối chiếu hình đồ 2
Khí sắc ĐEN lành dữ trên mặt

Huyệt Phúc-đường
Hiện khí ĐEN chủ quan-tai và tang-chế, nếu sắc ĐEN đậm, sẽ ứng nghiệm gần, sắc ĐEN nhạt sẽ ứng nghiệm xa

Huyệt Mạnh-môn
có khí sắc ĐEN hiện ra, chủ thời vận kiền-trệ, trong niên vận không được thuận lợi

Huyệt Pháp-lệnh
Có khí ĐEN như đồng tiền, chủ bị tổn thọ, hoặc dùng phải người làm không trung nghĩa, đề phòng bị người ngoài ảnh hưởng xấu đến mình

Huyệt Gian môn
Có khí ĐEN hiện thấu sang lưỡng quyền, chủ việc không tốt đẹp, giao thiệp với người ngoài không được tín nhiệm, nam đề phòng nữ, nữ đề phòng nam

Huyệt Ngạch-bộ(trán)
Nếu khí ĐEN ám khắp trên trán, chủ gặp đại hung. Khí ĐEN hiện ra như hình vết ban là hung sự đã qua đi được phân nửa, nếu thấy vết ban lỗ chỗ điểm sáng là vận sắp chuyển biến tốt đẹp hơn.
Nếu chung quanh vết ban không sáng, xem bên trong vết ban thấy ám trệ đen như mây đặc, sắp gặp đại họa, người đang mang bệnh khó lòng thoát khỏi

Hiện ở bên trái hay bên phải đều xem như nhau

nanashi1993
29-07-13, 13:24
HÌNH ĐỒ KHÍ SẮC TRẮNG
Lành-dữ hiện trên diện-bộ
http://i403.photobucket.com/albums/pp117/nanashi1993/Khisactrang.jpg


LƯỢC KÊ HUYỆT-VỊ CÓ SẮC TRẮNG
Lành-dữ hiện trên diện bộ
KHÍ SẮC TRẮNG tại:
Huyệt địa cát (cằm)
Huyệt địa-khố
Huyệt quyền-cốt (lưỡng-quyền)
Huyệt gian-môn
Huyệt thiên-lương
Huyệt My-tâm
Huyệt ấn-đường
Huyệt thiên-đình
Huyệt phúc-đường
Huyệt sơn-căn (mũi)
Huyệt niên-thượng (mũi)
Huyệt chuẩn-đầu (mũi)
Huyệt nhân-trung
Huyệt dịch-mã


ĐỐI CHIẾU HÌNH ĐỒ SẮC TRẮNG
Lành-dữ hiện tại các bộ vị trên mặt

Phải, trái cùng luận như nhau

Huyệt Địa-các (cằm)
Hiện SẮC TRẮNG không nên mưu sự làm ăn, mở mang tàn-bạo, vì gia-vận đương bị hãm xấu. Nếu SẮC TRẮNG khô SẮC bao nhiêu, thời xấu nhiều bấy nhiêu.

Huyệt Địa-khố
Có SẮC TRẮNG hiện lên phải cẩn thận dùng người gặp nhiều bất lợi.

Huyệt Quyền-cốt (Lưỡng-quyền)
Hiện SẮC TRẮNG gia-vận hao phá, sẽ có tang-chế, quan sát tỷ mỷ SẮC TRẮNG khô SẮC, bạch ra nhiều là trọng-tang, nhạt là bàng-tang (họ hàng xa, ngoài gia tộc, ngoại tộc)

Huyệt Thiên-thương
Có SẮC TRẮNGchủ bệnh tật, phòng trộm cướp hao tài.

Huyệt Nhân-trung
Hiện SẮC TRẮNG sẽ bị đau bệnh và con cái mắc bệnh hình-thương

Huyệt Gian-môn
Có SẮC TRẮNG hiện lên chủ hình-khắc phu-thê bất lợi

Huyệt My-tâm
Hiện SẮC TRẮNG không nên giao-dịch với bằng hữu vì sẽ bị lừa dối, kỵ khác phái, nhất là nữ phái nên thận trọng nam-nhân.

Huyệt Ấn-đường
Có SẮC TRẮNG hiện lên sẽ chịu nhiều mang tiếng thị-phi vì giao dịch với lục-thân, gia-đạo phải phòng hiếu phục.

Huyệt Chuẩn-đầu
Có SẮC TRẮNG hiện lên phải phòng phá bại về tài sản, nếu SẮC TRẮNG khô SẮC, trong nhà sẽ có hiếu phục hoặc họ hàng gần.

Huyệt Niên-thượng
Hiện SẮC TRẮNG như hình đồng tiền sẽ bệnh tật và bị trộm cướp về tài sản.

Huyệt Phúc-đường
Có SẮC TRẮNG hiện lên sẽ bị thị-phi khẩu-thiệt tự nhiên không phòng trước được và có tang chế họ-hàng (bàng-tang)

Huyệt Sơn-căn
Có KHÍ TRẮNG hiện lên chủ hình-khắc phu-thê tử-tức, con cái gây phiền toái ngoài ý muốn

Huyệt Thiên-đình
Huyệt này giáp chân tóc giữa trán có KHÍ TRẮNG hiện lên, chủ việc bất hòa với lục thân và gia đạo, phòng trộm cướp

Huyệt Dịch-mã
Huyệt này chủ xuất ngoại, có KHÍ TRẮNG hiện lên rất bất lợi vì ngựa xe dễ bị hình-thương, giao dịch với người cũng xấu.

nanashi1993
17-08-13, 00:33
HÌNH ĐỒ KHÍ SẮC ĐỎ GAY GẮT
Lành dữ hiện trên diện-bộ
http://i403.photobucket.com/albums/pp117/nanashi1993/khisacdo2.jpg
LƯỢC KÊ KHÍ SẮC XÍCH
KHÍ SẮC Xích tại
huyệt Ấn-đường
huyệt Thiên-thương
huyệt quyền-cốt (lưỡng quyền)
huyệt nhân-trung
huyệt sơn-căn
huyệt địa-các (cằm)
huyệt thừa-tương (dưới cằm)
huyệt mạnh-môn (cạnh tai)
huyệt my-tâm (lông mày)
huyệt niên-thọ (trên đầu mũi)
huyệt chuẩn-đầu (đầu mũi)
huyệt địa-khố (cạnh cằm)
huyệt dịch-mã (cạnh trán)


ĐỐI CHIẾU HÌNH ĐỒ XÍCH SẮC

Lành dữ hiện tại bộ-vị khuông mặt
Đối chiếu hình đồ:
KHÍ-SẮC Xích (Đỏ gay gắt) hiện ra tại các bộ-vị trên khuông mặt, phải trái cùng luận như nhau.

Huyệt Chính-ngạch (giữa trán)
KHÍ SẮC Đỏ hiện ra giữa trán lan tới chân tóc sẽ mắc nạn tai về những cộng sự, hay bị hình-thương binh biến rất gấp, trong vòng 40 ngày sẽ ứng nghiệm.

Huyệt My-tâm (lông mày và chung quanh)
Có Xích KHÍ hiện lên chủ huynh đệ họ hàng bằng hữu tranh chấp gây ra các chuyện ưu phiền.

Huyệt Ấn-đường (giữa hai lông mày)
có Xích SẮC hiện ra, chủ miệng tiếng thị phi, hay hỏa hoạn trong vòng 100 ngày sẽ ứng nghiệm.

Huyệt Sơn-căn (giữa hai mắt giao nhau)
Có SẮC Đỏ gay gắt hiện lên chủ nung-huyết, quan-tụng, hỏa-hoạn và nhất là dễ bị hung nguy lúc lâm bồn, nên quan sát SẮC Đỏ đậm nhạt để định ngày gặp hạn, đậm ứng tức thời, nhạt trong vòng 30 ngày.

Huyệt Niên-thọ (sóng mũi)
Hiện SẮC Xích Đỏ (Đỏ gay gắt) chủ có tai nạn lưu-huyết, củi lửa hay bị điện giật, hoặc thị phi khẩu-thiệt.

Huyệt Địa-khố (Cạnh cằm)
Có SẮC Đỏ gay gắt hiện ra chủ mắc bệnh huyết nhiệt, hỏa tan quan-tụng hoặc tán bại về tài sản.

Huyệt Mạnh-môn (Cạnh tai)
Hiện ra SẮC Đỏ gay gắt chủ tiền tài hao tán, xảy ra việc tranh đấu hận thù với người ngoài.

Huyệt Quyền-cốt (Lưỡng quyền)
Có Xích SẮC hiện lên như hình cánh con bươm bướm rất kỵ, phải quan phòng tai vạ thình lình xảy ra, hoặc là hình ngực quan-tai hay tử vong tán mạng.
Có SẮC nhẹ không quá đậm cũng phải tán tài hoặc tư lự sầu bi hi sự.

Huyệt Nhân-trung
Xích SẮC hiện lên chủ việc ưu sầu khẩu-thiệt, SẮC Đỏ đậm bị việc kinh sợ nặng, SẮC Đỏ nhạt sầu bi chống qua.

Huyệt Địa-cát (cằm)
Hiện Xích SẮC là thời vận làm ăn không may mắn, phòng trộm cướp hao tài và khẩu-thiệt

Huyệt Thừa-tương (sát dưới môi)
Hiện KHÍ Đỏ gay gắt chủ gia vận có việc lo buồn ám muội, phòng kẻ tiểu-nhân mưu hại thành ra quan-sự.

Huyệt Chuẩn-đầu (đầu mũi)
Có Xích SẮC hiện lên thời tối kỵ, SẮC Đỏ ở huyệt này còn nặng hơn ở huyệt lưỡng quyền, ví như lò lửa cháy ở giữa nhà, đại họa không tán mạng cũng phá gia.

Huyệt Thiên-thương
Có Xích SẮC hiện lên chủ ứng những tai họa củi lửa, điện giật, nước sôi, nếu xuất ngoại bất lợi, sẽ bị khẩu thiệt hay quan-tụng.

Huyệt Dịch-mã
Huyệt này chủ về xuất ngoại, khi đi ra khỏi nhà nếu bị SẮC Xích ám thì bất lợi, vì dễ bị tai nạn xe cộ hoặc sông nước

1268
23-10-13, 17:03
Nếu theo Nhân tướng học thì phân tích người này thế nào, các anh nhỉ?


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/10/23/16/31/959562309_1440750511_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/959562309)

http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/10/23/16/31/959562312_1009326494_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/959562312)

http://dantri.com.vn/phap-luat/lam-chet-khach-hang-nhan-vien-tham-my-vien-nem-xac-xuong-song-hong-792733.htm

DangHuyAnh
23-10-13, 22:34
Xem qua hình là một cực hình với người xem tướng, nhưng theo xu hướng phát triển của thời đại nên cũng xin có vài lời kiến giải.

Chân dung bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường, nghi can vụ vứt xác bệnh nhân phi tang

*Người hình thủy thổ: nhanh nhẹn thực dụng.

Bạch hổ lõm, chạy từ hình ngục đến hỏa tinh: có khả năng thuyết phục mê hoặc lòng người.
Thanh Long nổi hơi cao, hình cánh: tay nghề khá nhưng tính tình màu mè, hành vi bất cần.
Hình ngục tại Thanh Long: lõm, kéo cong đến sơn căn: Tuổi 41 hoặc 42 sẽ có hạn bị giam cầm.
Sắc khí: ấn đường, lăng vân, tử khí đỏ bầm kéo lên cung quan tạo thành hình tam giác kiện tụng.
Phụ giác và Nhật giác đỏ lõm: tức bị nạn vì người phụ việc, kéo theo người phụ việc nam và cha bị nạn.

Kết luận: làm chết người là do tính tình bất cần, hành vi tự mãn không cần kiểm tra khi làm việc.
Vứt xác là vì có xúc tác từ người giúp việc, đặc biệt là có một người vừa là bạn vừa là đối tác giới tính nữ. Cộng với tính tình màu mè, chú trọng bề ngoài gây ra sực việc nghiêm trọng.
Vận hạn tù tội ở hạn 41 và 42, ông này sinh năm 1973 - 41 tuổi.
Ông này bố mất sớm hoặc nếu chưa mất thì qua việc này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe bố có thể gây tử vong.


Vài dòng thiển luận sơ sài, xin được học hỏi từ các cao nhân.

nanashi1993
28-10-13, 18:15
HÌNH ĐỒ KHÍ SẮC XANH
(LÀNH DỮ HIỆN TRÊN DIỆN BỘ)
http://i403.photobucket.com/albums/pp117/nanashi1993/khisacxanhjpg.jpg
LƯỢC KÊ KHÍ SẮC XANH
KHÍ SẮCXANH tại:
huyệt Địa-các (cằm)
huyệt Khẩu-giác (góc miệng)
huyệt Chuẩn-đầu (đầu mũi)
huyệt Mạnh-môn (cạnh tai)
huyệt Lệ-đường (dưới mắt)
huyệt Thiên-thương (cạnh trán)
huyệt Phúc-đường
huyệt Chính-ngạch
huyệt Nhật Nguyệt-giác
huyệt Ấn-đường
huyệt My-tâm
huyệt Sơn-căn
huyệt Gian-môn (đuôi mắt)
huyệt Quyền-cốt (lưỡng quyền)
huyệt Niên-thọ (sóng mũi)
huyệt Nhân-trung
huyệt Địa-khố (cạnh cằm)
huyệt Dịch-mã (góc trán)


ĐỐI CHIẾU HÌNH ĐỒ KHÍ SẮC XANH

Lành dữ hiện tại bộ-vị khuông mặt

Đối chiếu hình đồ:
KHÍ-SẮC XANH hiện ra tại các bộ-vị trên khuông mặt, phải trái cùng luận như nhau.

Huyệt Địa-các:
Hiện SẮC XANH chủ hợp tác lập nghiệp làm ăn với người không lợi, thời gian này chủ hao tán tiền tài, gia súc hao tổn

Huyệt Khẩu-giác:
Có SẮC XANH hiện lên, nên kể luôn cả hai môi, phải phòng ẩm thực ngộ độc hoặc đi ghe tàu sông nước dễ bị thủy-nạn

Huyệt Chuẩn-đầu:
Hiện SẮC XANH là có tai vạ lớn, thường bị trọng bệnh tử vong, nhẹ cũng bị sầu bi phá hại

Huyệt Mạnh-môn:
Hiện SẮC XANH chủ mắc trộm cướp hao tài hay tật bệnh, hoặc những việc sầu lo lâu dài.

Huyệt Lệ-đường:
Gọi là Huyệt Lệ-đường là nơi nước mắt đọng lại, nếu có KHÍ XANH hiện lên, thấy KHÍ XANH khô SẮC, chủ nơi làm ăn của mình bị tiểu nhân quấy phá, thân thường bị bệnh nạn lo âu.

Nhưng nếu SẮC XANH sáng nhuận, chủ việc vui mừng về sinh con đẻ cái, huyệt Lệ-đường trái sinh con trai, tại Lệ-đường phải sinh con gái.

Khi xem Huyệt Lệ-đường nên phối hợp với Ấn-đường sẽ được sự xác thực hơn.

Huyệt Thiên-thương:
Hiện SẮC XANH là gia trạch không tốt, thường mắc bệnh hoạn hay những việc sầu bi không phòng trước được.

Huyệt Phúc-đường:
Có SẮC XANH hiện lên phải quan phòng tiểu nhân hay đồng nghiệp mưu hại, tại chức thường bị đái ấn tuyệt hồi hoặc phá tài bệnh hoạn.

Huyệt Chính-ngạch:
Có SẮC XANH hiện lên chủ việc lo âu lớn lao, kẻ chức quyền thời tối kị lại thêm vòng lao-lý.

Huyệt Nhật Nguyệt-giác:
Có SẮC XANH hiện lên chủ thị-phi khẩu-thiệt và mắc trọng bệnh.

Huyệt Ấn-đường:
Hiện SẮC XANH sẽ tức thời ứng nghiệm ngay ngày hôm ấy, nên cẩn phòng tai nạn xe cộ, hoặc hình thương do các nạn tai khác, hay phòng kinh-phong ngộ gió độc.

Huyệt Gian-môn:
Có SẮC XANH hiện lên chủ nạn tai thủy ách, phòng khi trong nhà sinh sản, dễ bị truy thai mổ xẻ và ngay tự thân cũng bị đau yếu.

Huyệt Huyền-cốt:
Hiện SẮC XANH phòng tiểu nhân hay đồng nghiệp mưu hại, hay vì bất cẩn của họ mà mang tai vạ ngục hình cho mình.

Huyệt Niên-thọ:
Có KHÍ XANH hiện lên là gia vận bất hảo hoặc đại bại tiền tài, hay là sẽ bị đau yếu nặng.

Huyệt Nhân-trung:
Hiện SẮC XANH thường bị ngộ độc thực phẩm phải phục thuốc hao tốn tiền tài, hay vì sắc dục quá lâm bệnh, tự thân cũng nạn tai khó phòng trước được.

Huyệt Địa-khố:
Có SẮC XANH hiện lên, hoặc thủy-lộ gặp sự kinh-sợ, khi lưu hành trên đường xá dễ bị tai nạn, dùng người bất lợi, gia súc tổn hại, vận này cũng là vận phá tài

Huyệt My-tâm:
SẮC XANH hiện lên tại huyệt này chủ anh em trong nhà, có người bị tai nạn

Huyệt Sơn-căn:
Có SẮC XANH hiện lên chủ việc ưu sầu, dễ bị tật bệnh rất lâu.

Huyệt Dịch-mã:
Huyệt này để xem xuất hành, nếu có SẮC XANH ám hãm, chủ mắc sự ưu-kinh lớn hoặc nửa đường bị bệnh.

QuocTrung
05-02-14, 09:35
http://www.youtube.com/watch?v=RY1VLCC4j1Q
góp cho trang tướng pháp phát triển

tienhaiutc
18-02-14, 21:14
Bác Huy Anh nhìn tinh thế, em mới thấy ấn đường có lấm tấm đỏ,với lại ánh mắt nó cứ bàng bạc. Nhìn ánh mắt đã thấy lộ ra rồi bác nhỉ?
Nhìn chung khuôn mặt em thấy ông này chỉ tập trung vào cái bên ngoài hơn là chuyên môn công việc, có vẻ thích chơi bời.

Mà lão này đầu to như vậy nhưng con mắt như thế có được coi là mắt bé không bác?

Hungsafia
24-05-16, 10:33
[QUOTE=DangHuyAnh;44842]CLB Nhân Tướng Học Thực Hành
Sinh hoạt thường xuyên vào lúc 10h30 sáng thứ 7 hàng tuần.
Chủ nhiệm: Mr Thái Hòa, Mr Huy Đức.
Hướng dẫn: DangHuyAnh

Phương pháp tiếp cận: Thông qua câu chuyện để nghiệm chứng.

Chào bác Huy Anh,
CLB mình sinh hoạt ở đâu bác nhỉ?

DoanDo
06-07-16, 15:59
Hôm nay mới vào mục này bài viết tuyệt quá.

Về khí sắc nhìn thực tế các bạn sẽ thấy

DoanDo
28-08-16, 02:12
http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=4558&stc=1&d=1472325057

huycoisyro
21-06-17, 16:23
Kính chào Chú HuyAnh và Thái Hòa.
Cho cháu hỏi trong thời gian tới hai chú có thể mở lớp hướng dẫn cháu và thành viên trong diễn đàn nghiên cứu về tướng thuật được không ag. Cháu xin cảm ơn. Kính chúc hai chú bằng an và hạnh phúc.