PDA

View Full Version : Phong thủy Huyền Không Phi Tinh



Trang : [1] 2

vanhoai
21-06-09, 07:12
PHẦN I
Phong Thủy Huyền Không
Nói về hai chữ HUYỀN KHÔNG
Chương trọng Sơn nói:” Vô định, vô cứ, không phương hướng, không góc cạnh, không khởi đầu, không kết thúc, không hình thể, không dấu vết, tồn tại khắp nơi, không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Không”
Lạc Sĩ Bằng viết:”Huyền nghĩa là trời đất khiến nó như thế. Không nghĩa là đất phải bẩm thụ như thế. Chính vì chú trọng mặt đất như thế thì có gì là “Không”? Nhưng đất cũng có lưu động, thông dòng. Đấy chính là chỗ “không” của mặt đất vậy. Đấy cũng chính là chỗ xảo diệu, khéo léo của đất vậy.
Thẩm Trúc Nhưng giải thích về Huyền Không: “Huyền nghĩa là nhất (một) (Huyền giả nhất dã). Không cũng là vạch liền trong bát quái. Song “không “ở đây không phải là không có gì mà không ở đây vẫn bao hàm cái có.
Các học giả Thiên Trúc (Ấn Độ) nói về chữ “không”:
Sắc bất dị không
Không bất dị sắc
Sắc tức thị không
Không tức thị sắc
Thụ tưởng hành thức
Diêc phục như thị
“Sắc(vật) chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Cái cảm nhận và suy nghĩ cũng hệt như vậy”.
Khái niệm không ở đây phải dựa vào khái niệm có mà nên vậy.
HUYỀN KHÔNG là sự đến từ hư vô rồi trở về hư vô. Từ một đến chín, để suy đoán sự sinh ra hay mất đi, thăng hay giáng, âm hay dương trong trời đất.
Thế giới chúng ta đang sống, con người – trời – đất , thời gian và không gian, mỗi cái đều khác nhau. Nhưng cùng tồn tại theo một qui luật chung trong mối quân bình hài hòa, Chúng đã ở đúng trong vị trí mà chúng phải tồn tại. Qui luật luôn biến đổi mà hài hòa cân đối đó chính là thuật “phong thủy” mà Huyền Không địa lý nghiên cứu.
Sơn –tĩnh, Thủy – động, nhưng có mối quan hệ quân bình với nhau. Không thể chỉ dùng mắt thường để xem mà phải dùng “tâm nhãn” để xem nữa.
HUYỀN KHÔNG nghiên cứu sự thay đổi, biến hóa của sự vật, biểu thị bằng các số từ 1 đến 9 di chuyển theo một quĩ đạo nhất định là vòng “Lường thiên xích”

Bàn về vòng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết:
Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi,
Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi,
Tử sinh đắc thất tùy thám sách,
Quá hiện vị lai liễu liễu tri
Tạm dịch:
Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích,
Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay,
Tìm hiểu được sự sống chết và được mất,
Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai.
Cho nên Huyền khôngđịa lý là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái mà đoán định sự thịnh, suy, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).

vanhoai
21-06-09, 07:28
Lạc thư, Hà đồ và Lượng thiên Xích

Hãy coi thử ma phương sau:
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/maphng.jpg

Tổng số của các cạnh hay đường chéo đều bằng 15. Đây chính là cân bằng của vũ trụ

1-Hà Đồ: Hà Đồ có 10 số: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10. Tổng số Hà Đồ là 55. Năm số lẻ là số dương tức số trời được biểu tượng bắng những chấm trắng. Tổng số các số trời là 1+3+5+7+9= 25. Năm số âm là số chẵn tức số đất biểu thị bằng những chấm đen. Tổng số các số đất: 2+4+6+8+10 = 30. Tổng cộng số trời đất là 55. Do đó “Dịch từ thượng” nói: số trời có 5, số đất có 5. Năm ngôi cùng tương tác mà hợp với nhau. Số trời là 25, số đất là 30, tổng số là 55, các số đó tạo nên sự biến hóa và điều hành quỷ thần. Theo Chu Hy, 5 ngôi tương đắc mà đều hợp với nhau. Theo “Dịch hệ từ thượng”: Ở trên là chỉ sự xếp đặt 5 cặp số của Hà Đồ, cứ một số trời hợp với một số đất, 1-6 ở dưới, 2-7 ở trên, 3-8 ở bên trái, 4-9 ở bên phải và 5 hợp với 10 ở trung cung. Hà Đồ là bức đồ đầu tiên của Kinh Dịch, sự vận hành của nó theo chiều tương sinh của ngũ hành, vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới luôn luôn tiến hóa , biểu hiện sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch. Bắt đầu từ Bắc đến Đông, vì Thủy sinh Mộc, qua Nam, vì Mộc sinh Hỏa, vào trung ương, vì Hỏa sinh Thổ, đi qua Tây , vì Thổ sinh Kim, trở về Bắc , vì Kim sinh Thủy. Vậy đường vận hành khởi từ Bắc ở dưới, qua bên trái, lên phía trên,vào trung ương, sang bên phải, lại về Bắc ( Theo quan điểm Á Đông vì ở Bắc bán cầu: Phía Bắc biểu trưng cho hàn lạnh nên thuộc Thủy, Phía Nam biểu trưng cho ấm nóng, nên thuộc Hỏa. Phía Đông biểu trưng cho sự trỗi dậy, nên thuộc Mộc. Phía Tây biểu trưng cho bền chắc, nên thuộc Kim. Trong khi đó Nam Bán Cầu thì vị trí Hỏa và Thủy sẽ đổi cho nhau, điều này lý giải phía Nam bán cầu “lường thiên xích” bay ngược với Bắc bán cầu)
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/Htngsinh.jpg
Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sông hoàng hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi chép lại, gọi là hà đồ
Khẩu quyết của hà đồ như sau:
“Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC.
Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM.
Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG.
Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY.
Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung”
Tạm dịch là:
“ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC.
2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM
3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐÔNG
4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY
5 – 10 là Thổ nằm ở chính giữa”
Dựa vào khẩu quyết, có thể biết vào thời Phục Hy, ngưới ta chỉ biết có 4 hướng là : ĐÔNG-TÂY-NAM-BẮC mà thôi.
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/h-hnh.jpg

vanhoai
21-06-09, 07:33
2 – Lạc Thư: Lạc Thư có 9 số. Số lẻ là số trời hay dương số. Tồng số các số lẻ 1+3+5+7+9 = 25. Số chẵn là số đất. Tổng số các số chẵn là 2+4+6+8 = 20. Lạc thư vận hành khởi từ Thủy qua đến Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa, Hỏa lên Kim, vì Hỏa khắc kim, đến Mộc vì Kim khắc Mộc, vào Thổ, vì Mộc khắc Thổ, rồi lại về Thủy, vì Thổ khắc Thủy.
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/Lcthtngkhc.jpg
Theo truyền thuyết vua VŨ khi trị thủy trên sông Lạc thì gặp rùa thần nổi lên, trên lưng có đồ hình phương vị của cửu tinh. Vua Vũ sao chép lại và gọi đó là Lạc Thư.
Khẩu quyết của Lạc Thư :
“Đời Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục-Bát vi túc; Ngũ cư trung vị”
Có nghĩa là : “ Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3; bên phải 7; vai là 4 và 2; chân là 6 và 8; còn 5 ở chính giữa”
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/lcth-hnh.jpg

vanhoai
21-06-09, 07:37
3- Tiên Thiên Bát Quái: từ Hà Đồ người đời sau này khi phát hiện được 8 quẻ dịch mới lập thành 8 hướng và đưa 8 quẻ dịch vào đó (các chữ số là số quẻ tiên thiên)

4-Hậu Thiên Bát Quái : Dựa vào lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đổi lại phương vị của 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái theo với ý nghĩa và phương vị của 9 số trên Lạc Thư mà đặt ra Hậu Thiên Bát Quái (các chữ số là số của Lạc Thư và cũng là số quẻ Hậu Thiên)
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/tin-huthinbtqui-sa.jpg
Với việc phát minh và sử dụng 8 hướng trên la bàn, vua Vũ đã có thể tách rời các cặp và phân bố chúng ra khắp 8 hướng, nhưng trên thực tế vẫn là qui tụ về những cặp số của hà đồ tức tiên thiên. Trong Hà Đồ, 1-6 đứng chung ở phía Bắc. Còn trong Lạc Thư , 1 vẫn nằm ở phía Bắc, còn 6 ở Tây Bắc. Nên tuy hình thức là tách rời, nhưng thật ra vẫn là kề vai sát cánh, đứng bên cạnh nhau mà tạo thành thế “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Và với sự ra đời của Hậu thiên bát quái, tính chất, phương vị, ngũ hành của cửu tinh và của 8 quẻ đều đã được khẳng định. Nên chúng chính là khởi điểm cho mọi ngành học thuật phương đông, trong đó có phong thủy.
Các quẻ bát quái đứng trong Hậu thiên (cũng như lạc thư) tạo thành một vòng tương sinh.
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/HUTHINTNGSINHsa.jpg
Phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên bát quái như sau:
- Số 9 nằm ở trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa nên số 9 mang hành Hỏa.
- Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ Khảm-Thủy nên số 1 mang hành Thủy.
- Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐÔNG. Vì phương ĐÔNG là quẻ CHẤN-Mộc, nên số 3 mang hành Mộc.
- Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐOÀI-Kim, nên số 7 mang hành Kim.
- Số 2 là "vai” bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc quẻ KHÔN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ.
- Số 4 là "vai” bên trái, nện nằm tại phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN-Mộc, nên số 4 mang hành Mộc.
- Số 6 là "chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ CÀN-Kim, nên số 6 có hành Kim.
- Số 8 là "chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐÔNG BẮC. Vì phía ĐÔNG BẮC thuộc quẻ CẤN-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ.
- Số 5 nằm ở chính giữa (tức trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng mang hành Thổ.

Do đó, phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái như sau:

đông nam..............nam...............tây nam
............4................9................2

đông.....3................5................7 tây

............8................1................6
đông bắc.............bắc..............tây bắc


Đây chính là những phương vị "nguyên thủy” của Cửu tinh trong Lạc thư (hay Hậu thiên bát quái). Nhưng khi có những thay đổi về không gian và thời gian thì Cửu tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất định. Quỹ đạo đó được gọi là vòng Lượng thiên Xích.

vanhoai
21-06-09, 07:44
ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH
Âm dương
Trong cuộc sống chúng ta luôn luôn tồn tại 2 cái trái nghịch nhau:
- Mặt phải và mặt trái
- Vui và buồn
- Quân tử và tiều nhân
- Tối và sáng
- Thuận và nghịch
- Nóng và lạnh
- V. v……..
Trong tất cả những cái giống nhau thì đều có điểm khác nhau
Trong tất cả những cái khác nhau thì đều có điểm giống nhau
Đó là Âm – Dương
Âm dương là hai yếu tố quan trọng trong cuộc sinh thành tiến hoá của vạn vật. Ý nghĩa tuy trái ngược nhau nhưng âm dương luôn luôn dung hoà lẫn nhau, bổ túc cho nhau,…
Âm dương là lưỡng nghi, phân ra làm 4 gọi là tứ tượng:
Thiếu dương: Khí dương còn non.
Thái dương : Dương cực mạnh
Thiếu âm : Âm mới sinh
Thái âm : Âm dày đặc.
Đặc tính :
Dương : Động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên, khô ráo, cứng, mạnh, tiến đi xa, mau lẹ, mở. số lẻ, nam, ngày, mặt trới, hoả, bên trái cơ thể.
Âm : Tĩnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới , ẩm ướt, mềm, yếu, lùi trở lại, chậm chạp, đóng, số chẵn, nữ, đất, đêm, mặt trăng, thuỷ, bên phải cơ thể
Trong sự biến hoá tuần hoàn : Âm mạnh thì dương yếu; dương mạnh thì âm yếu
Âm dương như 2 cực nam châm, cùng tính thì chống đẩy nhau, khác tính thì thu hút lẫn nhau. Nhưng trong mọi vật hai yếu tố ấy luôn dung hoà lẩn nhau, tương giao cùng nhau. Cả hai đóng vai trò quan trọng trong cuộc sinh thành của vạn vật.

Âm Dương và sự hình thành tám quẻ tượng
Chu Hy nói rằng : Dịch có Thái Cực sinh hai nghi (âm và dương) , hai nghi sinh bốn tượng (tức thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm), bốn tượng sinh bát quái (tức càn , đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn) rồi bát quái lại sinh 64 quẻ cũng như rễ thì có gốc, gốc có cành, cành lớn càng ít thì cành nhỏ càng nhiều. Âm trường thì dương tiêu (âm lớn mạnh thì dương mất đi), dương trường thì âm tiêu (mặt trời càng lên cao thì bóng tối dần càng mất đi). Đó là lẽ sinh sinh diệt diệt trong vũ trụ. Như ta từ không mà đến rồi lại sẽ trở về không vậy.

Khôn (địa)
☷ Khi trời đất còn là mội cõi hư vô . Do Đó tính của quẻ là Hư, Hình ảnh của quẻ là lục đoạn, lý là nhu thuận, thuận dã, mềm mỏng, như mặt đất yêu thương mọi vật trên đó (thổ), Dương thuận tòng,hòa theo lẽ, chịu lấy,ẩn, như tuân theo mà được lợi, thấp, nhỏ, tối,là hình ảnh cũa mẹ già. Số tiên thiên là 8, sô hậu thiên là 2 (cũng là số của cửu tinh)

Cấn (sơn)
☶ Không còn ẩn nữa và dương bắt đầu xuất hiện nhưng còn non vì ở ngọn. Do đó tính là Ngưng, hình ảnh quẻ là phủ hạ tức trùm lên cũng là hình trái núi (thổ). Lý là Ngưng nghỉ. Chỉ dã, ngăn giữ, ở, thôi, ngừng lại, đậy lại, để dành, Ngăn cấm, vừa đúng chỗ, che phủ. Ngôi thứ là trai út hay thiếu (dương còn non). Ngôi thứ là thiếu nam (trai út). Số tiên thiên 7, số hậu thiên là 8

Khảm (thủy)
☵ Dương lẩn vào trong tức được đứng vững. Do đó tính là Trụ (cây trụ muốn vững thì cần cắm xâu) hình ảnh là trung mãn (đầy bên trong) là eo thắt, như được bao kín (thủy) , Lý là hãm hiểm, hãm dã, hãm vào trong, bắt buộc, xuyên xâu vào trong, hố xâu, trắc trở, hiểm hóc, gập ghềnh. Ngôi thứ là trung nam (đồng lấy dị mà luận). Số tiên thiên là 6, số hậu thiên là 1
Tốn (phong)
☴ Xuất hiện thêm một hào dương, Âm lui dần về tức ẩn tàng, dấu diếm. Do đó tính là Tiềm. hình ảnh là hạ đoạn (đứt dưới), như cây cổ thụ có rễ tỏa ra (mộc cỗi). Lý là Thuận nhập, thuận dã (chiều theo), thuận theo ý trên, theo xuống, theo tới, theo lui, có sự dấu diếm ở trong. Ngôi thứ là trưởng nữ. Số tiên thiên là 5, số hậu thiên là 4
Chấn (lôi)
☳ Lúc này khí dương đã đủ sức xuống đến gốc để chuẩn bị chu kỳ mới bung lên. Do đó tính là Khởi. Hình ảnh là ngưỡng thượng (chén ngửa), như mầm non mới nhú (mộc non). Lý là động dụng, động dã, bung lên, khởi lên, sợ hải, nổ vang, chấn động, chấn kinh, phân phát. Ngôi thứ là trưởng nam. Số tiên thiên là 4, số hậu thiên là 3
Ly (hỏa)
☲ Xuất hiện một khí dương bên trên ngọn như ngọn lửa tỏa ra. Do đó tính là Vũ. Hình ảnh là trung hư, rỗng ở trong , như ngọn lửa thấy vậy mà trong rỗng mà thôi (hỏa). Lý là nóng sáng, lệ dã, sáng sủa, tỏa ra, bám vào, phụ vào, trưng bày, phô trương, trống trơn, không yên. Ngôi thứ là trung nữ (gái giữa). Số tiên thiên là 3, số hậu thiên là 9
Đoài (trạch)
☱ Lúc này dương đã làm chủ đẩy âm hiện lên trên. Do đó tính của quẻ là Hiển. hình ảnh là thượng khuyết, là khuyết mẻ , như lưỡi dao bị mẻ vậy (kim bén , mỏng) . Lý là hiện đẹp, duyệt dã, vui lòng, vui vẻ, ưa thích, nói năng, khuyết mẻ. Ngôi thứ là thiếu nữ (gái út). Số tiên thiên là 2, số hậu thiên là 7
Kiền (thiên)
☰ Dương đã hoàn toàn xuất hiện như một điều hiển nhiên. Do đó tính là Như. Hình ảnh tam liên, tròn đầy , cứng chắc như khối kim loại (kim khối, cục). Lý là cương kiện, kiện dã, mạnh mẽ, cứng mạnh, khỏe mạnh, khô, lớn , cao, dương sáng. Hình ảnh của người Chồng hoặc Cha. Số tiên thiên là 1, số hậu thiên là 6
Tóm lại: sự hình thành tính chất của 8 quẻ qua các giai đoạn từ hư không cho đến hiện tại:
8_Hư – 7_Ngưng – 6_Trụ - 5_Tiềm – 4_Khởi – 3_Vũ – 2_Hiển – 1_Như
Từ tám quẻ tiên thiên khi chồng nên nhau giống như những sự kiện được liên kết lại mà hình thành nên 64 quẻ dịch.

vanhoai
21-06-09, 08:16
Ngũ hành
Khí âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành. Năm hành của ngũ hành được hình thành qua 2 giai đoạn
1- Giai đoạn sinh: Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc, đất 4 sinh sinh kim, trời 5 sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành
2- Giai đoạn thành; Nói về số thì ;
-Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ (1-6 là thuỷ tiên thiên)
- Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả (2-7 là hoả tiên thiên)
- trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc (3-8 là mộc tiên thiên)
- Đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim (4-9 là kim tiên thiên )
- Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ (5-10 thành thổ)
Phương hướng;
Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam, thổ ở trung ương, kim ở phương tây, thuỷ ở phương bắc. Đây chính là phương vị ngũ hành trong hà đồ.
Ngũ khí ;
- Phong khí ( gió)thuộc mộc
- Thử khí và nhiệt khí( khí nóng) thuộc hoả
- Thấp khí(khí ẩm ướt) thuộc thổ
- Táo khí (khí khô) thuộc kim
- Hàn khí ( khí lạnh)
Tạng phủ
- Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi
- Mộc: Lông, tóc, tay chân, gan, mật
- Thuỷ: Máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận
- Hoả: Mắt, tim
- Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng
Hình dáng:
- Kim: Tròn, dày
- Mộc: hẹp dài
- Thuỷ : Khúc khuỷu
- Hoả: nhọn sắc
- Thổ: vuông vức
Quẻ dịch;
- Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI
- Mộc: 2 quẻ CHẤN TỐN
- Thuỷ: quẻ KHẢM
- Hoả: Quẻ LY
- Thổ; 2 quẻ KHÔN, CẤN
Thiên can:
- Kim: canh, tân
- Mộc: Giáp, ất
- Thuỷ: Nhâm, quí
- Hoả: Bính đinh
- Thổ: Mậu, kỷ
Địa chi:
- Kim: Thân, dậu
- Mộc: dần, mão
- Thuỷ: Hợi, tý
- Hoả: Tỵ, ngọ
- Thổ : Thìn, tuất, sửu, mùi
Sinh khắc của ngũ hành
Sinh:
- kim sinh thuỷ
- thuỷ sinh mộc
- mộc sinh hoả
- hoả sinh thổ
- thổ sinh kim
Khắc:
- Kim khắc mộc
- Mộc khắc thổ
- Thổ khắc thuỷ
- Thuỷ khắc hoả
- Hoả khắc kim
Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy.


Ngũ hành phản sinh

Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.

Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:
- Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
- Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
- Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
- Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
- Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.


Ngũ hành phản khắc

Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.

Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là:
- Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
- Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
- Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.
- Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.
- Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.


Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi.
( trích phongthuyhuyenkhonghoc.com)

vanhoai
21-06-09, 08:45
Lượng thiên xích
Là sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái còn gọi là "Cửu tinh đăng quái"
1- Lượng thiên xích thuận:
đông nam.............nam.............tây nam
............9..............5..............7

đông.....8...............1..............3...tây

...........4................6..............2
đông bắc...............bắc...............tây bắc
(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.

2- Lượng thiên xích nghịch
đông nam..................nam...............tây nam
............2....................6................ ...4

đông.....3....................1................. ..8...tây

............7....................5................ ...9
đông bắc...................bắc.................tây bắc

(1) Từ trung cung lên ĐÔNG NAM
(2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG
(3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM
(4) Từ TÂY NAM xuống BẮC
(5) Từ BẮC lên NAM.
(6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC.
(7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY.
(8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC.
(9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung.
Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương của Tam nguyên long.
Cửu tinh và ý nghĩa
- Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế loan đầu có thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thông minh trí tuệ. Nếu suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư...
* về ngũ hành: thuộc thuỷ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết
* về người : con trai thứ
* về tính chất : thuộc dương
- Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát mạnh, nhân khẩu hưng vượng lại phát quí về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng. Trong nhà thường phát sinh bệnh hoạn liên miên.
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu đen
* Về cơ thể : bụng và dạ dày
* về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình
* về tính chất : thuộc âm
- Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp.

* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh lá cây
* Về cơ thể : mật, vai và tay
* về người: con trai trưởng
* về tính chất : thuộc dương
- Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền quí. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang phiêu bạt.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh dương
* Về cơ thể : đùi và 2 chân
* về người: con gái trưởng
* về tính chất : thuộc âm
- Số 5 : Ngũ hoàng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu suy tử thì bất kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh không nên động. Nếu gặp sao thái tuế tới thì tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ thì ốm đau, nặng thì mất người
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu vàng
* Về cơ thể : không
* về người: không
- Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cô độc hoặc chết trong binh đao, người nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ.
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu trắng bạc
* Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già
* về người: cha hoặc chồng trong gia đình
* về tính chất : thuộc dương
- Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay bị giam cầm, gia đạo không yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu đỏ
* Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi
* về người: con gái út
* về tính chất : thuộc âm
- Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú quí dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách.
* về người: con trai út
* về tính chất : thuộc dương
- Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu dòng giữa được hưởng phú quí. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị bệnh về máu huyết, thần kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó.
* về ngũ hành: thuộc hoả
* Về màu sắc: màu đỏ tía
* Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường
* về người: con gái giữa
* về tính chất : thuộc âm
Còn như thế nào là vượng hay suy sẽ phân tích ở phần sau.
Trên đây là những yếu tố căn bản tối thiểu mà người học huyền không phải nắm vững để ứng dụng sau này

QuocTrung
21-06-09, 14:29
Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sông hoàng hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi chép lại, gọi là hà đồ
Khẩu quyết của hà đồ như sau:
“Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC.
Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM.
Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG.
Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY.
Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung”
Tạm dịch là:
“ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC.
2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM
3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐÔNG
4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY


Cơ Bản Huyền không còn nhiều cái cần ngẫm nghỉ . Tại sao là những cặp số trên không phải là cặp số khác ....

vanhoai
21-06-09, 16:36
Chào Quốc Trung
Không phải ngẫu nhiên mà các cặp số này hợp thành. Bạn cần ngẫm nghĩ thêm thì sẽ có câu trả lời. Lưu ý: hãy dùng 2 đồ hình hà đồ và lạc thư mà so sánh thì sẽ thấy rằng sự kết hợp này là không thể khác. Thường người ta thấy sự kỳ diệu thì hay gắn cho nó một truyền thuyết để thêm phần kỳ bí mà thôi.

Thân

vanhoai
24-06-09, 14:02
Hướng nhà và Tâm nhà
1- Hướng nhà:
Hướng nhà là một trong nhiều căn bản của Huyền Không Phi Tinh. Tuy là căn bản nhưng lại đòi hỏi nhiều kinh nghiệm . Nếu không thì sẻ nhận thức sai về phương hướng của căn nhà . Phái phi tinh dùng hướng nhà chứ không dùng hướng cửa như phái bát trạch

Đại đa số hướng nhà đều đi chung với hướng cửa ngoại trừ vài trường hợp như cửa mở bên hông nhà, nhà có kiến trúc khác thường, v.v.

Nói một cách đơn giản thì hướng nhà phải là hướng đối ngược với hướng của người đi tới nhà . Như người đi tới hướng Nam để tới nhà thì hướng nhà là hướng bắc.

Có người dùng cách lấy dương làm hướng, theo cách này thì dương là nơi khí động, có thủy, thấp v.v. Như vậy sẻ gặp nhiều trường hợp rất khó quyết định, thí dụ như có nhà phía sau trống trải và thấp còn phía trước thì có đường lộ và đôi khi cao hơn phía sau vậy làm sao định hướng. Có nhà phía sau rộng và thoáng, phía trước hẹp lại có đường .
Khi phân vân thì ta phải lập nhiều tinh bàn rồi so sánh với diễn biến đã sảy ra trong nhà đó phù hợp với tinh bàn nào thì dùng tinh bàn của hướng đó.



Đo hướng nhà thì đơn giản hơn nhận định hướng, chỉ cần chọn một vách nhà song song với hướng của nhà, sau đó căng một sợi giây song song với vách đó và chạy ra khỏi nhà khoản 2-3 mét . Để la bàn song song với sợi giây đó và xem bao nhiêu độ . Nếu có khả năng canh bằng mắt thì không cần dùng giây .

Trong một vài trường hợp không có vách nào song song với hướng nhà thì chọn một vách vuông gốc với hướng nhà mà đo, sau đó cộng hoặc trừ 90 độ thì sẻ được hướng nhà

http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=1084&stc=1&d=1379501017
Tại sao phải làm như dưới đây ? Tại gì đó là một cách đo chính xác nhất mà không cần phải có nhiều kinh nghiệm. Có người thì đứng giửa nhà hay trước cửa nhìn ra hoặc đứng trước nhà nhìn vào v.v. Những cách này không thể chính xác được . Tại sao ? đó là gì la bàn không có điểm tựa, và người đứng không có điểm tựa, nhích một chút là đã sai lệch thấp nhất củng 1 độ. Sai lệch 1 độ là rất lớn có thể dẩn tới kết quả đảo ngược . Tại sao? đó là gì khi phân kim ta phân 24 sơn ra 60 long rồi có người lại phân ra 384 quẻ như vậy 0.5 độ đã có thể từ quẻ này sang quẻ khác rồi đừng nói gì tới 1 độ
Dụng cụ để đo hướng nhà là la bàn (dụng cụ chuyên nghiệp là La kinh)

http://huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=57

vanhoai
24-06-09, 14:06
2- Tâm nhà :
Tâm nhà củng như hướng nhà là một căn bản mà người học phong thủy lẩn người muốn xem phong thủy cần biết . Nếu lấy hướng sai thì xem phong thủy sẻ sai, nếu lấy tâm nhà sai thì xem phong thủy củng sai .

Đại đa số những thầy phong thủy đều dựa vào kinh nghiệm của mình và mức phán đoán của mình mà chọn tâm nhà . Mức độ chính xác dựa theo cách này thì tùy theo kinh nghiệm của mổi người .

Nhưng nếu dựa vào bản vẻ và toán học để tìm tâm nhà thì mức độ chính xác sẻ cao và không phân biệt giửa người không có kinh nghiệm và người có kinh nghiệm .

Tâm nhà trong phong thủy gọi là thái cực và củng có nhiều người gọi là thiên tâm. Thái cực là danh từ dùng chung cho các tâm điểm chứ không riêng về tâm nhà . Mọi vật đều có thái cực và ý nghĩa của thái cực là điểm giửa của các vật, nơi mà vật đó phụ thuộc vào để giử thăng bằng .

Hình dạng nhà cửa ngày nay cũng rất phức tạp và đa dạng, khiến cho việc tìm tâm nhà đang từ là 1 vấn đề dễ dàng đôi lúc cũng trở nên khó khăn. Đối với những nhà được xây theo hình vuông hay hình chữ nhật thì tâm nhà là giao điểm của 2 đường chéo.

Đối với những nhà có hình tam giác, lục giác, hình thang... thì cách tính tâm nhà cũng là cách tính tâm những hình này trong các lớp toán tiểu học. Còn đối với những nhà có nhiều góc cạnh không đồng đều thì việc định tâm nhà tương đối khó khăn hơn. Phương pháp đơn giản nhất để tìm tâm của những căn nhà này (và ngay cả những nhà hình tam giác, lục giác...) là vẽ sơ đồ nhà lên giấy kẻ ô vuông theo đúng tỉ lệ kích thước của căn nhà, rồi in hình đó sang 1 tấm bìa cứng. Sau đó cắt hết những phần thừa của tấm bìa cứng đi, chỉ để lại phần sơ đồ căn nhà mà thôi. Rồi lấy 1 vật nhọn (như đầu viết chì, viết big...) để nâng tấm bìa cứng có hình sơ đồ căn nhà lên. Tới lúc nó có thể nằm thăng bằng trên đầu cây viết thì điểm đó chính là tâm của căn nhà. Dùng bút chì để đánh dấu điểm đó, xong bạn vẽ 2 đường thẳng đi ngang qua điểm đó: 1 đường thẳng góc với 2 bên hông nhà; 1 đường thẳng góc với 2 mặt trước, sau của căn nhà. Đường thẳng thứ 2 này sẽ là tọa và hướng của căn nhà. Từ đường thẳng này bạn có thể phân ra 8 hướng và 24 sơn chung quanh nhà để xác định chính xác vị trí của mọi thứ trong nhà trước khi luận đoán cát, hung, hay tìm cách sửa đổi Phong thủy cho căn nhà đó.

3- Vẽ sơ đồ nhà:

Trước hết ta cần có giấy trắng kẻ ô vuông và một cây thước đo. Ta đo chiều dài, chiều rộng của căn nhà là bao nhiêu mét (hay feet), rồi tùy theo nhà lớn hay nhỏ mà tính theo tỷ lệ cứ 1mét hay 1 feet = 1 ô hay 2 ô trên giấy. Kế đến, ta vẽ cách bố trí cuả căn nhà, như cửa chính, cửa sau, cửa sổ, phòng khách, phòng ăn, bếp, phòng ngủ, phòng vệ sinh, cầu thang, v.v., theo từng khu vực trong khuôn viên của 4 bức tường. Dĩ nhiên là phải đo kích thước và tính tỷ lệ trước khi vẽ, ví dụ nếu ta muốn vẽ vị trí bếp thì phải đo xem nó cách bức tường phía trước (hay phía sau) khoảng bao nhiêu. Và cách bức tường bên phải (hoặc bên trái) khoảng bao nhiêu. Rồi nó lớn khoảng bao nhiêu. Và nhìn về bức tường nào?...

Sau đó, ta áp dụng cách tìm tâm nhà như đã nói ở trên để xác định tâm nhà trên sơ đồ vừa vẽ xong. Kết hợp với cách tìm và đo hướng nhà (đã nói ở bài trước) ta sẻ xác định được 8 hướng trên sơ đồ nhà. Như vậy là ta có được một sơ đồ nhà hoàn chỉnh.
Nếu các bạn dùng phần mềm AUTOCAD để vẽ và định tâm nhà thì sẽ cho chính xác khá cao.

vanhoai
24-06-09, 14:49
PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN

Xác định tọa hướng nhà:
Theo độ số mà ta đã đo áp dụng vào sơ đồ ta sẽ xác định được tọa hướng nhà
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/02/36481245829108.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898222.html)

Thí dụ: nhà đo độ hướng được 91’ tức nằm trong cung Mão vậy là nhà tọa Dậu hướng Mão

Lường Thiên xích : Là hướng bay của cửu tinh khi có một sao nhập trung cung
Lường thiên xích thuận:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/02/86091245829114.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898228.html)

Lường thiên xích nghịch:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/02/20921245829111.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898224.html)

vanhoai
24-06-09, 15:07
Hậu Thiên Bát quái

Sơn & Hướng:
Hậu thiên bát quái được chia thành tám hướng đều nhau, mỗi hướng chiếm 45 độ trên la bàn và đi với một số của cửa tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa
Mỗi hướng lại chia thành 3 sơn, mỗi sơn chiếm 15 độ:
- Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
- Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
- Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
- Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
- Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
- Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
- Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
- Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI
Độ số chính giữa của mỗi sơn : sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;
Độ chính giữa (+)(-) 3 độ thì gọi là chính hướng. Còn (+)(-) trên 3 độ thì gọi là kiêm hướng.
Tam nguyên long:
Tam nguyên long gồm có : Thiên nguyên long, nhân nguyên long và địa nguyên long
@ THIÊN NGUYÊN LONG: có 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

@ ĐỊA NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

@ NHÂN NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Dựa vào tính chất âm dương của tam nguyên long mà ta sẽ biết được lường thiên xích đi thuận hay đi nghịch.

Phương pháp lập tinh bàn:

1 - Vận bàn:
Thời gian được chia làm 3 nguyên, gồm: thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Mỗi nguyên lại chia làm 3 vận. Mỗi vận là 20 năm
- Thượng Nguyên gồm : Vận 1, 2, 3. Tổng cộng là 60 năm
- Trung nguyên gồm : vận 4, 5, 6. Tổng cộng 60 năm
- Hạ nguyên gồm : Vận 7, 8, 9. Tổng cộng 60 năm
Tổng 3 nguyên là 180 năm. Hết hạ nguyên lại tới thượng nguyên.
Chúng ta đang sống trong hạ nguyên;
- Vận 7 từ 1984 đến 2003
- Vận 8 từ 2004 đến 2023
- Vận 9 từ 2024 đến 2063
Đến vận của sao nào thì lấy sao đó nhập trung cung, xác định các sao khác theo vòng lường thiên xích thuận
Thí dụ: Nay ta đang ở vận 8. Lấy 8 nhập trung cung bay thuận ta được vận bàn
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/03/64471245830427.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898704.html)
2 - Hướng bàn: Sau khi có vận bàn ta lấy số ở hướng cho nhập trung cung, rồi cho bay thuận hay nghịch theo tính chất âm dương của cung nguyên thủy cùa sao ấy.
Thí dụ 1: nhà tọa Càn hướng Tốn, Hướng có sao số 7, lấy 7 nhập trung cung, Tốn là thiên nguyên long. Thiên nguyên long của 7 là Dậu, Dậu tính chất là Âm nên 7 bay nghịch (thường thì hướng tinh đặt bên phải của vận tinh)
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/03/94201245830428.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898705.html)
3 - Sơn bàn: "Sơn" chỉ khu vực sau nhà , tức phương toạ. Lấy số của vận bàn tại phương toạ đem nhập trung cung, để ở góc bên trái. Xem phương toạ là sơn gì? Thuộc tam nguyên long nào? Thí dụ : toạ càn thuộc thiên nguyên long.Tiếp theo coi số của vận tinh thuộc tam nguyên long đó tính chất âm dương là gì? Nếu là dương thì theo lường thiên xích thuận còn nếu là âm thì theo lường thiên xích nghịch Thí dụ : Vận 8 vận tinh tại càn là 9. Thiên nguyên long của 9 là ngọ, tính chất của ngọ là âm . Vậy 9 nhâp trung cung bay nghịch.
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/03/82041245830430.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898706.html)
Tóm tắt
- lấy số của vận bàn tại toạ hoặc hướng nhập trung cung.
- Nếu là thiên hoặc nhân nguyên long: Số chẵn bay thuận, số lẻ bay nghịch.
- Nếu là địa nguyên long: Số chẵn bay nghịch, số lẻ bay thuận

QuocTrung
24-06-09, 22:17
Anh VH
La kinh đẹp thế . Vậy thì định hường nha chắc là chính xác lắm Anh nhỉ

dongphuong
25-06-09, 12:51
Chào anh VH

Cám ơn anh đã có bài viết rất ngắn gọn và dễ hiểu về phong thủy huyền không để anh em có được cái nhìn, cái hiểu biết về huyền không rõ ràng hơn. Thanks!:54:

tom
26-06-09, 12:03
Hi Anh Văn Hoài
Huyền không có chú trọng đến kích thước của cữa nhà,cửa phòng không Anh?ý em muốn hỏi là có dùng thước lỗ ban để đo không?Cám ơn

vanhoai
26-06-09, 18:24
Hi Tom
Huyền không phong thủy không chú trọng đến kích thước của cửa nhà nhưng chú trọng đến vị trí ở cung nào. Như cung thì nhỏ mà cửa quá lớn vượt ra ngoài cung thì không tốt. Hoặc cung lớn mà cửa quá nhỏ thì khí luân chuyển không đủ,...

Thân

dongqot68
27-06-09, 09:42
PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN

Lường thiên xích thuận:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/02/86091245829114.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898228.html)

Lường thiên xích nghịch:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/24/02/20921245829111.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6898224.html)

Kính ANh VanHoai
dongqot68, xin bổ sung thêm một chi tiết về bay thuận nghịch
Cho dễ nhớ đường bay: chỉ cần nhớ đường bay thuận của Lưỡng thiên xích, còn Lưỡng thiên xích nghịch thì cũng bay giống như thế nhưng số của Phi tinh giảm dần
VD:
Thuận bay tăng: 8, 9, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
Nghịch bay giảm: 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1, 9
Thân ái

vanhoai
28-06-09, 05:39
Thế quái
Khi nhà bị lệch (+)(-) Trên 4 độ cho tới dưới 7 độ thì phải dùng thế quái để lập tinh bàn.
Phương pháp lập tinh bàn thế như sau:
- Lập vận bàn.
- tam nguyên long của sơn hoặc hướng là gì?
- coi số của vận bàn tại phương toạ hoặc hướng thuộc tam nguyên long đó gốc là gì?
Thí dụ: toạ càn vận 7. Càn là thiên nguyên long. Bát (8) đáo toạ, thiên nguyên của 8 là cấn
- Không dùng 8 nhập trung cung mà dùng số thế theo bài khẩu quyết của Khương Nghiêu:
Bốn sơn : Tí Quí Giáp Thân, dùng sao Tham Lang (1) thay thế
Năm sơn : Nhâm Mão Ất Mùi Khôn, dùng sao Cự Môn (2) thay thế
Sáu sơn : Tuất Càn Hợi Thìn Tốn Tỵ, dùng sao Vũ Khúc (6) thay thế
Năm sơn : Tân Dậu Sửu Cấn Bính, dùng sao Phá Quân (7) thay thế
Bốn sơn : Ngọ Đinh Dần Canh, dùng sao Hữu Bật (9) thay thế
Thí dụ : theo thí dụ trên thì thiên nguyên của 8 là cấn, dùng phá quân (7) thay thế. Vậy lấy 7 nhập trung cung. Cấn dương nên đi thuận.
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/06/28/05/57951246141947.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.6978562.html)
Trong này ta thấy có một số sơn phải dùng thế mà không thế. Thí dụ : sơn Tý thế bằng 1 thực ra số của sơn Tý cũng là 1.
Ngoại trừ các sơn thế mà không thế ra ta còn:
Hai sơn : Giáp Thân, dùng sao Tham Lang (1) thay thế
Ba sơn : Nhâm Mão Ất, dùng sao Cự Môn (2) thay thế
Hai sơn : Tốn Tỵ, dùng sao Vũ Khúc (6) thay thế
Ba sơn : Sửu Cấn Bính, dùng sao Phá Quân (7) thay thế
Hai sơn : Dần Canh, dùng sao Hữu Bật (9) thay thế
Tóm tắt:
Để dễ nhớ thế quái ta thuộc bài thơ sau:
Cửu, Canh Dần
Nhất, Giáp Thân
Nhị, Nhâm Mão Ất
Lục, Thìn Tốn Tị
Thất, Sửu Cấn Bính
Tức là:
Số 9 thế cho Canh Dần
1 thế cho Giáp Thân….
Thí dụ: Số ở hướng là 3 lại ở địa nguyên long. Địa nguyên long của 3 là Giáp. Vậy số thế cho Giáp là 1
Các cung khác không trong bài thơ này tức không có số thế. Thí Dụ: Số 6 ở thiên nguyên long. Thiên nguyên long của 6 là Càn. Càn không có số thế nên vẫn lấy 6 nhập trung cung bay thuận.

Lập tinh bàn cho nhà kiêm 7 độ hoặc 7,5 độ
Còn đối với trường hợp hướng nhà lệch 7 độ hay 7 độ rưỡi thì không thể dùng tinh bàn của 1 hướng được nữa, mà phải lập tinh bàn cho cả 2 hướng. Cho nên ngoại trừ những hướng kiêm giữa quẻ Phụ mẫu (Thiên) với Thuận tử (Nhân)( dùng thế quái như kiêm 5 độ)ra, còn những hướng kiêm khác đều sẽ xuất hiện 2 hướng tinh và 2 sơn tinh tại mỗi cung của địa bàn, nếu hướng nhà đó kiêm trên 7 độ.
Nói rỏ hơn là nếu kiêm 7 độ trừ trường hợp kiêm giữa thiên và nhân nguyên long( vì 2 tinh bàn này là 1) ra ta phải lập tinh bàn thế quái cho cả hai hướng
Dưới đây là trạch vận căn nhà toạ nhâm hướng bính kiêm 7 độ vận 3

.....2 ...........7 .............9
...7 .8 .......3. 3 ..........5. 1
...9 .6 .......4. 2 ..........2. 4

.....1 ...........3 .............5
...6 .9 ........8 .7 .........1 .5
...1 .5 .......................6 .9

.....6 ...........8 .............4
...2 .4 ........4 .2 .........9 .6
...5 .1 ........3 .3 .........7 .8
(Chú ý vì tọa-hướng nhà nằm giữa các sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, nên khi lập trạch vận thì đem những vận tinh tới tọa và hướng nhập trung cung, xong xoay chuyển theo cả 2 chiều thuân-nghịch cho phù hợp âm-dương với 4 sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ. Do đó, tại mổi khu vực sẽ có 2 Sơn tinh và 2 Hướng tinh và dĩ nhiên là phải dùng thế quái cho cả hai).

vanhoai
28-06-09, 05:49
Sự kết hợp của các cặp Sơn - Hướng tinh

Phi tinh (khí) và Loan đầu (hình thế) là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc quyết định cát, hung của 1 căn nhà, còn thiết kế bên trong cũng có tác dụng nhưng yếu hơn, nên chỉ là phụ thuộc mà thôi. Cũng giống như 1 căn nhà tuy phía trước có biển lớn, phía sau có núi cao, 2 bên Long, Hổ hùng tráng bảo vệ. Nhưng nếu phi tinh lại gặp phải cách vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, Vượng khí của Hướng tinh tới phía sau thì vẫn bị cách "Thượng Sơn, Hạ Thuỷ" mà gia nghiệp suy bại thê thảm. Nếu những căn nhà đã bị như thế thì dù thiết kế bên trong có hoàn mỹ tới đâu cũng không thể làm thay đổi cục diện xấu của căn nhà. Ngược lại, 1 nhà tuy phía trước có núi cao, còn phía sau có biển lớn, tuy đối với phái Loan đầu là cục diện thất bại, nhưng nếu có vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, vượng khí của hướng tinh tới phía sau thì vẫn có thể phát phúc 1 thời. Cho nên mới nói Loan đầu phụ thuộc vào Phi tinh, Phi tinh phụ thuộc vào Loan đầu là vậy.
Về sự tương quan giữa vận-sơn-hướng tinh trong cùng 1 cung thì cũng đã có nhiều sách vở đề cập tới, thậm chí còn chia ra thành tỷ lệ phần trăm giữa 3 sao này để cứu xét. Nhưng có lẽ các tác giả đó 1 là không muốn tiết lộ những gì họ biết, 2 là vì không hiểu rõ tính chất vượng, suy hay "thất, đắc" của những phi tinh nên mới bày vẽ đủ cách tính toán mà thôi. Nhưng thực chất là vì toạ và hướng là 2 phương vị quan trọng quyết định vận khí của 1 căn nhà, nên Sơn tinh và Hướng tinh mới có tầm quan trọng đặc biệt, và cũng vì vậy mà khi lấy trạch vận cho 1 căn nhà thì người ta mới lấy những Vận tinh tới TOẠ VÀ HƯỚNG nhập trung cung xoay chuyển để xác định những phương vị sinh, vượng, suy, tử của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi. Chứ không ai lấy hết Vận tinh chung quanh nhà đem nhập trung cung xoay chuyển làm gì, dù là phía trước của căn nhà đó có thuỷ hoặc cửa ra vào hay không? Hoặc phía sau có núi hoặc nhà cao che chắn hay không? Điều này cho thấy 2 phương toạ và hướng có tác động quyết định lên vận khí của 1 căn nhà, và do đó, sức mạnh của Sơn và Hướng tinh mới có tầm quan trong đặc biệt hơn Vận tinh. Riêng Vận tinh chỉ là vị trí cố định của phi tinh trong từng Vận, nên tác dụng rất yếu, chỉ có khả năng phối hợp với Sơn và (hoặc) Hướng tinh để làm tăng thêm sự tốt, xấu mà thôi, chứ không thể có khả năng chi phối hay giảm thiểu, hoặc làm thay đổi tính chất của Sơn, Hướng tinh cùng vị trí với nó. Còn sự tương tác giữa Sơn tinh và Hướng tinh, trên thực tế phải tuỳ thuộc vào sự "đắc cách" hay "thất cách" của chúng mới có thể biết được sao nào nắm quyền chủ chốt tại khu vực đó. Muốn biềt được điều này thì phải nắm vững những nguyên lý về "Thu Sơn, Xuất Sát" mới không bị lầm lẫn hoặc rối trí trong việc xét đoán những ảnh hưởng của phi tinh trong cùng 1 cung. Biết rằng khí sinh, vượng của Sơn tinh cần phải đóng trên những chỗ cao. Nếu được như thế thì tức là Sơn tinh đã đắc cách, uy lực của nó đương nhiên được phát huy tới mức tối đa, cho nên chẳng những nó có đủ sức để chi phối cả Vận tinh và Hướng tinh tại đó, mà nếu gặp trường hợp Hướng tinh tại đây lại là khí suy, tử thì mọi hung khí của Hướng tinh đều được nó hoá giải. Cho nên đây chính là trường hợp "dùng Sơn thần xuất sát của Thuỷ thần", hay còn được gọi tắt là "Xuất Sát".
Ngược lại, khí sinh, vượng của Hướng tinh cần phải đóng tại những nơi có Thuỷ như sông, hồ, ao, biển, hoặc những nơi có cửa nẻo ra, vào nhà. Nếu được như thế là Hướng tinh đã "đắc cách", nên uy lực của nó đủ để khống chế cả Vận tinh lẫn Sơn tinh tại đây. Nếu trong trường hợp Sơn tinh là khí suy, tử thì sẽ được Hướng tinh hoá giải, làm mất hết hung khí, nên đây là trường hợp "dùng Thuỷ thần để thu sát của Sơn thần", hay còn được gọi tắt là "Thu Sơn".
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí sinh, vượng: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Hướng tinh. Nếu khu vực này có Thuỷ thì Hướng tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Sơn tinh. Nếu khu vực này không có núi, cũng không có Thuỷ, tức là cả Sơn tinh lẫn Hướng tinh đều không có hiệu lực. Đây là cục diện ngang hoà, không có sao nào chi phối nhau cả, và cũng không có ảnh hưởng gì tới vận khí căn nhà.
Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí suy, tử: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh đó đắc thế, nên nhà sẽ bị tai hoạ do đối tượng ứng với Sơn tinh đó gây ra. Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nơi phía ĐÔNG có Sơn tinh 7, hướng tinh 3. Nếu khu vực đó có núi hay nhà cao thì nhà sẽ bị tai hoạ do Sơn tinh số 7 này mang tới. Vì số 7 thất vận chủ kẻ tiểu nhân hay trộm cướp, nên nhà này dễ bị kẻ tiểu nhân hãm hại, hay trộm cuớp đến phá nhà. Trong trường hợp này, Sơn tinh sẽ khống chế Vận tinh và Hướng tinh. Còn Hướng tinh thất vận lại nằm trên cao nên vô lực. Ngược lại, nếu khu vực đó không có núi, nhưng lại có Thuỷ thì nhà sẽ bị tai hoạ hay thất tán tiền bạc do Hướng tinh đó đem tới. Trong trường hợp này, Hướng tinh đã khống chế cả Vận tinh và Sơn tinh. Còn Sơn tinh vừa là khí suy, tử, vừa đóng tại nơi thấp, trũng nên vô lực.
Cho nên sự tương tác giữa những Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung là tuỳ thuộc vào sự thất, đắc của chúng mà thôi. Nói "thất, đắc" không phải là nói thất vận hay đắc vận, mà là ám chỉ chúng có đóng tại những nơi phù hợp hay không mà thôi. Sơn tinh nếu đóng trên núi cao là "đắc cách", sẽ có đủ uy lực sai khiến Thuỷ thần (tức Hướng tinh). Hướng tinh nếu đóng tại những nơi có Thuỷ là "đắc cách", sẽ có đủ uy lực mà điều động Sơn tinh. Nhưng cũng phải phân ra nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại phúc lộc, còn nếu khí suy, tử của Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại hoạ. Còn nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà "thất cách", tức là Sơn tinh gặp Thuỷ, Hướng tinh gặp núi thì đã thuộc vào cách "Thượng Sơn, Hạ Thuỷ" rồi. Cho nên khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh cần phải "đắc cách" , còn khí suy, tử thì cần phải "thất cách". Có như thế thì mới bảo đảm phúc lộc lâu dài và tránh được mọi tai hoạ.
Còn vấn đề dùng Ngũ hành sinh-khắc để luận ảnh hưởng của các sao, cũng như sự phối hợp giữa chúng mà tạo thành những số "hợp thập", số Tiên thiên hay Hậu thiên, Phản ngâm, Phục ngâm... chỉ là phụ và sau khi đã biết được tình trạng "thất, đắc" của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi.

Thế nào là thất cách hoặc đắc cách
Đắc cách là Sơn gặp núi cao, nhà cao , cây cao,…Hướng gặp thủy, trống thoáng hay đường đi
Thất cách là :Sơn gặp Thủy, trống thoáng hay đường đi,…Hướng gặp Núi cao hay nhà cao, cây cao,..

Thế nào là vượng và thế nào là suy ?
Vượng là khi sao vượng được đắc cách ( dĩ nhiên phải là sao vượng, sinh hoặc tiến khí trong vận đó )như sơn vượng thì có núi cao. Nhà cao, cây cao….Hoặc hướng vượng thì có thủy, trống thoáng hoặc có đường đi
Suy là khi sao vượng bị thất cách . Như sao sơn vượng, sinh hoặc tiến khí mà lại gặp thủy. Hay sao hướng vượng, sinh hoặc tiến khí lại gặp sơn . Sao tử khí đắc cách như: Sao sơn là tử khí mà lại gặp núi hoặc sao hướng là tử khí mà lại gặp thủy
Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nhưng có Hướng tinh số 2 đắc thuỷ của hồ tắm lớn. Đây là trường hợp tử khí đắc cách, nên trong nhà này vừa bị hao tài, vừa bị bệnh tật liên miên, lại còn xuất hiện quả phụ. Cho nên đàn ông trong nhà đó dễ bị vắn số. Đó là chưa kể nếu nơi đó lại có sơn tinh 3, tạo thành thế "ĐẤU NGƯU SÁT", nên gia đình sẽ bị mắc khẩu thiệt, quan tụng liên miên. Hoặc nếu nơi đó có sơn tinh hay vận tinh 7, kết hợp với hướng tinh 2 tạo thành cặp 2-7 Hoả tiên thiên thì nhà này dễ bị xung đột hoặc trong nhà có người mắc bệnh đau tim. Vào những năm có niên tinh 9, 7, 2 chiếu tới khu vực này thì bệnh tim càng nặng, có thể chết người. Nếu khu vực này mà lại nằm tại phía ĐÔNG hoặc ĐÔNG NAM thì vào những năm có niên tinh 4, 3 chiếu tới thì còn gặp hoả hoạn mà sản nghiệp tiêu tan nữa. Cho nên nếu khí suy tử mà đắc cách thì ngoài vấn đề phá tài, tổn đinh thì còn bị những tai hoạ, bệnh tật khác nữa, chứ không phải chỉ là làm ăn lụn bại (trường hợp Hướng tinh "Thượng Sơn") hoặc nhân số giảm thiểu (trường hợp Sơn tinh "Hạ thuỷ") như các trường hợp vượng tinh thất cách, tức là mức độ tai hoạ còn nguy hiểm và trầm trọng hơn.
Vấn đề khảo sát các sao Vận-Sơn-Hướng (nhất là Sơn và Hướng) thì trước hết cần phải xét đến thời vận, xem chúng là sinh, vượng hay suy, tử. Sau đó mới xét tới hình thế Loan đầu xem chúng có đắc cách hay không? Như Sơn tinh vượng cần gặp núi hay nhà cao, Hướng tinh vượng cần có thuỷ hoặc cửa ra vào... Nếu chúng được như vậy thì dù ngũ hành có bị xung khắc cũng vẫn không có tai hoạ gì cả. Chỉ khi chúng đều là khí suy, tử, hoặc không đắc cách thì mới xét đến ngũ hành sinh, khắc để đoán biết hung hoạ mà thôi. Lấy thí dụ :cung KHẢM có các sao 7-8-3 (theo thứ tự Sơn-Vận-Hướng). Nếu là trong vận 7, sơn tinh 7 là vượng khí, nên nếu khu vực này có nhà cao thì chủ vượng nhân đinh, lại hoá sát của Hướng tinh số 3, chứ không có vấn đề khắc chế gì cả. Nhưng qua vận 8, sơn tinh 7 biến thành suy khí, khắc chế Hướng tinh 3, nên nhà này dễ bị trộm cướp hay tai hoạ hình thương, hay có bệnh về thần kinh... Chỉ có khi xét tới niên, nguyệt, nhật thời tinh thì mới dùng đến nguyên lý ngũ hành sinh, khắc làm chủ yếu. Còn giữa vận-sơn-hướng khi xét đến sự sinh, khắc thì chủ yếu là giữa Hướng tinh và Sơn tinh, còn vận tinh chỉ có thể phụ hoạ thêm vào cái sinh hoặc khắc giữa 2 sao đó mà thôi.
Thí dụ : vận 8 ở một cung có cặp sơn hướng 8-6 . Nếu có núi, nhà cao, cây cao thì gọi là vượng vì 8 là sơn tinh vượng. Nếu có ao hồ thì gọi là suy vì 6 là hướng tinh tử khí trong vận 8

(tham khảo từ phongthuyhuyenkhonghoc.com)

vanhoai
28-06-09, 06:04
Thu sơn xuất sát

Ở một cung. Nếu sao hướng là vượng khí hoặc sinh khí lại đắc cách tức là loan đầu có thủy hay đường đi, trong khí đó sao sơn là tử khí thì trường hợp này gọi là “thu sơn” vì sao hướng vượng đã làm mất đi tử khí của sơn tinh. Nếu sao sơn là vượng khí hay sinh khí lại đắc cách tức loan đầu có núi cao hay nhà cao cây cao, trong khi đó hướng tinh là tử khí thì trường hợp này gọi là “xuất sát” hay còn gọi là “thoát sát” vì sơn tinh vượng đã làm mất đi tử khí của hướng tinh.

vanhoai
28-06-09, 06:07
Ý nghĩa của các cặp Sơn – Hướng tinh

1. Nhất Bạch
Nhất Bạch là sao Tham Lang, hiệu Văn Xương, ngũ hanh thuộc thủy, màu trắng; mùa thu tiến, mùa đông vượng, mùa xuân tiết, mùa hạ tử . Kẻ sỹ gặp nó ắt được lộc của nó, người thường gặp nó nhất định tiền bạc sẽ vào nhà, đây là đệ nhất cát thần . Bị khắc sát thì như Trang Tử gõ chậu mà chôn vợ . Nhất Bạch lại là quan tinh, nếu nó đương vượng, hình thế Loan Đầu bên ngoài lại có thủy phóng quang thì khoa cử đổ đại, danh lừng bốn bể, sinh con trai thông minh trí tuệ . Nó mà suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi lênh đênh, màng nhiều bệnh tật về huyết, thận hư, hoặc thành kẻ nghiện ngập, trộm cướp

Nhất gặp Nhất là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi cho tài văn chương hoặc các công việc về văn. Nếu suy thì dễ bị bệnh về máu, nghiện ngập hoặc chìm đắm trong tửu sắc

Nhất gặp Nhị là khắc nhập. Nếu vượng thì mẫu thân dễ mắc bệnh về tỳ vị hoặc đường ruột . Nếu suy thì chồng bị vợ nhục mạ hoặc lấn quyền, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về thận hoặc tiết niệu

Nhất gặp Tam là sinh xuất. Nếu vượng thì con trưởng được danh giá quyền quý, có lợi cho người thuộc mệnh Tam mộc, nhân đinh tài bạch đều phát lớn . Nếu suy thì con cháu dòng trưởng suy bại, bị kiện cáo tù tội hoặc trộm cướp, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về gan,chân, hoặc bị ép phải dời đi nơi khác ở

Nhất gặp Tứ là sinh xuất. Nếu vượng thì xuất người nổi tiếng trong khoa cử, quan vận hanh thông thuận lợi, ra ngoài gặp nhiều điều hay về văn nghiệp, tên tuổi nổi bật . Nếu suy thì cũng đỗ đạt nhưng quý mà không phú, hoặc vì mang tiến tài hoa mà chìm đắm trong chống nữ sắc sinh ra quan hệ nam nữ bất chính . Nếu hình thế loan đầu bên ngoài có vật thuộc hành thổ thì đường văn chương hư bại, không con nối dõi, hoặc con cái chết yểu

Nhất gặp Ngũ là khắc nhập. Nếu vượng thì được cả tài bạch lẫn sang quý (tức có địa vị chức tước). Nếu suy thì nữ nhân trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về đường sinh dục; nặng thì thận suy kiệt, ngộ độc thức ăn, con thứ chết yểu

Nhất gặp Lục là sinh nhập. Nếu vượng thì từ nhỏ đã được hưởng giàu sang, ngoài ra, nếu sơn Kiền mà đắc thủy (có sông nước) thì sự nghiệp văng chương có thể phát đên tám đời . Nếu suy thì thủy kim chủ về lạnh, dễ mắc các chứng bệnh về đầu, xương hoặc bị thương tật vì kim loại

Nhất gặp Thất là sinh nhập. Nếu vượng thì đào hoa, dễ tạo của cải . Nếu suy thì kim thủy đa tình, đam mê tửu sắc, hoặc vì tửu sắc mà bị kiện tụng thị phi, có khi vì tranh chấp mà sinh ra thù hằn gây gỗ đến nổi phải mang thương tật

Nhất gặp Bát là khắc nhập. Nếu vượng thì trẻ con trong nhà có họa chết đuối, xuất hiện người có tài về viết lách . Nếu suy thì vợ mắc chứng vô sinh, có bệnh về tai, thiếu máu, hoặc có con chết non

Nhất gặp Cửu là khắc xuất. Nếu vượng thì thủy hóa đều có đủ, lợi lớn về tiền tài, nhân khẩu cũng thịnh vượng . Nếu suy thì dễ mắc các chứng bệnh về tim, vợ chồng bất hòa, anh em tranh chấp

2. Nhị Hắc
Nhị Hắc là sao Cự Môn, cũng là bệnh phù. Nếu vượng thì giau có, nhà cửa ruộng vườn thên than, nhân khẩu hưng vượng, lại phát quý về binh nghiệp . Khi nó suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểu, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng, trong nhà thường phát sinh bệnh tật liên miên

Nhị gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có về điền sản, gia cảnh hưng vượng, nhân khẩu đông, mẫu thân khỏe mạnh sống lâu. Nếu suy thì vợ khắc chồng, đàn ông mất ở tuổi trung niên, quả phụ làm chủ gia đình, người nhà thường mắc cách chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột hay thận

Nhị gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất nhiều, có quyền thế, lợi về binh nghiệp. Nếu suy thì ham mê nữ sắc, dâm đãng, khí lực suy yếu, mẹ già nhiều bệnh tật, người trong nhà thường xảy ra nhiều chuyện xấu, ra ngoài dễ gặp tiểu nhân ngầm hại

Nhị gặp Tam là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ ngắm quyền, gia tài tích lũy do làm việc bất chính, nhưng con trưởng chẳng ra gì. Nếu suy thì đàn ông vì dâm đãng mà gia đình tan nát, đàn bà dễ mắc các chứng về đường tiêu hóa . Nhị Tam sóng đôi còn gọi là "đâu ngưu sát" nên vợ chồng thường bất hòa, chống đối nhau. Người trong nhà chỉ ham an chơi nên ruộng vường bỏ hoang, con cháu dễ thành trộm vặt

Nhị gặp Tứ là khắc nhập. Nếu vượng thì con dâu nắm quyền, gia đình hưng vượng, nhiều nhân đinh. Nếu suy thì chọ dâu ức hiếp em chồng, nam giới hiếu sắc . Có mẹ già cô khổ, hoặc xuất gia làm ni. Người trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột, đau cách tay. Gia cảnh buồn tẻ vắng lặng, ra ngoài thường gặp những việc tai tiếng quấn vào thân, hoặc mắc bệnh thương hàn

Nhị gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tạo dựng cơ nghiệp dễ dàng, tài vận tốt, hưng thịnh nhất là về địa sản. Nếu suy thì phát sinh đủ thứ bệnh, vợ đau yếu nặng, dễ thành người góa vợ . Đặc biệt người nhà thường mắc các chứng về tỳ vị, đường ruột mãn tính

Nhị gặp Lục là sinh xuất. Nếu vượng thì gia cảnh bình yên, con cái thuận hòa, gia nghiệp hưng thịnh, nhiều khả năng hành nghề y cứu đời, hoặc trở thành người có quyền trong nghiệp võ. Nếu suy thì cha già lắm bệnh, trong nhà có người đi tu, cha con thù oán nhau, chủ khách tranh chấp, thường gặp việc tai tiếng thị phi, người nhà thường mắc bệnh đau dầu hay điên loạn

Nhị gặp Thất là sinh xuất. Nếu vượng thì trở thành cự phú bằng tiền của bất chính hoặc bất ngờ (hoạnh tài), nhiều con cái. Nếu suy thì mẹ và con gái thường nghịch nhau, vợ kế không hiền thục . Ngoài ra dễ có hỏa tai hoặc bị chứng bạch đới cấp tính, kiết lỵ; đàn ông thường hay bị phụ nữ quấy rầy hoặc vì tranh chấp thị phi mà bị đâm chém

Nhị gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất không thấy bờ. Nếu suy thì hay mắc bệnh nhẹ, đàn bà thường bỏ nhà đi tu

Nhị gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì văn chương chử nghĩa bề bề, đất đai tiền của tích tụ lớn. Nếu suy thì việc đen tối ập đến ngay, chủ về chuyện nam nữ ám muội, tiền của ra đi nhanh chóng, vả lại còn xuất hiện người chồng ngu đân . Hóa nóng thổ (đất) khô nên dễ sinh ra chứng bạch đới cấp tính . Khi âm quá nhiều nên nhiều đời có quả phụ . Thổ tổn thương mắt, con cháu ắt có người mù lòa

3. Tam Bích
Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng . Con cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khoác vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp

Tam gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý, đinh tài đều đại phát, thi cử đổ đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng lụn bại, tính khí ngỗ ngáo, có thể dẩn tới họa quan tụng; hoặc vì bấtt hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận lợi, hơn nữa còn dễ bị thương tật ở tai chân.

Tam gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng vườn, con trưởng tài đinh đại phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối nhau. Gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh chấp với cấp trên mà gặp điều tai tiếng . Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa, hoặc vì đánh nhau mà chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vở

Tam gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia lập nghiệp, tiền của tương đối khá giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh nhau với người mà bị tù tội.

Tam gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận phát triển hanh thông. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc bị thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng kiếp nạn vì tình hoặc bị rắn cắn

Tam gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì dễ bị các chứng độc như bọ cạp, rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân.

Tam gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành người phụ tá đắc lực cho cấp trên. Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra tranh chấp.

Tam gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có chức quyền ca/ văn lẫn võ. Nếu suy thì nó là "Xuyên Tâm Sát", thường mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị phi. Nếu phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết. Trong nhà có kẻ đam mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the không hòa thuận, các tai họa thường là con trưởng chịu

Tam gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất, lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh giành gia sản mà gây ra kiện tụng

Tam gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu thông minh, văng tài hiếm thấy, hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng đau mắt, đau dầu; ngoài ra con dễ gặp hỏa hoạn.

vanhoai
28-06-09, 06:08
4. Tứ Lục
Tứ Lục là sao Văn Khúc . Nếu vượng thì tai văn chương lừng danh, khoa cử đổ đạt, con gái dung mạo đoan trang và lấy được con nhà quyền quý . Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn; đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá bại phải lang thang phiêu bạt

Tứ gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về văn tài, học hành thì cử đổ đạt. Con cái thông minh, thành tích thường đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc bệnh trúng phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên ngoài . Hoặc vợ vô sinh, có con thì cũng chết yểu.

Tứ gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm quyền trong nhà, con cái đông. Nếu suy thì vợ ngỗ nghịch khắc mẹ chồng và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui; người nhà thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn . Mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi, hoặc có người xuất gia làm ni.

Tứ gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia đạo êm ấm, con cái thuận hòa, sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang. Nếu suy thì vợ chồng hay cải vả xích mích, người nhà thường có ý làm tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị ứng hoặc có tật ở tay chân

Tứ gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con cháu thành tích nổi bật, có tinh mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi, hoặc trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể. Người nhà dễ bị bệnh phong; quả phụ làm chủ gia đình

Tứ gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang, cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý hướng xuất gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại.

Tứ gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến, được mọi người đối đãi tử tế, gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra đi. Người trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở tay. Tứ Lục sóng đôi là tượng "Dịch Mã", nên người nhà dễ phảI tha hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày.

Tứ gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo hơn người nhưng tích lũy được nhiều tiên của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm, con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết yểu. Ra ngoài thị gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa . Dễ phạm kiếp sát đào hoa

Tứ gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải chất thành núi. Nếu suy thì người nhà có người ở trong rừng núi sâu làm ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành không giỏi giang; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn.

Tứ gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị đau mắt hoặc bị hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vi gian dâm mà gia sản lụn bại

5. Ngũ Hoàng
Ngũ Hoàng là sao Liêm Trinh, là đại sát tinh Mậu Kỷ . Nếu vượng thì tài đinh đại phát . Nếu suy thì bất kể nó được sinh hay bị khắc đều rất xấu . Vì vậy nó nên tịnh mà không nên động . Nếu gặp lúc sao Thái Tuế tới thì tính hung càng phát ra mạnh, tức tổi đinh hao tài lớn, nhẹ thì ốm đau, nặng thì hao vài người . Cuộc này nên tránh không nên phạm

Ngũ gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, nhưng con giữa không phát. Nếu suy thì con giửa lại chịu tai ương hoặc đau ốm nặng, đặc biệt là bệnh về đường tiết niệu, bệnh phụ khoa. Ngoài ra còn thường bị các bệnh về tai, hắc lào . Người nhà bệnh hoạn luôn

Ngũ gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì thì tài đinh đại phát, người mẹ nắm quyền trong nhà. Nếu suy thì phát đủ thứ bệnh, nhất là cha mẹ. Chủ yếu là bệnh về dạ dày và đường ruột . Gặp lúc sao Thái Tuế tới thì cha bệnh nặng, mẹ dễ thành quả phụ

Ngũ gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, con trưởng được thừa hưởng phúc lộc. Nếu suy thì thường mắc các chứng bệnh về gan, tụy, mụn nhọt, ghẻ lở ở chân tay hoặc chổ kín. Con trai phản nghịch, trong nhà có người bị thương tật ở chân, gia đạo không yên ấm

Ngũ gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì có tài vănt hơ và giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì con trai lêu lỏng ăn chơi, ruộng vườn bỏ hoang; phụ nhân có nhọ độc ở vú, phái nam thường bị sởi. Nhà cửa ảm đạm buồn tẻ, con dâu có ý xuất gia làm ni, gia phong suy bại

Ngũ gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì đinh tài đều vượng, gia nghiệp phồn thịnh. Nếu suy thì khó thoát hung sát hoành hành, dễ bị chứng bạch đới cấp tính. Nhẹ thì bị nhọt độc, nặng thì hao người

Ngũ gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì tiền tài tương đối khá giả, con cái hiếu thuận, nhưng chủ nhân không hưởng được. Nếu suy thì chủ nhân mang bệnh, nhẹ thì đau đầu, đau xương, nặng thì thập tử nhất sinh, ra ngoài dễ bị thương tổn. Hoạn lộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có thể bị tổn thất

Ngũ gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có sung túc, gia nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì tranh chấp thị phi, chuyện rắc rối xảy ra thường xuyên, hoặc vì tửu sắc mà phá hết gia sản, có khi gây nên tai họa dẫn tới tù tội. Thiếu nữ trong nhà thường đau ốm . Có người bệnh răng, miệng, họng, hoặc bị thương bởi búa riều

Ngũ gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn mênh mông, con cái tốt lành gặp nhiều thuận lợi. Nếu suy thì con trai nhỏ thường đau yếu, trung niên đau mỏi gân cốt. Khí vận của gia đạo suy giảm

Ngũ gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì con cái thông minh, tài vận tốt. Nếu suy thì sinh con ngu đần, người nhà mắc chứng đau mắt, đau đầu hay trong lòng buồn phiền. Gặp lúc Thái Tuế tới dễ mắc chứng bạch đới cấp tính

6. Lục Bạch
Lục Bạch là sao Vũ Khúc, là cát tinh. Nếu vượng thì quyền uy chấn động bốn phương, làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giàu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì sống cô độc hoặc chết trong binh đau; Người nhà thường góa vợ, có nhiều quả phụ

Lục gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, tiền của dồi dào, con cái học hành đỗ đạt. Nếu suy thì quan lộc tuy không giảm nhưng người nhà thường mắc chứng đau đầu, hoặc gặp tai nạn sông nước.

Lục gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì phát lớn, giàu có nhiều vàng bạc ngọc quý, cuộc sống bình yên, xuất hiện người hành nghề y cứu đời. Nếu suy thì tham lam vô độ, bủn xỉn, hoặc xuất gia đi tu, vợ chồng bất hòa chia cách. Người nhà thường mắc các chứng về đầu, xương, dạ dày, đường ruột

Lục gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều hanh thông, quyền uy hơn người. Nếu suy thì dễ gặp nạn binh đao, bị thương, cha con bất hòa, có tang tóc.

Lục gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có, thành công trên thương trường, nhất là lãnh vực buôn báng đường xa, hoặc được làm quan võ. Nếu suy thì khắc vợ hoặc bị khổ sai, có khi người vợ không chịu đựng nổi, phải bỏ mà đi. Người nhà thường đau tay, đau đầu hoặc bị tê liệt

Lục gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều tốt, nhưng có tiểu nhân ngầm hại. Nếu suy thì tiểu nhân chống đối, làm hao tổn tinh thần hoặc mất chức. Chủ nhân nhiều bệnh tật, thường là bệnh đau đầu, tinh thần bất ổn có thể làm điều sai quấy

Lục gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, quyền chức cao. Nếu suy thì gặp nhiều rắc rối, khó thoát thân, có khi phải ngầm di chuyển chỗ ở; hoặc bị hung đồ truy đuổi mà phải trốn chạy, của cải tổn thất, dễ bị tai nạn trên đường.

Lục gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì làm văn quan hay võ chức đều có quyền lớn trong tay, tài lộc thuận lợi. Nếu suy thì dễ bị thương vì đao kiếm, hoặc vì tranh chấp mà bị tổn thương. Nhà có thể bị trộm cướp, hoặc vì xích mích mà gặp rắc rối . Già trẻ đều không yên, thường mắc bệnh đau đầu, đau miệng, đau họng

Lục gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì có văn chức, võ quyền, công danh và bổng lộc đều có, con cháu được thừa hưởng gia nghiệp hưng thịnh. Nếu suy thì tuy quan lộc không giảm nhưng người nhà phần nhiều mắc bệnh đau đầu, đau xương.

Lục gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu thiên môn nên đinh tài đều vượng, chủ nhân quyền cao chức trọng lại sống thọ. Người nhà xuất hiện võ tướng tài ba. Nếu suy thì hỏa đốt thiên môn, người nhà sinh con bất hiếu. Con cháu dòng trưởng sa sút, gặp hỏa khắc kim thì dễ bị bệnh thổ huyết . Hỏa thiêu dốt thiên môn nên trong nhà dễ sinh nghịch tử; hỏa thịnh thì dễ gặp tai ương

vanhoai
28-06-09, 06:10
7. Thất Xích
Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh. Nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng . Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm . Gia đạo không yên, có thể vì hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mể tửu sắc .
Thất là hung tinh vì vậy nên tịnh mà không nên động . Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn . Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan Đầu thì sẻ các biểu hiện như:
a. Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y
b. Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể
c. Bên ngoài có sa hình dạng cái kềm thì trong nhà có người làm thợ thủ công
d. Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch
e. Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp
f. Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng

Thất gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì thủy kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản

Thất gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý . Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị.

Thất gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao, trộm cướp . Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán . Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai.

Thất gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yếu

Thất gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa

Thất gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau đầu, viêm nhọt

Thất gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên dễ bị quan tai

Thất gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật

Thất gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn . Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càn nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn . Nếu Loan Đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai

8. Bát Bạch
Bát Bạch là sao Tả Phụ, là cát tinh. Nếu vượng thì trung hiếu, phú quý dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc tổ tiên. Nếu suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch

Bát gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì đại lợi về văn chương học hành, văn chức thăng tiến, đặc biệt thuận lợi về kinh doanh địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh thiếu máu, bệnh về tai; anh em trong nhà bất hòa, bạn bè phản bội, hoặc phụ nữ không sinh đẻ, trẻ con chết đuối.

Bát gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có nhờ địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh đau dạ dày, đường ruột, hoặc bị chó cắn. Nếu Loan Đầu bên ngoài có dải núi chạy đi thì có thể xa rời quê hương đất tổ, xuất gia làm tăng ni hoặc chết ở đất khách quê người

Bát gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì địa sản (nhà cửa, ruộng vườn) dồi dào, quyền lực tăng tiến lên đột ngột, nhờ đước số của Tiên Tiên bát quái nên việc hợp tác rất tốt. Nếu suy thì của cải thất thoát, chức quyền giảm sút. Trong nhà có người bị thương nhẹ ở tay chân hoặc có bệnh gan, dạ dày

Bát gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền, giàu có về ruộng vườn và nhà cửa. Nếu suy thì có tổn thương nhỏ, vợ lấn quyền chồng, gia đạo bất hòa. Ra ngoài dễ gặp tai nạn xe thuyền, hoặc làm ẩn sĩ ở chốn núi rừng

Bát gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài lộc phát đạt, vận thế hanh thôn. Nếu suy thì hao tài tổn sức, dễ bị bệnh nhẹ, vận thế trở ngại. Dễ mắc bệnh đau bao tử, đường ruột, hoặc ngộ độc thức ăn

Bát gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì dễ trở thành quan văn, nhiều quyền thế, phú quý và phúc đức tăng cao. Nếu suy thì thì vẫn giàu sang nhưng cha con bất hòa, dễ mắc bệnh đau đầu, nhức xương.

Bát gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì văn chức võ quyền đều có, tài lộc sung túc, vợ chồng hòa thuận, con cái an khang. Nếu suy thì tài sản dễ tiêu tán, vợ chồng mâu thuẩn bất hòa, con cháu tổn thất.

Bát gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi về văng chương, học hành; phát về ruộng vườn, nhà cửa; giàu sang phú quý đều có, sự nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì sự nghiệp suy tàn, của cải thất tán. Thường mắc bệnh nhức xương đau vai

Bát gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì tin vui đến dồn dập; giàu có không ai sánh kịp, có địa vị trong triều đình. Nếu suy thì mắt mũi lắm tật bệnh, bụng nhiệt, đại tiện ra máu, hoặc bị hỏa hoạn.

9. Cửu Tử
Cửu Tử là sao Hữu Bật . Nếu vượng thì văn chương lừng lẫy, vinh hiển đột ngột, con cháu dòng giữa được hưởng phú quý . Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa ở chốn quan trường, bị thổ huyết, điên loạn, bệnh mắt, hoặc sinh đẻ khó

Cửu gặp Nhất là khắc nhập. Nếu vượng thì trong nhà có nhiều việc vui mừng, âm dương chính phối, thủy hỏa có đủ, vợ sinh nhiều con trai, giàu sang đến đột ngột. Nếu suy thì con cháu dòng giữa lụn bại, có bệnh ở mắt và tai. Nếu kèm theo Thất Xích bay đến thì e rằng có hỏa tai

Cửu gặp Nhị là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, mẫu thân quản lý gia sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, tran viên bị hỏa hoạn, dạ dày nóng nên đại tiện ra máu, dễ có bệnh đường ruột hoặc bệnh mắt.

Cửu gặp Tam sinh nhập. Nếu vượng thì đèn luôn rực sáng sảnh đường, quyền cao chức trọng, uy chất bốn phương, con cháu thông minh đắc chí. Nếu suy thì e rằng có kiếp nạn vì dâm loạn, có hỏa hoạn. Đàn ông hung ác, bại hoại thanh danh. Người nhà dễ bị bệnh mắc, hoặc bị thương tật ở chân

Cửu gặp Tứ sinh nhập. Nếu vượng thì sảnh đường rực sáng, chồng vẻ vang danh tiếng, vợ sang quý đẹp đẽ, con cháu thông minh, tài văn chương nổi bật, có nhiều hoạnh tài, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì nam nữ dâm loạn, danh tàn thân bại, sự nghiệp tiêu tan, thường bị bệnh mă*'c hay lưng eo. Con cháu hoang đàng bừa bãi

Cửu gặp Ngũ là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về địa sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, con có tổn thương về mắt. Nếu Loan Đầu bên ngoài có ngọn núi trọc vi bị tàn phá thì con cháu thi cử khó đỗ đạt; trong nhà có người bị tật hay mù lòa, hoặc vì sắc dục mà mắc bệnh giang mai, nhọt độc.

Cửu gặp Lục khắc xuất. Nếu vượng thì văn chương hiển đạt. Thất Bát Cửu liền nhau là ứng nghiệm tám đời đều đó tài văn chương. Chủ nhân khỏe mạnh sống lâu, gia đạo an khang. Nếu suy thì lửa thiêu đốt thiên môn, trong nhà sinh ra nghịch tử, hoặc con cháu bỏ nhà ra đi. Hỏa khắc kim (phế thuộc kim) nên dễ bị thổ huyết, hoặc bệnh lao.

Cửu gặp Thất khắc xuất. Nếu vượng thì nam nữ thông minh lanh lợi, tiền của hoạnh tài đến tay. Nếu suy thì nam nữ nghiện ngập; vì ham mê tử sắc hoặc bị hỏa hoạn mà tài sản tiêu tán, nhà có người mắc bệnh lao. Cửu Thất là hỏa của Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái, cho nên chủ về hỏa hoạn và củng là quan tai.

Cửu gặp Bát là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, văn chức thăng tiến, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì hỏa viêm thổ táo, sinh con ngu đần. Nhà có người bị tật mắt hoặc mắc bệnh đau bao tử

Cửu gặp Cửu là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài văn chương hiển hách, nổi tiếng khắp nơi, gia cảnh rực rỡ, đinh tài phát đột ngột. Nếu suy thì sinh nhiều con gái, nam nữ hiếu sắc. Trong nhà có người bị tật ở mắc hoặc mù lòa . Trong nhà dễ có người bị bệnh bạch đới cấp tính.

(trích từ Thẩm thị Huyền Không học)

QuocTrung
11-07-09, 16:24
Anh Van Hoai

Em đọc trong trang web phong thủy http://tyhuu.com/.

4.Tỳ Hưu còn có tác dụng hóa giãi “Ngũ hoàng đại sát”. Ngũ hoàng đại sát là một sát tinh trong phong thủy, khi nó vào nhà thì tác dụng của nó thật vô cùng đáng sợ : Mang đến những điều bất lợi cho những thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.

Nếu ở phương vị ngũ hoàng đại sát bay đến, ta đặt hai con Tỳ Hưu phía sau cửa chính, đầu Tỳ Hưu hướng về phía trước, thì có thể hóa giải sát khí của ngũ hoàng đại sát.điều cần phải nhớ là: Xem ngày giờ tốt để đặt.

về vấn đề này em cũng chưa hiểu lý giải như thế nào ? anh có thể lý giải giúp em được kg Anh .

longtuan
12-07-09, 12:39
Anh Van Hoai

Em đọc trong trang web phong thủy http://tyhuu.com/.

4.Tỳ Hưu còn có tác dụng hóa giãi “Ngũ hoàng đại sát”. Ngũ hoàng đại sát là một sát tinh trong phong thủy, khi nó vào nhà thì tác dụng của nó thật vô cùng đáng sợ : Mang đến những điều bất lợi cho những thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.

Nếu ở phương vị ngũ hoàng đại sát bay đến, ta đặt hai con Tỳ Hưu phía sau cửa chính, đầu Tỳ Hưu hướng về phía trước, thì có thể hóa giải sát khí của ngũ hoàng đại sát.điều cần phải nhớ là: Xem ngày giờ tốt để đặt.

về vấn đề này em cũng chưa hiểu lý giải như thế nào ? anh có thể lý giải giúp em được kg Anh .
Về tỳ hưu thì tôi chưa dùng và cũng chưa quy nạp ngũ hành cho nên chưa rõ nhưng chế ngũ hoàng thổ tinh thì thiếu gì cách cũng đơn giản rẻ tiền . Ngũ hoàng thuộc thổ thì dùng mộc để chế ,dùng kim để hóa . Chế là cưỡng chế không hay bằng hóa ,chế là là khẩu phục , hóa là tâm phục khẩu phục . Khi ngũ hoàng ở bản cung là ở nhà thì không nên kích họat nó nên ,ở nhà thì mạnh nhưng khi rời bản cung nghĩa là làm khách thì sẽ mất đi sức mạnh .

QuocTrung
12-07-09, 15:44
Về tỳ hưu thì tôi chưa dùng và cũng chưa quy nạp ngũ hành cho nên chưa rõ nhưng chế ngũ hoàng thổ tinh thì thiếu gì cách cũng đơn giản rẻ tiền . Ngũ hoàng thuộc thổ thì dùng mộc để chế ,dùng kim để hóa . Chế là cưỡng chế không hay bằng hóa ,chế là là khẩu phục , hóa là tâm phục khẩu phục . Khi ngũ hoàng ở bản cung là ở nhà thì không nên kích họat nó nên ,ở nhà thì mạnh nhưng khi rời bản cung nghĩa là làm khách thì sẽ mất đi sức mạnh .

Anh LongTuan
Cám ơn anh khi hóa giải Ngũ hoàng thì dùng hủ muối và 6 đồng tiền thì em cũng đã dùng nhưng khi có những ý tưởng mới thì ta cũng nên xem trong bản chất của nó có đã dùng theo phương pháp nào để hóa giải và có thể làm cho chúng ta ứng dụng đúng theo ý nghĩa . Ví dụ như năm nay ngũ hoàng niên tinh tới Bắc . ngoài ra trong tinh bàn của mổi nhà có ngũ hoàng ( hướng tọa vận ) thì ta dùng bố trí các dụng cụ hóa giải như thế nào để áp chế nó .
Theo như em nghĩ thì ngũ hoàng Chế là cưỡng chế không hay bằng hóa ,chế là là khẩu phục , hóa là tâm phục khẩu phục có những NH cần chế có ngũ hoàng hóa . Ngũ hoàng nguyệt ,niên thì chế ; ngũ hoàng hướng tinh ,tinh bàn nhà thì hóa , nên do đó ta phải tùy cơ ứng mà dùng những dụng cụ hóa giải
có vài ý kiến , mong Anh LongTuan va AcE đóng góp
thân

vanhoai
16-07-09, 20:14
Lập trạch và sự thành bại

Khi chuẩn bị xây dựng một căn nhà mới hoặc chuẩn bị vào ở một căn nhà mới chúng ta cần phải coi cho kỹ trước khi quyết định. Vì nhiều khi coi không kỹ đến khi vào ở thì những chuyện không may sảy đến, lúc đó muốn sửa chữa thì thật là nan giải. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu từng trường hợp tạo nên cát, hung cho một căn nhà.


Vận
Trước hết xin nói rõ hơn về vận khí từng giai đoạn
Theo Huyền Không Phi Tinh thì có 3 Nguyên (gốm THƯỢNG NGUYÊN, TRUNG NGUYÊN và HẠ NGUYÊN), mỗi nguyên có 3 vận (tất cả là 9 VẬN), mỗi vận là 20 năm. Thí dụ: Chúng ta đang ở vận 8 từ năm 2004 đến 2023. Vì sự dịch chuyển của thời gian có sai số nên thời gian tính mổi vận vào thời đại chúng ta có sớm hơm một chút (khoảng nửa năm), như vậy nửa cuối năm 2003 được tính là thuộc vận 8 và tinh bàn sẽ lập theo vận 8.
Thời gian tính để lập tinh bàn :
_ Được tính khi người bắt đầu vào ở ( ăn, ngủ, đốt bếp,…). Không tính giai đoạn làm nhà
_ Khi đổi vận: đỡ mái lợp lại để cho ánh nắng chiếu xuống tới nền nhà đối với nhà trệt, sửa chữa trên 30% căn nhà hoặc thay đổi hình thể căn nhà như: nhà dạng Kim thay thành dạng thổ,…Đi xa khỏi nhà trên 2 tháng hoặc nhà bỏ trống nhà trên 1 tháng
Sinh Vượng Suy Tử :
Số bằng với số đương vận thì gọi là vượng khí, hơn một gọi là sinh khí, hơn hai gọi là tiến khí. Số đương vận trừ một gọi là thoái khí, trừ hai và các số còn lại gọi là tử khí
_ TIẾN KHÍ: Số tốt nhưng còn rất xa nên lực không mạnh.
_ SINH KHÍ: Số tốt cần phát huy tuy còn hơi xa.
_ VƯỢNG KHÍ: Số cực tốt, nó chi phối tất cả. Nhà có cửa được vượng khí thì ba cái tẹp nhẹp nhiều khi không cần tính đến, chỉ khi nào qua vận kế nó trở thành thoái khí thì mấy anh chị kia mới trỗi dậy mà sinh nhiều vấn đề
_ THOÁI KHÍ: năng lực đã suy thoái trở nên xấu nhưng tác hại chưa mạnh lắm trừ ba sao 2, 5, 7
_ TỬ KHÍ: Số rất xấu cần phải né tránh
Hình thế bên ngoài và Sinh Vượng Suy Tử
_ Hướng tinh: Sao Sinh, Vượng thì cần thấy thuỷ, trống thoáng hay đường đi(gọi là hướng tinh đắc cách). Nếu khu vực này lại có núi, đồi , nhà cao hoặc cây cao thì lại trở thành Suy, Tử(gọi là hướng tinh thất cách). Sao hướng tinh suy tử gặp thuỷ càng suy thêm
_ Sơn tinh: Sao Sinh, Vượng thì cần thấy núi, đồi, nhà cao hoặc cây cao( gọi là sơn tinh đắc cách). Nếu khu vực này lại có ao hồ, trống thoáng hay đường đi thì trở thành Suy, Tử (gọi là sơn tinh thất cách). Sao sơn tinh là suy tử gặp núi( đồi hoặc nhà cao, cây cao) lại càng suy thêm
“Sơn quản nhân đinh, thuỷ quản tài”
Nếu sơn tinh là sinh vượng khí được đắc cách thì nhà có nhiều người hoặc thêm người, người nhà khoẻ mạnh ít bệnh tật. Nếu là suy tử khí hoặc thất cách thì nhà thưa vắng hoặc bệnh tật
Nếu hướng tinh là sinh vượng khí được đắc cách thì tiền bạc dồi dào. Nếu là suy tử khí hoặc thất cách thì tiền bạc eo hẹp

vanhoai
16-07-09, 20:32
Đại không vong
Trên la bàn phân chia làm 8 hướng mỗi hướng 45 độ tuyến vị nằm ngay vị thế phân chia giữa 2 hướng gọi là đại không vong
Như vậy, có 8 tuyến Đại không vong trên la bàn như sau:

- Tuyến 22 độ 5 (giữa BẮC và ĐÔNG BẮC).
- Tuyến 67 độ 5 (giữa ĐÔNG BẮC và ĐÔNG).
- Tuyến 112 độ 5 (giữa ĐÔNG và ĐÔNG NAM).
- Tuyến 157 độ 5 (giữa ĐÔNG NAM và NAM).
- Tuyến 202 độ 5 (giữa NAM và TÂY NAM).
- Tuyến 247 độ 5 (giữa TÂY NAM và TÂY).
- Tuyến 292 độ 5 (giữa TÂY và TÂY BẮC).
- Tuyến 337 độ 5 (giữa TÂY BẮC và BẮC).

Ngoài 8 tuyến vị kể trên (được coi là 8 tuyến Đại không vong chính), còn có những tuyến nằm gần sát và 2 bên những tuyến đó trong khoảng 1,5 độ cũng đều được coi là những tuyến Đại không vong cả.
Những nhà thuộc tuyến Đại không vong đều bị coi là “LẠC QUẺ” hay “XUẤT QUÁI” (tức ra ngoài phạm vi 1 hướng) bởi vì tạp khí hỗn loạn,
Khi lập tinh bàn cho nhà đại không vong ta lập 2 tinh bàn chồng nên nhau, cho nên khí của 2 quẻ pha tạp tạo nên sự hỗn loạn. Những căn nhà này dể có nhiều tai họa nghiêm trọng như bị tà khí chi phối, bị ma quỷ quấy phá, cũng như con người trở nên hẹp hòi, thô lậu, bần tiện, gian trá hơn. Nhà đại không vong có nhiều tai hoạ mà dẫn tới chủ nhà phải ra đi biến căn nhà thành nhà hoang.
Tiểu không vong
Mỗi hướng lại có ba sơn (hướng), mỗi sơn chiếm 15 độ vị chi là 24 sơn trên la bàn
Các tuyến tiểu không vong là:
- Hướng BẮC: gồm những tuyến: 352 độ 5, 7 độ 5, và 22 độ 5.
- Hướng ĐÔNG BẮC: những tuyến: 37 độ 5, 52 độ 5, và 67 đô 5.
- Hướng ĐÔNG: gồm những tuyến: 82 đô 5, 97 độ 5, và 112 độ 5.
- Hướng ĐÔNG NAM: những tuyến: 127 độ 5, 142 độ 5, và 157 độ 5.
- Hướng NAM: gồm những tuyến: 172 độ 5, 187 độ 5, và 202 độ 5.
- Hướng TÂY NAM: những tuyến: 217 độ 5, 232 độ 5, và 247 độ 5.
- Hướng TÂY: gồm những tuyến: 262 độ 5, 277 độ 5, và 292 độ 5.
- Hướng TÂY BẮC: những tuyến: 307 độ 5, 322 độ 5, và 337 độ 5.

Tuy nhiên, nếu để ý kỹ thì ta thấy tất cả những tuyến Tiểu không vong cuối cùng của mỗi hướng như 22 độ 5 của hướng BẮC, 67 độ 5 của hướng ĐÔNG BẮC, 112 độ 5 của hướng ĐÔNG... đó chính là những tuyến Đại không vong.

Nhà ở tuyến vị tiểu không vong thì âm dương lẫn lộn làm cho gia đạo không yên. Nhưng nếu để ý thì ta thấy nếu là Thiên nguyên long và Nhân nguyên long trong mỗi hướng đều cùng một khí Âm hoặc Dương cho nên những tuyến tiểu không vong này thực tế là vô hại. Chỉ khi phạm vào giữa địa nguyên long với hai nguyên long kia thì cần tránh kẻo mang hoạ.
Nhà gặp tuyến không vong nếu 2 tinh bàn chồng lên nhau lại được những cát tinh vào cùng một cung thì vẫn luận là tốt
Sau đây là một thí dụ điển hình trích trong TRẠCH VẬN TÂN ÁN
“VỢ; CHỒNG LỤC ĐỤC CHIA TAY”
Bên ngoài cửa Đại Nam, Thượng Hải, có nhà họ Thẩm, xây dựng ở vận 3, sáng sủa rộng rãi. Chỉ tiếc là có khe hở chạy dài giữa nhà theo hướng NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, phạm Không vong, chẳng thể ở lâu. Nếu ở lâu sẽ chuốc tai tiếng, vợ chồng lục đục dẫn tới bỏ nhau, cốt nhục chia lìa đau khổ.
(Dưới đây là trạch vận căn nhà)
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/16/08/88221247750721.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7466718.html)

(Chú ý vì tọa-hướng nhà nằm giữa các sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ, nên khi lập trạch vận thì đem những vận tinh tới tọa và hướng nhập trung cung, xong xoay chuyển theo cả 2 chiều thuân-nghịch cho phù hợp âm-dương với 4 sơn NHÂM-BÍNH – TÝ-NGỌ. Do đó, tại mổi khu vực sẽ có 2 Sơn tinh và 2 Hướng tinh).
Nhà này trong vận 3, khí khẩu đắc (các) Hướng tinh 8, 6, 1, 4 (nơi ngoại khí khẩu ở khu vực phía TÂY BẮC, và nội khí khẩu ở khu vực phía TÂY NAM), THANH DANH TỐT ĐẸP. Gian bếp (nơi khu vực phía ĐÔNG BẮC) có hướng thủ thiên tinh 1, 4 đến (tức nơi đó có 2 Hướng tinh 1 và 4). Nếu mở cửa sau ở gian này, CÓ THỂ NÓI LÀ ĐẠI CÁT. Tiếc rằng lại không mở, để Sơn tinh 2, 5 hoạt động (nên chủ hại cho nhân đinh). Năm 1926 BÍNH DẦN (lúc đó đã qua vận 4), Ngũ Hoàng chiếu vào bếp (vì năm đó 2 nhập trung cung, nên niên tinh 5 tới ĐÔNG BẮC), chủ vợ, chồng ốm nặng, lục đục, dẫn đến ly hôn. Hướng tuy gặp thoái khí Nhị Hắc phải tiêu nhiều tiền, nhưng có vượng khí Tam bích cùng đến (vì nhà hướng NAM, tại đây có cả 2 Hướng tinh 3, 2 cùng tới). Lại thêm nội khí khẩu Tứ lục là sinh khí cùng tới, nên tiền vào gấp đôi, khá tốt. Bước sang vận 4, cửa trước, cửa sau 2, 3 đều là khí suy thoái (cửa trước nơi phía NAM có 2 Hướng tinh 3, 2; cửa sau nơi phía BẮC có 2 hướng tinh 2, 3). May nhờ nội khí khẩu ở phía cổng Tứ lục (tức khu vực phía TÂY NAM) đến bổ trợ, nhưng vẫn khiến chủ nhà thu không bù chi, luôn lo lắng.
Sang vận 4, thường dùng cửa phía BẮC (nơi có đường xe điện ra vào). Đường dẫn khí tuy nông (vì cửa nằm ngay sát đường), nhưng dẫn khí sinh vượng nên còn được thuận lợi. Ít lâu sau, chủ nhà nằm mơ người vợ đã chết về báo mộng là ông sẽ ốm nặng, phải bỏ việc kinh doanh, khuyên ông nên dời đi nơi khác. Chẳng mấy chốc thấy ngay ứng nghiệm. Trong nhà lại thường thấy có chuột chết, là điềm gở. Năm ĐINH MÃO, sao Bệnh Phù (Nhị Hắc) chiếu tới bếp căn nhà phía TÂY (vì nhà này có 2 bếp, bếp này nằm tại khu vực phía TÂY BẮC của phòng này), nên 2 cha con họ Thẩm ốm nặng từ tháng 5 đến tháng 8. Hiện họ Thẩm đã chuyển đi nơi khác. Tiên sinh Thẩm điệt Dân (con trai của Thẩm trúc Nhưng) nhận xét:”Phàm hướng Không vong hay thấy ma quỷ”.
Ta thấy những vấn đề sau:
_ Nhà tuy phạm đại không vong nhưng vì cửa trong và ngoài đều được cát khí nên vẫn tốt đẹp cả về tài lộc lẫn thanh danh. Chỉ đến khi thất vận mới có tai hoạ mà thôi
_ Nhà này hướng không vong là có hoạ về nhân đinh(như vợ, chồng bỏ nhau, cốt nhục chia lìa...), nhưng chỉ đến lúc thất vận, hoặc bếp tọa tại những khu vực có Sơn tinh là khí suy, tử thì họa về nhân đinh mới có.
_ Ngoài ra nhà phạm Đại không vong nếu được thành môn đắc cách thì vẫn vượng phát một thời. Nhưng khi thành môn hết tác dụng tai họa đến liền kề
_ Nếu cửa chính ra vào nhà bị phạm đại không vong hoặc tiểu không vong cũng là đại kỵ vì mang tạp khí vào nhà.
_ Nếu mộ phần gặp Đại không vong hoặc Tiểu không vong (giữa Thiên và địa nguyên long) thì tai họa thật khủng khiếp cho con cháu đời sau.
Những thí dụ cho việc này tôi sẽ trình bày trong phần "Huyền không nghiệm chứng"

vanhoai
16-07-09, 20:44
Chính sơn chính hướng

Tuyến chính hướng là đường thẳng góc đè lên chính giữa chữ nào đó. Lập chính sơn chính hướng mục đích là để chọn khí của quẻ sơn và hướng được thuần khiết, không pha tạp. Lập tuyến kiêm hướng là lệch sang trái hay sang phải để kiêm trái hoặc kiêm phải. Nếu lệch đến một độ số nhất định (theo lý thuyết là từ 3 độ trở lên) thì không còn là quẻ thuần nữa, khi ấy xuất hiện kiêm quái hay kiêm hướng. Nếu lệch ra khỏi quẻ sẽ phạm sai lầm “hướng xuất quái”. Nếu lệch bên trong sẽ phạm sai lầm khí âm dương lẫn lộn. Tuyến không thể lập trạch, nói đơn giản là các tuyến phạm đại không vong và tiểu không vong. Phạm đại không vong chủ về đại hung, hao người tốn của rất nặng. Phạm tiểu không vong thì dẫn đến hung sát, làm ngưới không yên, gia đạo bất ổn. Phạm ngũ hành lẫn lộn dẫn đến khí sát, có thể hao tổn tiền tài, người nhà ốm đau.
Phương pháp lập tuyến đúng phép gọi là “hợp tuyến pháp” nghĩa là không những phải hợp lý với tinh bàn, mà còn phải phù hợp với hình thế bên ngoài. Nếu vì hoàn cảnh bắt buộc phải lập trạch mà xuất hiện kiêm hướng thì phải dùng phương pháp quẻ thế để lý khí và hình thế phù hợp với nhau. Nếu hoàn cảnh địa hình rơi vào vị trí “không vong” thì đành bỏ cuộc đất ấy, không dùng kẻo mang hoạ.
Huyền không phong thuỷ rất coi trọng vấn đề thuần khí.xem nó như là yếu tố đầu tiên quyết định họa phúc, sang hèn của một căn nhà. Như nhà kiêm hướng khi lập tinh bàn thế thấy vượng sơn vượng hướng, cho dù được vậy thì vượng mà không vượng vì khí đã pha tạp. Khi an cổng cửa củng phải lưu ý đến vấn đề thuần khí. Xin được nhắc lại:
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU

NHÂN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ

ĐỊA NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI
Ngoài vấn đề thuần khí âm dương Khi an cổng, ngõ lại còn phải áp dụng phép phân kim sẽ được trình bày ở những hồi sau

vanhoai
16-07-09, 21:01
Phân kim

Cuối đời Thanh, Thẩm trúc Nhưng tiên sinh, ngưới Tiền Đường là một phong thủy gia lỗi lạc cả về Bát Trạch lẫn Huyền Không đã đính chính lại cách phân kim của Tưởng bàn. Mỗi sơn giữ 5 vị trí, mỗi vị trí chiếm 3 độ.
Phương pháp phân kim cụ thể như sau:
_ Sơn Tý có: Giáp Tý (kim), Bính Tý (thuỷ), Mậu Tý (hoả), Canh Tý (thổ), Nhâm Tý (mộc).
_ Sơn Quí có : Giáp Tý (kim), Bính Tý (thuỷ), Mậu Tý (hoả), Canh Tý (thổ), Nhâm Tý (mộc).
_ Sơn Sửu có: Ất Sửu(kim), Đinh Sửu (thuỷ), Kỷ Sửu (hoả), Tân Sửu (thổ), Quí Sửu (mộc)
_ Sơn Cấn có : Ất Sửu(kim), Đinh Sửu (thuỷ), Kỷ Sửu (hoả), Tân Sửu (thổ), Quí Sửu (mộc)
_ Sơn Dần có : Bính Dần (hoả), Mậu Dần (thổ). Canh Dần (mộc), Nhâm Dần (kim), Giáp Dần (thuỷ)
_ Sơn Giáp có : Bính Dần (hoả), Mậu Dần (thổ). Canh Dần (mộc), Nhâm Dần (kim), Giáp Dần (thuỷ)
_ Sơn Mão có : Đinh Mão (hoả), Kỷ Mão (thổ), Tân Mão (mộc), Quí Mão (kim), Ất Mão (thuỷ)
_ Sơn Ất có : Đinh Mão (hoả), Kỷ Mão (thổ), Tân Mão (mộc), Quí Mão (kim), Ất Mão (thuỷ)
_ Sơn Thìn có : Mậu Thìn (mộc), Canh Thìn (kim), Nhâm Thìn (thuỷ), Giáp Thìn (hoả), Bính Thìn (thổ)
_ Sơn Tốn có : Mậu Thìn (mộc), Canh Thìn (kim), Nhâm Thìn (thuỷ), Giáp Thìn (hoả), Bính Thìn (thổ)
_ Sơn Tỵ có : Kỷ Tỵ (mộc), Tân Tỵ (kim), Quí Tỵ (thuỷ), Ất Tỵ (hoả), Đinh Tỵ (thổ)
_ Sơn Bính có : Kỷ Tỵ (mộc), Tân Tỵ (kim), Quí Tỵ (thuỷ), Ất Tỵ (hoả), Đinh Tỵ (thổ)
_ Sơn Ngọ có : Canh Ngọ (thổ), Nhâm Ngọ (môc), Giáp Ngọ (kim), Bính Ngọ (thuỷ), Mậu Ngọ (hoả)
_ Sơn Đinh có : Canh Ngọ (thổ), Nhâm Ngọ (môc), Giáp Ngọ (kim), Bính Ngọ (thuỷ), Mậu Ngọ (hoả)
_ Sơn Mùi có : Ất Mùi (kim), Đinh Mùi (thuỷ), Kỷ Mùi (hoả), Tân Mùi (thổ), Quí Mùi (mộc)
_ Sơn Khôn có : Ất Mùi (kim), Đinh Mùi (thuỷ), Kỷ Mùi (hoả), Tân Mùi (thổ), Quí Mùi (mộc)
_ Sơn Thân có : Nhâm Thân (kim), Giáp Thân (thuỷ), Bính Thân (hoả), Mậu THân (thổ), Canh Thân (mộc)
_ Sơn Canh có : Nhâm Thân (kim), Giáp Thân (thuỷ), Bính Thân (hoả), Mậu THân (thổ), Canh Thân (mộc)
_ Sơn Dậu có : Quí Dậu (kim), Ất Dậu (thuỷ), Đinh Dậu (hoả), KỶ Dậu (thổ), Tân Dậu (mộc)
_ Sơn Tân có : Quí Dậu (kim), Ất Dậu (thuỷ), Đinh Dậu (hoả), KỶ Dậu (thổ), Tân Dậu (mộc)
_ Sơn Tuất có : Giáp Tuất (hoả), Bính Tuất (thổ), Mậu Tuất (mộc), Canh Tuất (kim), Nhâm Tuất (thuỷ)
_ Sơn Kiền có : Giáp Tuất (hoả), Bính Tuất (thổ), Mậu Tuất (mộc), Canh Tuất (kim), Nhâm Tuất (thuỷ)
_ Sơn Hợi có : Ất Hợi (hoả), Đinh Hợi (thổ), Kỷ Hợi (mộc), Tân Hợi (kim), Quí HỢi (thuỷ)
_ Sơn Nhâm có : Ất Hợi (hoả), Đinh Hợi (thổ), Kỷ Hợi (mộc), Tân Hợi (kim), Quí HỢi (thuỷ)
Nguyên tắc sử dụng phân kim là ở chỗ vượng thì tiết giảm, suy thì bổ cứu, tránh hung theo cát, tức tránh tương khắc (nếu khắc xuất là tiết), theo cát (sinh nhập, ngang hoà là cát, sinh xuất là tiết). Tóm lại là phải vận dụng linh hoạt.
Thí dụ : Vận 8 sơn càn hướng tốn.
Địa bàn chính châm của sơn Càn có : Giáp Tuất hoả, Bính Tuất thổ, Mậu Tuất mộc, Canh Tuất kim, Nhâm Tuất thuỷ. Nay vận 8 , Bát là quẻ Cấn thuộc thổ: lấy năm hạng mục nạp âm ngũ hành phân kim trên để luận sinh khắc thì :
_ Giáp Tuất hoả, tức hoả sinh thổ, khí của thể được sinh nhiều nên luận là cát lợi.
_ Bính Tuất thổ, tức tỵ hoà nên luận cát lợi.
_ Mậu Tuất mộc, tức mộc khắc thổ, khí của thể bị khắc, sát khí quá nặng nên luận hung.
_ Canh Tuất kim, tức thổ sanh kim, khí của thể bị tiết quá nhiều nên luận không cát lợi.
_ Nhâm Tuất thuỷ, tức thổ khắc thuỷ, khí của thể cũng bị hao tổn
_ Lại coi nạp âm của ngày tháng năm nhập trạch xem sinh khắc thế nào với phân kim thì mới gọi là hoàn hảo
Ngoài ra cần lưu ý đến làn ranh phân kim, nếu phạm sẽ dẫn đến ngũ hành lẫn lộn mà có nhiều hung sát
BẢNG TỔNG HỢP của Bác KÉP NHỰT
1_ Trong vòng tròn có 24 sơn: màu đỏ là dương, màu đen là âm.
2_ Trong vòng tròn chia thành 120 phân kim và vòng tròn có 8 hướng: màu đỏ là hoả, vàng là thổ, đen (vì màu trắng không viềt được) là kim, màu xanh dương là thuỷ, màu xanh lá cây là mộc
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/16/08/32661247752514.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7467956.html)

vanhoai
18-07-09, 05:59
Phục ngâm, phản ngâm

Chúng ta đã biết mỗi cung hướng đều đi liền với một số của cửu tinh như: 2, 5, 8 là cung khôn, cung cấn. 3, 7 là cung chấn cung đoài. 4, 6 là cung tốn, cung càn. 1, 9 là cung khảm cung ly. Khi lập tinh bàn mà gặp trường hợp phi tinh của sơn hoặc hướng là ngũ hoàng nhập trung cung, nếu bay thuận thì số của phi tinh giống số của địa bàn đó là bị phục ngâm, nếu đi nghịch thì số của phi tinh nằm ở cung đối diện với số của địa bàn đó là bị phản ngâm.
* Phục ngâm: tức là tăng năng lực vì cùng một số, lúc đó năng lực cửa cửu tinh là tốt hay xấu sẽ tăng lên gấp nhiều lần
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/18/06/37181247874203.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7498135.html)

* Phản ngâm: Tức là lực đối kháng lại, cũng làm năng lực của cửu tinh tăng lên gấp nhiều lần nhưng ở chiều ngược lại
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/18/06/27961247874194.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7498134.html)

- Nếu hướng tinh là vượng tinh mà lại bị Phản Ngâm hay Phục ngâm: trường hợp này không ngại, chỉ cần có thuỷ ở hướng (tức phương có vượng tinh) là vẫn có thể dùng được. Như trường hợp nhà Khôn hướng Cấn vận 8, nhà có hướng tinh 8 nằm ở phía TÂY NAM (tức phương toạ) tức là bị Phản ngâm. Nhưng trong vận 8, hướng tinh Bát bạch là vượng tinh, nếu đắc thuỷ thì vẫn tốt như thường. Tuy nhiên, nếu đến cuối vận 8 mà không tu sửa nhà hay dời chỗ ở thì lúc đó tai hoạ mới xảy ra. Ngược lại, nếu nhà có vượng tinh bị Phục ngâm, như trường hợp nhà toạ MÙI, hướng SỬU trong vận 8, nếu đầu hướng có cửa hay thuỷ cũng đều tốt như thường, dù biết rằng trong vận 8 mà có thuỷ ở phía ĐÔNG BẮC là bị Linh thần thuỷ, chủ phá tài.
- Trường hợp hướng tinh là khí suy, tử mà lại bị Phản, Phục ngâm: nếu trong những trường hợp này, hướng tinh bị Phản, Phục ngâm lại nằm chung với vượng tinh của sơn thì có thể dùng cách "dùng sơn để chế ngự thuỷ", tức là xây nhà cao, đắp đất. trồng cây cao tại nơi đó để "xuất sát" của thuỷ thần bị Phản, Phục ngâm. Ngược lại, nếu cả sơn và hướng tinh đều là khí suy tử thì 1 là tránh làm động chỗ đó. Nếu nơi đó là cửa ra vào thì nên dời cửa đi nơi khác. Nếu nơi đó là 1 khu vực của căn nhà thì tránh dùng làm phòng ăn, phòng ngủ, buồng tắm... chỉ có thể dùng làm nhà kho hoặc bỏ trống là tốt nhất. Nếu là phòng ngủ thì còn cần để ý xem phương vị của cửa phòng có nằm tại phương bị Phản, phục ngâm hay không? Nếu có thì cũng phải tránh. Còn cách thứ 2 là dùng phương pháp hoá giải tức là nếu sao bị Phản, Phục ngâm là hành Thổ thì dùng Kim hoá, nếu là hành Thuỷ thì dùng Mộc hoá... để làm giảm nhẹ mọi tai hoạ đi thôi.
- Nếu sơn tinh là vượng tinh mà lại bị Phản, Phục ngâm thì cũng không ngại. Nơi đó nếu có nhà cao hay cây cối, gò đống thì vẫn tốt cho vận đó, chỉ đến vận sau mới đáng ngại cho nhân đinh.
- Trường hợp Sơn tinh bị Phản, Phục ngâm: nếu sơn tinh nằm chung với vượng tinh của hướng ở cùng 1 cung thì dùng cách "đắc thuỷ để thu sơn" mà hoá giải. Nếu cả sơn tinh lẫn hướng tinh đều là khí suy tử thì cũng theo những cách đã nói ở phần trên mà hoá giải.
- Trường hợp Hướng tinh hoặc Sơn tinh toàn bàn phản hay phục ngâm (đây là trường hợp Ngũ hoàng nhập trung cung). Nếu nơi hướng tinh vượng có thủy và sơn tinh vượng có sơn thì có thể chế ngự được. Chỉ khi qua vận sau nếu không tu sửa lại thì tai họa mới đến.

sonthuy
18-07-09, 19:10
Chào anh VanHoai
Chào anh NguyenKimYen
Anh VanHoai đang viết loạt bài về phong thủy huyền không rất bổ ích cho những người mới tìm hiểu về phong thủy huyền không trong đó có bài Hướng nhà và Tâm nhà, và bài Phân kim cũng hiểu được nhưng chưa tường tận, hai anh có thể viết riêng chuyên mục về Phân Kim Lập Hướng thì tốt hơn cho những người mới biết về phong thủy cũng vì tôi tìm hiểu trên web và sách vở thì chưa thấy có chuyên mục này (chỉ nói về 1 vài khái niệm rời rạc chưa thấu đáo, rất khó tiếp thu ).
Cũng như anh VanHoai viết : “Những cách này không thể chính xác được . Tại sao ? đó là gì la bàn không có điểm tựa, và người đứng không có điểm tựa, nhích một chút là đã sai lệch thấp nhất củng 1 độ. Sai lệch 1 độ là rất lớn có thể dẩn tới kết quả đảo ngược . Tại sao? đó là gì khi phân kim ta phân 24 sơn ra 60 long rồi có người lại phân ra 384 quẻ như vậy 0.5 độ đã có thể từ quẻ này sang quẻ khác rồi đừng nói gì tới 1 độ. Dụng cụ để đo hướng nhà là la bàn (dụng cụ chuyên nghiệp là La kinh)’’. thì thấy tầm quan trọng số 1 là Phân Kim Lập Hướng, được hướng tốt rồi mới tính tới các việc tiếp theo… Thay mặt những người mới tìm hiểu về phong thủy nói chung và phong thủy huyền không nói riêng Kính nhờ anh VanHoai anh NguyenKimYen nghiên cứu và đưa lên cho các ACE mở mang kiến thức.
Xin trân trọng cảm ơn.
sonthuy

vanhoai
21-07-09, 17:57
Vượng sơn, vượng hướng

Sau khi đã đo lấy độ hướng, xác định căn nhà thuộc sơn_ hướng nào, ta lập tinh bàn cho căn nhà. Nhìn vào 9 cung hướng của tinh bàn, nơi nào có số sơn hoặc hướng trùng với số đương vận thì gọi là cung vượng. Nếu là số của sơn thì nơi ấy gọi là sơn vượng. Nếu là hướng thì nơi ấy gọi là hướng vượng. Nếu sơn vượng ở toạ và hướng vượng ở hướng thì nhà ấy được gọi là nhà vượng sơn vượng hướng.
Nhà được vượng sơn vượng hướng (còn gọi là đáo sơn đáo hướng hay cách cục châu bảo tuyến) lại thêm hình thế phù hợp, tức phía trước trống thoáng hoặc có đường đi, phía sau có núi, đồi, nhà cao hoặc cây cao cộng thêm bố trí cổng cửa phù hợp thì vượng phát cả tài lộc lẫn nhân đinh.
“Thanh Nang Tự” viết: “Thức đắc âm dương huyền diệu lý, tri kỳ suy vượng sinh dữ tử. Bất vấn toạ sơn dữ thuỷ lai, thản phùng tử khí giai vô thủ”. Ý đoạn văn trên nói rằng: Phong thuỷ cần lấy vượng mà bỏ suy, phương vị có thể xu cát tỵ hung. Mà vượng sơn vượng hướng là “lấy vượng bỏ suy, đón sinh mà tránh sát”. Cho nên nhà cửa mà được vượng sơn vượng hướng thì không những có ích cho tài vận, sự nghiệp, mà còn có thể thúc đẩy sự hưng vượng về người, như đang hiếm muộn vào nhà này sẽ có con, nhà doanh nghiệp có nhiều cộng sự giỏi, …
Các nhà được vượng sơn vượng hướng trong các vận:
1-) Vận 1: Không có
2-) Vận 2: Có 6 nhà
_ Toạ Tốn hướng Càn. Hướng nhà ở 312 đến 318 độ
_ Toạ Càn hướng Tốn. Hướng nhà ở 132 đến 138 độ
_ Toạ Tỵ hướng Hợi. Hướng nhà ở 327 đến 333 độ
_ Toạ hợi hướng Tỵ. Hướng nhà ở 147 đến 153 độ
_ Toạ mùi hướng sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ.
3-) Vận 3: Có 6 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
4-) Vận 4: Có 6 nhà
_ Toạ Giáp hướng Canh. Hướng nhà ở 252 đến 258 độ
_ Toạ Canh hướng Giáp. Hướng nhà ở 72 đến 78 độ
_ Toạ Khôn hướng Cấn. Hướng nhả ở 42 đến 48 độ
_ Toạ Cấn hướng Khôn. Hướng nhà ở 222 đến 228 độ
_ Toạ Thân hướng Dần. Hướng nhà ở 57 đến 63 độ
_ Toạ Dần hướng Thân. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
5-) Vận 5: Có 12 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
_ Toạ Ngọ hướng Tý. Hướng nhà ở 357 đến 3 độ
_ Toạ Tý hướng Ngọ. Hướng nhà ở 177 đến 183 độ
_ Toạ Đinh hướng Quí. Hướng nhà ở 192 đến 198 độ
_ Toạ Quí hướng Đinh. Hướng nhà ở 192 đến 198 đô
_ Toạ Mùi hướng Sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ
6-) Vận 6: Có 6 nhà
_ Toạ Giáp hướng Canh. Hướng nhà ở 252 đến 258 độ
_ Toạ Canh hướng Giáp. Hướng nhà ở 72 đến 78 độ
_ Toạ Khôn hướng Cấn. Hướng nhả ở 42 đến 48 độ
_ Toạ Cấn hướng Khôn. Hướng nhà ở 222 đến 228 độ
_ Toạ Thân hướng Dần. Hướng nhà ở 57 đến 63 độ
_ Toạ Dần hướng Thân. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
7-) Vận &: Có 6 nhà
_ Toạ Mão hướng Dậu. Hướng nhà ở 237 đến 243 độ
_ Toạ Dậu hướng Mão. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Ất hướng Tân. Hướng nhà ở 87 đến 93 độ
_ Toạ Tân hướng Ất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Thìn hướng Tuất. Hướng nhà ở 297 đến 303 độ
_ Toạ Tuất hướng Thìn. Hướng nhà ở 117 đến 123 độ
8-) Vận 8: có 6 nhà
_ Toạ Tốn hướng Càn. Hướng nhà ở 312 đến 318 độ
_ Toạ Càn hướng Tốn. Hướng nhà ở 132 đến 138 độ
_ Toạ Tỵ hướng Hợi. Hướng nhà ở 327 đến 333 độ
_ Toạ hợi hướng Tỵ. Hướng nhà ở 147 đến 153 độ
_ Toạ mùi hướng sửu. Hướng nhà ở 27 đến 33 độ
_ Toạ Sửu hướng Mùi. Hướng nhà ở 207 đến 213 độ.
9-) Vận 9: Không có
Thí dụ: nhà tọa càn hướng tốn , vận 8 có hướng tinh 8 đến hướng và sơn tinh 8 đến tọa
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/21/06/81281248177008.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7602182.html)
Điều cần chú ý là vượng sơn vượng hướng chỉ tốt Cho những nhà nằm trong độ số trên, còn những nhà kiêm hướng dùng tinh bàn thế thấy vượng sơn vượng hướng thì tuy thấy vượng mà không vượng.
Nhà vượng sơn vượng hướng chỉ tốt trong thời gian của vận đó mà thôi. Khi qua vận kế thì sao đương vận của vận này trở thành thoái khí của vận sau tức thành khí xấu, năng lực suy giảm nên cung toạ và hướng của nhà trở thành xấu. Đến vận sau nữa thì các cung này lại càng xấu hơn nữa…Do đó vượng sơn vượng hướng chỉ tốt trong đương vận mà thôi, tức là chỉ tốt nhiều nhất là 20 năm. Điều này giải thích vì sao một nhà đang làm ăn phát đạt bỗng trở nên suy tàn và càng ngày càng lụn bại.

vanhoai
21-07-09, 19:03
Song tinh đáo hướng

Song tinh đáo hướng là một cách cục đặc biệt của vượng sơn vượng hướng. Nhà có song tinh đáo hướng và cặp sơn hướng này là số của đương vận. Nếu phía trước trống thoáng hoặc có đường đi hay có thủy thì đây là cách “ thu sơn” mà thành “vượng sơn, vượng hướng”, tốt đẹp một thời.
Thí dụ: nhà tọa canh hướng giáp, vận 8
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/21/06/43171248177006.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7602181.html)

danglam
22-07-09, 15:54
Chào anh vanhoai,

Cám ơn anh đã chia sẻ những bài viết rất hay. Mong anh tiếp tục gửi bài để mọi người học hỏi.
Trân trọng.

vanhoai
22-07-09, 16:54
Thướng sơn Há thuỷ

Tương phản với vượng sơn vượng hướng là thướng sơn há thuỷ, còn gọi là “Hoả khanh tuyến” tức sơn tinh vượng tới hướng, hướng tinh vượng tới toạ. Theo phái Huyền Không, phàm toạ hướng của trạch phạm vào cách cục “thướng sơn há thuỷ”, tức Thủy thần lên núi, Sơn thần xuống nước thì nhân đinh và tài lộc đều lụn bại.
Trong vận 8 này 6 cách cục phạm thướng sơn há thuỷ là:
_ Toạ Thìn hướng Tuất
_ Toạ Tuất hướng Thìn
_ Toạ Khôn hướng Cấn
_ Toạ Cấn hướng Khôn
_ Toạ Thân hướng Dần
_ Toạ Dần hướng Thân
Thí dụ: nhà tọa Cấn hướng Khôn vận 8
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/22/04/78071248255818.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7622435.html)
Biện Pháp để hoá giải Thướng sơn há thuỷ là dùng phép “đảo kỵ long”, tức là phía sau phải có thuỷ, trống thoáng hoặc có đường đi, Phía trước có núi, đồi, nhà cao hay cây cao. Lúc đó lại vượng phát như nhà vượng sơn vượng hướng
Ngoài cách cục thướng sơn há Thủy còn cách cục song tinh đáo tọa là “vượng đinh, thoái tài”. Cách này cần có thủy hoặc đường đi và núi hay nhà cao cây cao ở phía sau thì mới hóa giải được
Thí dụ: nhà Mão hướng Dậu, vận 8:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/22/04/66391248255820.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7622437.html)
Phong thủy bắt đầu từ hình thế rồi sau phát triển tới lý khí, rồi sau nữa là thời vận. Theo Phái Loan đầu thì nhà cửa hay mộ phần đều cần có núi che chở như : Thanh Long, Bạch Hổ hai bên, sau có huyền vũ che chắn, Trước có minh đường trống thoáng để tụ khí. Nhưng Với Huyền không khi lập trạch cần quan sát sao cho nơi có vượng, sinh khí của Hướng thì trống thoáng. Chỗ có sinh, vượng khí của sơn thì cần có núi hay nhà cao cây cao. Phối hợp hình thế với phi tinh, Sinh Vượng tinh của hướng gặp Thủy, sinh vượng tinh của sơn gặp núi là đã được một thời hưng vượng.
Để biết thế nào là sinh vượng khí, ta lấy sao đương vận làm chuẩn
- Trước 1 số là sinh khí
- Trước 2 số là tiến khí
- Sau 1 số là thoái khí
- Sau 2 số là tử khí.
Thí dụ: Ta đương vận 8 thì:
- 8 là vượng khí
- 9 là sinh khí
- 1 là tiến khí
- 7 là thoái khí
- 6, 5, 4, 3, 2 là tử khí
Phối hợp phi tinh với loan đầu bên ngoài:
Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài. Tức là khi xét vượng hay suy thì hướng tinh nói về tiền tài bên ngoài tới còn sơn tinh nói về người trong nhà.
Hướng tinh:
- Sinh vượng khí: gặp thủy thì vượng, gặp núi thì suy.
- Tử khí: Gặp thủy càng suy thêm. Gặp núi thì xét thêm sơn tinh.
Sơn tinh:
- Sinh vượng khí: gặp núi thì vượng, gặp thủy thì suy.
- Tử khí: gặp núi thì càng suy thêm. Gặp thủy thì xét hướng tinh.
Nếu hướng tinh là tử khí gắp núi, đồi hay nhà cao. Nhưng nếu đi liền với nó là sơn tinh sinh vượng khí thì sơn tinh sẽ “thoát sát” mà cho hướng tinh thành tốt.
Nếu sơn tinh là tử khí gặp nơi trống thoáng, có thủy hay đường đi. Nhưng nếu liền với nó là sơn tinh vượng khí thì đây là cách "thu sơn" và làm cho sơn tinh trở lên tốt đẹp.
Nếu hướng tinh và sơn tinh đều là suy tử khí thì nơi đây cần trống thoáng và không có cửa ra vào nhà.
Cho nên theo Huyền không khi nhà đã phối được phi tinh với loan đầu. Những nhà đạt được cách cục như vậy thì tài sản hưng vượng, con cháu đông đúc, gia nhân trung thành, nhân tài xuất hiện,...Đây gọi là cách "Châu bảo tuyến" tức là tuyến lập trạch quí như gặp châu báu vậy.

vanhoai
22-07-09, 17:44
Nhập tù:

Theo Khương Diêu (đệ tử của Tưởng đại Hồng) thì khi Sao đương vận ở trung cung tức là bị tù thì tai họa khủng khiếp còn hơn cả “thướng sơn, há thủy”. Cho ta thấy khi lệnh tinh (sao đương vận) nhập tù thì gây nhiều tổn thất về nhân mạng cũng như tài lộc. Khi vượng khí vủa sơn tinh hoặc hướng tinh nhập trung cung thì nó bị bao vây tứ phía mà không thể phát huy được năng lực của nó. Khi đó các tử khí mới được dịp tung hoành.
Lệnh tinh (tức là sao đương vận) của hướng nhập Trung-cung thì suy bại, về tài lộc
Lệnh tinh của sơn nhập trung cung thì suy bại về nhân đinh
Như vận 7: hướng Càn, vận tinh bát đáo hướng (số của Vận ở cung hướng
Tây-bắc là 8) như vậy 8 nhập Hướng ở Trung-cung. Ðến vận 8 thì lệnh tinh là 8 nên số của hướng ở Trung-cung là 8 tức bị tù
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/22/07/38751248265374.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7626963.html)
Nếu hướng nguyên thủy của sao tù như: dương trạch (nhà cửa) có cửa và đường xá hay của âm trạch (mồ mả) có thủy thì không bị tù. Thí dụ nhà toạ tốn hướng càn vận 8 có sao 9 nhập trung cung, qua vận 9 là bị tù, nhưng ở hướng nam (sao nguyên thủy là 9) có hướng tinh 5 mà có thuỷ thì không bị tù.
Trường hợp vận 5, Ngũ hoàng nhập Trung-cung thì cũng không là tù.
Như vậy, nếu có thủy ở phương có Hướng có Ngũ-hoàng thì có thể hóa giải được tù.
Trong Thẩm thị Huyền không học có đề cập đến những trường hợp vượng tinh nhập tù như sau:
1/ Thẩm trúc Nhưng khi nói về vượng tinh nhập tù có đưa thí dụ là nhà toạ THÌN, hướng TUẤT, vận 1 nhập trạch thì hướng tinh 2 nhập trung cung bay nghịch, nên hướng tinh 1 tới hướng là đắc vượng khí. Nhưng qua vận 2 thì hướng tinh nhập tù. Ông có đưa ra cách giải là mở cửa hay có thuỷ ở phía TÂY NAM căn nhà. Theo tinh bàn thì hướng TÂY NAM có hướng tinh 5. Hướng TÂY NAM cũng là hướng nguyên thuỷ của 2
2/ Trong Tòng sư tuỳ bút, Khương Diêu cũng đưa ra trường hợp phạm hướng tinh nhập tù nhưng nhà đó vẫn tiếp tục phát. Khi hỏi Tuởng đại Hồng thì được trả lời là tuy hướng tinh nhập tù, nhưng ở hướng có thuỷ nên tù mà không tù, nên không được tính là nhập tù nữa.
3/ Trong phần giải đoán của Chương trọng Sơn có nói đến trường hợp 1 ngôi mộ bị song tinh (sơn và hướng) Nhất bạch chiếu tới, mà phương toạ có hướng tinh Bát bạch, nên vào vận 8 là nhập tù. Tức là trường hợp mà hướng có 2 sao sơn và hướng cùng 1 số với nhau đến, thì hướng tinh ở phương toạ là số gì thì đến vận đó sẽ tự động bị nhập tù. Nhưng trong trường hợp này Chương trọng Sơn cũng nói là trạch vận rất lâu dài, quá tam nguyên cửu vận, nên trong trường hợp này thì Thẩm trúc Nhưng và Vương tắc Tiên đều chú giải là vì nơi phía sau ngôi mộ có hồ nước lớn phóng quang, nên tuy vượng tinh bị tù mà không phải tù, vẫn thoát ra được mà làm cho gia đình này vẫn tiếp tục phát đạt chứ vận khí không chỉ dừng ngay tại đó.
Thí dụ nhà tọa Nhâm hướng Bính. , vận 7 có song tinh đáo hướng. cung đối diện có sơn tinh 8. qua vận 8 thì nhập tù. Nếu có cây cao hay nhà cao thì có thể hóa giải được, bằng không thì có họa về nhân đinh
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/07/22/07/78461248265385.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7626966.html)

- Vấn đề mở cửa hoặc có sông nước ở phương vị có hướng tinh Ngũ Hoàng: Đây là điều dễ hiểu lầm ý của Thẩm trúc Nhưng. Đúng ra là ông ta dùng phương vị có hướng tinh Ngũ Hoàng để phá tù tinh. Nhưng điều này chỉ có thể dùng cho âm trạch (mồ mả) mà thôi. Tức là nếu là âm trạch mà ở hướng có sao Ngũ Hoàng, lại thêm có thuỷ ở đó tức là vận khí của ngôi mộ đó sẽ lâu dài, tới vận có hướng tinh nhập tù cũng vẫn phát chứ không bị suy tàn. Nếu ở đầu hướng không có vận tinh Ngũ Hoàng, nhưng ở 1 phía nào đó có nó, mà nếu khu vực đó lại có thuỷ lớn thì cũng hoá giải được vấn đề vượng tinh nhập tù. Nhưng dù trong trường hợp nào thì chung quanh mộ huyệt đó cũng phải thật trống thoáng, nhất là khu vực có hướng tinh Ngũ Hoàng thì phải cần có đại thuỷ hoặc thuỷ tam thoa (chỗ giao hội của 2 nhánh sông) thì mới có thể hoá giải được. Nói tới đây thì lại vướng mắc tới vần đề đã nêu ra là sao Ngũ Hoàng là sát tinh chuyên gây tai hoạ, nếu nơi nó chiếu tới mà còn có thuỷ thì hoạ lại càng khốc liệt, chứ làm sao có thể tốt được (ngoại trừ tới các vận 4, 5 mà thôi)? Tuy nhiên nếu đọc Trạch vận tân án trong phần nói về sao Ngũ Hoàng có viết "Ngũ Hoàng tuy là hung thần, nhưng nếu chiếu tới âm trạch (mộ phần) thì lại là phúc thần, vượng thần, cực kỳ tốt đẹp". Cho nên mồ mả có Ngũ hoàng chiếu tới đầu hướng, hoặc khu vực nào mà nó chiều tới có thuỷ là điều tốt, chủ trạch vận lâu dài không sợ nhập tù. Nhưng trên thực tế nhận thấy mồ mả có Ngũ Hoàng chiếu tới cũng chỉ tốt đẹp trong các vận 4-5 và những vận có vượng tinh nhập tù. Còn những vận khác thì vẫn đòi hỏi phải có thuỷ ở phương vị của vượng tinh thì con, cháu trong vận đó mới phát đạt được. Chứ không phải là mồ mả có Ngũ Hoàng chiếu tới đầu hướng là sẽ đại phát hết trong tam nguyên, cửu vận được.
_ Đối với dương trạch thì Ngũ Hoàng là sát thủ số 1, nên khu vực mà nó chiếu tới không thể có cửa hay sông nước (ngoại trừ trường hợp trong vận 5, tức lúc đó Ngũ Hoàng là vượng khí thì lại tốt). Nếu có dĩ nhiên là nhà đó sẽ bị hung hoạ liên miên. Chỉ có 1 trường hợp ngoại lệ là khi nhà đó gặp vận có hướng tinh nhập tù thì lúc đó mới nên mở cửa tại phương vị có Ngũ Hoàng để phá tù tinh, nhưng cũng phải với điều kiện là chung quanh nhà và nhất là khu vực có Ngũ Hoàng phải thật rộng rãi, trống thoáng thì mới có hiệu lực. Còn trong các vận khác thì phương này phải yên tĩnh chứ không thể động. Như vậy đối với dương trạch khi tới vận có lệnh tinh nhập tù thì mới mở cửa tại phương vị có hướng tinh ngũ hoàng để giải tù tinh, vì lệnh tinh bị bao vây không lối thoát nay dùng khí đồng nguyên tức là phương vị nguyên thuỷ của nó mà giải nó
_Lại nữa, đối với những nhà có bất kỳ hướng tinh gì nhập trung cung thì đối tượng mà sao đó biểu tượng cũng đều có vấn đề, bệnh tật, tai hoạ dễ bị thương tật , hư hỏng, ăn chơi phá phách hoặc không làm gì được ra trò. Nhưng nếu phương vị nguyên thuỷ của sao đó mà có cửa hay ngã ba, ngã tư hoặc có thuỷ thì đối tượng đó tuy vẫn có tai hoạ nhưng sẽ đỡ hơn nhiều. Nhưng phương này lại là phương có hướng tinh ngũ hoàng nên không dùng cách này được. Cách này chỉ dùng khi đền vận đó mà thôi.Lấy thí dụ như nhà toạ NHÂM hướng BÍNH, trong vận 7 thì hướng tinh số 2 nhập trung cung. Mà số 2 là biểu tượng của người mẹ, người vợ, nên những gia đình này thường gặp tai hoạ xảy đến cho người vợ, người mẹ. Nếu như phía TÂY NAM (là phương vị nguyên thuỷ của số 2) của những nhà này có thuỷ hay cửa hoặc ngã 3, ngã tư thì mức độ tai hoạ lại giảm đi. Một cách giải khác là coi cung có sơn tinh 2 (trong trường hợp này) xem có bị xung khắc để tìm cách chế hoá đi. Như trong thí dụ này thí cung TỐN có sơn-vận-hướng là 2-6-3. Sơn tinh 2 (thổ) khắc 3(mộc) lại ở trong cung TỐN cũng thuộc mộc nay lại còn sanh cho 6(kim) nên rất suy yếu. Ta dùng màu đỏ (hoả) và màu xanh dương (thuỷ) mà sơn tường , làm gạch nền hoặc thảm cho khu vực này thì lúc đó mộc sanh hoả, hoả sanh thổ, thổ sanh kim, kim sanh thuỷ,….

Tóm lại

1) Vượng tinh nhập tù: Trung cung hướng tinh trùng với vận tinh của đương vận. Ví dụ sơn Tốn hướng Kiền vận 7, trung cung có hướng tinh 8. Qua vận 8, trạch vận này phạm tù tinh, tài lộc sẽ suy bại

2) Tọa hoặc hướng có 2 sao sơn và hướng cùng 1 số với nhau đến (song tinh đáo hướng hoặc song tinh đáo sơn), thì sơn hoặc hướng tinh ở phương toạ hoặc hướng đối diện là số gì thì đến vận đó sẽ tự động bị nhập tù.
3) Hướng tinh ở trung cung là tù tinh: Bất kể tinh bàn lập ở vận nào, hướng tinh của trung cung là tù tinh khiến cho đối tượng mà sao đó đại diện dể có nguy cơ bệnh tật, tai hoạ. Ví dụ toạ TÝ hướng NGỌ vận 7, trung cung có hướng tinh 2. Mà số 2 đại diện người mẹ, người vợ, nên những người này thường gặp tai hoạ như bị thương tật, tàn phế.

Tuy nhiên, tất cả các trường hợp trên có ngoại lệ đối với hướng tinh là Ngũ Hoàng. Bất kể là trường hợp nào, khi Ngũ Hoàng nhập trung cung đều không phạm tù tinh, vì Ngũ Hoàng ở Trung cung là địa vị chí tôn, là "hoàng cực" nên không bị tù.

Cách giải "Tù tinh" thì tùy trường hợp có khác nhau. Điều quan trọng là phải theo dõi và nghiệm chứng để điều chỉnh cách giải tù tinh thích hợp hơn.
4) Sơn tinh nhập tù là vượng tinh thì sẽ suy bại về nhân đinh. Người trong nhà sẽ bỏ đi hoặc gặp tai họa. Nhà thưa vắng người hoặc tuyệt tự.

vanhoai
08-08-09, 06:15
Thành môn

Thành môn là cửa ngỏ vào khu đất hay khu nhà. Nhà tuy hướng xấu nhưng nếu thành môn có vượng khí thì vẫn tốt đẹp một thời.
Khi hai bên của đầu hướng có thuỷ(ao hồ…) hoặc cổng, ngõ vào thì gọi nhà đó có thành môn.
_ Thành môn chính : ở một hướng mà kết hợp với hướng chính(liền bên) thành một cặp số của hà đồ ( số tiên thiên: 1-6; 2-7; 3-8; 4-9) thì gọi là thành môn chính.
_ Thành môn phụ : Ở một hướng mà khi kết hợp với hướng chính(liền bên) không thuộc các cặp số hà đồ thì gọi là thành môn phụ
Thí dụ : Hướng chính là Bắc có số cửu tinh là 1. Hai hướng bên cạnh: đông bắc và tây bắc là thành môn. Trong đó tây bắc có số cửu tinh là 6 nên là thành môn chính, đông bắc có số cửu tinh là 8 nên là thành môn phụ.
_ Thành môn ngầm:
• Khi an vận bàn mà vận tinh 5 đến 1 trong hai hướng bên cạnh mà ở đó có ao hồ hay ngõ vào thì nơi đó có thành môn ngầm (thí dụ: nhà toạ mão hướng dậu, vận 8 khi an vận bàn thì 5 đến tây nam. Nếu nơi đây có thuỷ hoặc ngõ vào thì tây nam có thành môn)
• Khi các sơn hay hướng tinh tới 2 phía bên cạnh đầu hướng, mà chúng lại kết hợp với địa bàn(số cửu tinh tại cung hướng đó , như hướng bắc là 1, hướng nam là 9,…) tại nơi đó thành các số Tiên thiên. Nếu khu vực đó có cổng, ngã ba, ao, hồ( khi là hướng tinh), núi cao, cây cao(khi là sơn tinh)... thì cũng được xem như có Thành môn.
* Khi Hướng tinh ở 1 trong hai bên kết hợp với hướng tinh ở đầu hướng thành 1 cặp số tiên thiên (1-6; 2-7; 3-8; 4-9) mà ở đó lại có thủy hay cổng, ngõ thì xem như có thành môn
Thí dụ: nhà tọa CANH, hướng GIÁP (75 độ), nhập trạch trong vận 8. Nếu an Vận bàn thì vận tinh số 6 tới hướng. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại bài PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN) thì số 3 đến ĐÔNG BẮC. Vì ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà số cửu tinh của đông bắc là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên 3-8. Nếu nơi này có ao hố hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.
Thành môn là then chốt cho sự thịnh suy của ngôi nhà. Tuy hướng không vượng nhưng được thành môn có vượng khí thì vẫn tốt đẹp hay nhà đã được vượng khí mà lại được thành môn thì đã vượng lại càng vượng thêm. Tuy nhiên không phải cứ hai bên đầu hướng có thuỷ, cổng hay ngõ vào là đã tốt mà phải coi có đắc thành môn hay không.
Cách tìm thành môn
• Xét cung hướng chính thuộc tam nguyên long nào? Cung hướng của thành môn phải cùng tam nguyên long với đầu hướng
• Đưa vận tinh tại hướng đó cho bay thuận hay nghịch tuỳ theo tính chất âm dương của tam nguyên long đó.
• Xem vượng tinh có tới hướng đó hay không? Nếu có vượng tinh tới hướng thì có thể mở cổng, cửa ngõ vào khu đất hay để nước ( phải là nước lớn như ao, hồ,…)Cho dù hướng tinh ở đó là suy, tử thì vẫn có thể dùng không ngại
Trong 3 loại thành môn trên thì thành môn chính là có tác dụng mạnh nhất thứ đến là thành môn phụ. Thành môn ngầm tuy lực yếu hơn nhưng lại không phụ thuộc vào một sơn như 2 thành môn kia mà bao trùm hết 3 sơn trong hướng đó

Tóm lại
Tìm thành môn là tìm cách mở cổng, ngõ hay nơi có thuỷ bên ngoài nhà
Cách tính Thành Môn đơn giản chỉ là:
1/ Hướng có Thành Môn phải cùng 1 Thiên, Địa hoặc Nhân nguyên long với toạ, hướng của căn nhà (hoặc ngôi mộ).
2/ Hướng của vận tinh tới Thành Môn là sơn âm, xoay nghịch thì Thành Môn sẽ đắc vượng khí và dùng được. Nếu là sơn dương, xoay thuận thì chỉ gặp toàn khí suy, tử tới Thành môn nên không thể dùng. 3/Nếu khí Thành môn vượng thì dù hướng tinh ở nơi đó có là suy , tử cũng nên đặt nước. Tuy nhiên, nếu đã đặt thì nước phải lớn mới có tác dụng. Hay nơi khí thành môn vượng mà có ngã ba, ngã tư thì rất tốt.
4/ Nếu khí thành môn đến cung không đồng ngyuên với hướng thì chỉ tốt trong vận đó mà thôi

vanhoai
09-08-09, 11:07
Phép mở cửa dùng “thành môn quyết”

Đối với những nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh có hướng bị kiêm hướng, hướng không có vượng khí tới hướng hoặc có vượng khí tới hướng nhưng muốn mở thêm cửa phụ tại những cung có hướng tinh là sinh, tiến khí thì ta cần dùng “thành môn quyết” còn gọi là "bí quyết thành môn" để mở cửa.
Điều cần lưu ý là khi dùng “ thành môn quyết”để mở cửa phụ là vấn đề hoà hợp âm dương. Thí dụ: cửa chính tại sơn dương thì cửa phụ tại sơn âm và ngược lại. Có như thế thì mới được lâu dài, bằng không thí chỉ được lúc đầu mà thôi.
Ngoài ra còn một số trường hợp sau:
1)_ Nhà bị kiêm hướng hoặc hướng không có vượng khí. Thí dụ: nhà GIÁP hướng CANH vận 8. Khi an hướng bàn thì tử khí tam bích(3) tới hướng. Nếu mở cửa tại CANH thì gặp tử khí. Nay dùng bí quyết thành môn xét cung DẬU: Vận tinh 1 nhập trung cung, DẬU là thiên nguyên, thiên nguyên của 1 là TÝ, TÝ tính chất là âm nên 1 đi nghịch, vượng khí 8 tới DẬU. Vậy nếu mở cửa tại dậu thì sẽ có vượng khí tới cửa. Điều này sẽ làm vượng những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Cần lưu ý cửa chỉ để trọn trong cung đó mà thôi, không nên cho lấn qua cung khác vì lúc đó âm dương lẫn lộn mà mất đi cái tốt đẹp.
2)_ Nhà qua vận sau không còn vượng khí. Thí dụ: Nhà TUẤT hướng THÌN vận 7 có cửa tại TUẤT được vượng sơn vượng hướng, nay qua vận 8 thì 7 trở thành thoái khi. Nếu có đổi vận thì cũng không tốt đẹp vì tinh bàn vận 8 tử khí 6 tới hướng. Nay không dùng cửa tại THÌN nữa mà mở cửa khác tại TỐN (hoặc TỴ), dùng bí quyết thành môn với vận bàn 8 nhập trung cung, vận tinh tại TỐN là 7, TỐN là thiên nguyên, thiên nguyên của 7 là ĐOÀI, ĐOÀI âm nên 7 đi nghịch, vượng khí 8 tới TỐN
3)- Nhà có hướng tinh là sinh vượng khí nhưng mở cửa không đúng cách thì cũng không nhận được vượng khí vào nhà mà làm ăn suy bại. Thí dụ: nhà tọa Càn hướng Tốn. Thay vì mở cửa ở Tốn hay Tị, nay lại mở ở Thìn. Xét cung Đông Nam vận 8 có vận tinh 7. Thìn là địa nguyên long, Địa nguyên long của thất xích là Canh. Canh dương nên đi thuận thì tử khí lục bạch đến cung Thìn. Vậy nhà không nhận được vượng khí.
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/08/09/11/22661249790644.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7983655.html)
4)- Nhà Tuy không được vượng khí đến hướng nhưng nếu mở cửa có khí thành môn thì vẫn không đến nỗi suy bại. Thí dụ nhà tọa Thìn hướng Tuất vận 8. bị Thướng sơn hà thủy, có hướng tinh 1 đến hướng. 1 tuy là tiến khí nhưng còn xa. Nếu mở cửa tại cung Càn hoặc Hợi thì vẫn tốt đẹp một thời.
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/08/09/11/62281249790637.GIF (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.7983651.html)
5)_ Nhà đả được cửa có vượng khí nay muốn mở thêm cửa phụ tại hướng có hướng tinh là sinh hoặc tiến khí. Thí dụ: Nhà SỬU hướng MÙI vận 8. Tinh bàn có vượng tinh 8 tới hướng, sao sinh khí 9 tới hướng BẮC. Nay muốn mở cửa tại BẮC ta áp dụng bí quyết thành môn. MÙI thuộc địa nguyên long, địa nguyên long tại hướng BẮC là NHÂM. Vận tinh tại BẮC là 4, lấy 4 nhập trung cung bay nghịch (địa nguyên long của 4 là THÌN, tính chất của THÌN là âm) vượng khí 8 tới NHÂM. Để ý ta thấy tính chất của MÙI là âm và tính chất của NHÂM là dương

dongqot68
11-08-09, 15:03
Câu hỏi về Thành môn của dongqot68 đã chuyển sang mục Hành Lang Phong Thuỷ

http://www.huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=123
Thân ái

vanhoai
13-08-09, 18:45
Để tìm cung có vượng khí trong nhà hầu đặt bếp hoặc đặt thủy kích tài, Ta cũng cần dùng "bí quyết thành môn".
Trong vận 8 này các cung có vượng khí theo "thành môn quyết" là:
- Hướng Nam: Ngọ, Đinh
- Hướng Tây Nam: Mùi
- Hướng Tây: Dậu, Tân
- Hướng Tây Bắc: Càn, Hợi
- Hướng Bắc: Nhâm
- Hướng Đông Bắc: Sửu
- Hướng Đông: Giáp
- Hướng Đông Nam: Tốn, Tị
Thí dụ: Nhà Nhâm hướng Bính vận 8. Cung Đông Bắc có (1-6), nay muốn đặt nước kích tài thì cung đặt nước có tác dụng mạnh nhất là trong cung Sửu. Hướng Bắc có cặp (8-8), nay muốn đặt bếp thì vị trí tốt nhất là cung Nhâm. Đối với các vật khí khác cũng vậy...

vanhoai
26-08-09, 13:52
Theo đồ hình của lạc thư thì cửu tinh được bài bố như ta đã biết như sau:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/08/26/01/51291251269433.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.8407411.html)

Chính thần là dùng nơi cao sơn của sao đương vận tức vượng khí của sơn mạch, mà thu nhận khí. Như vận 1 thì Nhất bạch là đương vận, nên lấy phương vị nhất (khảm) làm chính thần. Vận 2 thì Nhị hắc là đương vận, nênlấy phương vị Nhị (khôn) làm chính thần.….Nếu phương vị của chính thần mà có :Sông, hồ, biển,… thì khu vực đó (làng mạc hay khu dân cư,…)sẽ có nhiều hung họa. Như vậy phương của chính thần cần có sơn và không được có thủy, nếu có thì sẽ có nhiều tai họa trong vận đó.

Linh thần là phương đối lại của chính thần. Như vận 1 phương đối lại của chính thần là vị trí Cửu (ly) làm linh thần, vận 2 thì phương đối lại của chính thần là vị trí Bát (cấn) làm linh thần,…Riêng vận 5 có 20 năm, mà Nhị (Khôn) của Thượng nguyên và Bát (Cấn) của Hạ nguyên đều thuộc thổ, nên mười năm trước lấy Nhị (Khôn) làm chính thần và mưới năm sau lấy Bát (Cấn) làm chính thần
Phương vị của Chính Thần cần có cao sơn thực địa
Phương vị Linh Thần cần sông nước, trũng thấp
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/08/26/01/73081251269257.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.8407365.html)

Coi về Chính thần, Linh thần là coi về vượng suy của một làng mạc hay thành phố
Thí dụ : vận 8, phương vị của Linh thần nằm ở phía TÂY NAM. Do đó, nếu khu vực đó của làng mạc hay đô thị... mà có sông, hoặc cửa biển... thì rất tốt, chủ vượng phát về mọi mặt. Ngược lại, nếu khu vực đó lại có thế núi hay thế đất tiến tới thì ngôi làng hay đô thị đó sẽ gặp nhiều tai biến, hung họa.

Còn về nhà ở thì lấy sơn tinh đương vượng làm Chính Thần và hướng tinh đương vượng làm Linh Thần. Phương Linh Thần nên có Thuỷ, thấp trũng hay đường đi. Đây gọi là:”Khơi thuỷ nhập Linh đường”. Nếu phương vị của Hướng tinh sinh, vượng khí lại vào vị trí của Linh thần đương vận mà có thuỷ , thấp trũng hay đường đi thì như: “Gấm thêm hoa” đã vượng càng thêm vượng. Còn Hướng tinh sinh vượng khí vào vị trí Chính thần của đương vận thì vẫn cần có thuỷ thì mới vượng phát được, còn gặp cao sơn thì vẫn suy như thường

vanhoai
05-09-09, 17:01
Chọn hướng nhà và mở cổng , cửa

Nhà ở Việt Nam thường không được chính hướng và không có cửa sau lại chỉ cần chút mặt tiền rồi chạy dài ra sau tạo nên nhà hình ống. Ngay cả ngày nay đất dự án người ta cũng phân lô theo 4m hay 5m . Cho nên để thay đổi một nếp suy nghĩ của người mình không thể một sớm một chiều mà có khi mất nhiều thế hệ.
Trước hết phải nói đến vấn đề thuần khí. Không những thuần khí cho hướng mà còn thuần khí cho cửa. Dùng tinh bàn thế quái cho nhà kiêm hướng cho dù có được "vượng sơn vượng hướng" đi chăng thì vẫn khó có thể ở lâu dài và có nhiều hung họa chực sẵn, con người tuy có tiền của nhưng bủn xỉn keo kiệt,.... Đối với mở cửa cũng vậy, rất cần nằm trong một cung tức trong một nguyên long mà thôi.
Khi mở cổng cần lưu ý vấn đề thuần khí như sơn-hướng ở nhân hoặc thiên nguyên long thì cổng, cửa cũng cần ở nhân hoặc thiên nguyên long, địa nguyên cũng vậy. Nếu nơi mở cổng có ngã 3 hay ngã tư lại đắc thành môn thì phát phúc một thời. Một điểm quan trọng khác là tuy tọa-hướng và cổng, cửa của 1 căn nhà cần phải cùng 1 Nguyên Long với nhau, nhưng phải trái ngược âm-dương mới bảo đảm được phúc, lộc lâu dài .
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU

NHÂN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ

ĐỊA NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI

Chọn hướng nhà

Trước hết cần được chính hướng. Thí dụ: hướng Ly là 180 độ, hướng Đinh là 195 độ,….Chỉ có thể lệch không quá 3 độ (với những nhà đã xây cất thì khi đo không quá 2 độ vì sợ ánh hưởng của các vật dụng bằng điện từ hoặc bằng sắt, thép). Sử dụng thế quái khi chẳng đặng đừng mà thôi. Vì khi lên tinh bàn với nhà kiêm hướng thấy tinh bàn có lệnh tinh ở hướng, tuy vượng mà không vượng. gặp những trường hợp phạm Đại không vong hoặc tiểu không vong (giữa Địa và Thiên nguyên long) thì dứt khoát không dùng. Sau đó coi ở hướng cặp sơn-hướng tinh sinh nhập, khắc nhập thế nào? sinh nhập thì cát, sinh xuất thì hung hoặc khắc nhập thì cát, khắc xuất thì hung. Nhưng nếu biết thì nhà "vượng sơn vượng hướng" vẫn có thể dùng, qua vận kế thì đổi nhà hoặc đổi vận. Tiếp theo coi các cặp sơn – hướng ở hướng có bị các cặp hung sát

Sau cùng coi vị thế loan đầu tức hình thế bên ngoài có phù hợp với tinh bàn hay không. Quan trọng nhất là TỌA và HƯỚNG ngoài ra những nơi có cửa ra vào nhà cũng cần xem xét cẫn thận.

Mở cổng , cửa

Nếu nhà được vượng hướng tức hướng tinh là vượng tinh tới hướng thì cửa chính cần ngay chính giữa nhà và nằm trọn trong cung này. ở VN ngày nay người ta có xu hướng làm cửa chính gần hết mặt tiền nhà, điều này làm cho cửa chính bị tạp khí, âm dương lẫn lộn. Đối với những nhà không được vượng khí tới hướng ta có thể dùng “bí quyết thành môn” để mở cửa tuy rằng sự tốt đẹp không thể bằng nhà vượng hướng nhưng cũng giúp cho gia chủ đỡ chật vật về tài chính (đây chỉ là biện pháp chữa cháy mà thôi không có tính lâu dài) Thí dụ : nhà tọa dậu hướng mão vận 8. tử khí tứ lục tới hướng nếu mở cửa tại mão hoặc canh thì tứ lục tới cửa. Nhưng nếu mở cửa tại Giáp thì lại được, vì áp dụng bí quyết thành môn thì vượng tinh 8 tới cửa.
Một lưu ý nữa là nếu nhà bị tử khí tới hướng nhưng khi xét thành môn mà đắc thành môn lại có thể mở Cổng ở phương này thì nên dùng sẽ không thua nhà vượng hướng là bao.

Nhà ở VN ngoài phố thường không có cửa sau vì tấc đất tấc vàng nên người ta tận dụng từng cm một. Có nhiều nhà “vượng sơn vượng hướng” hoặc “tam ban quái” nhưng tại sao chỉ tốt đẹp trong một số năm đầu rồi sau đó lụi tàn dần? Vì cửa sau là lối ra của suy khí . Khi bố trí cửa sau cũng cần theo nguyên tắc thuần khí và âm dương trái ngược nhau (âm dương hòa hợp).
Đạt được các điều trên thì 90% có Phú quí, phúc lộc đầy đủ
__________________

huyducit
14-09-09, 17:02
Chào Anh Văn Hoài !
Em là thành viên mới, Bài viết của Anh về Huyền Không rất công phu, rất có ích cho những người mới làm quen với Huyền Không. Nhưng Em đã đọc đi đọc lại rất nhiều lần đoạn đầu tiên này mà sao em vẫn không thể hiểu nổi (nếu hiểu không chính xác có thể dẩn đến sai lầm rất lớn!). Ở phần lập Hướng bàn và tọa bàn:

Hướng bàn:" . . . Tốn là thiên nguyên long. Thiên nguyên long của 7 là Dậu, Dậu tính chất là Âm nên 7 bay nghịch (thường thì hướng tinh đặt bên phải của vận tinh) . . .
Sơn bàn: " . . .Thiên nguyên long của 9 là ngọ, tính chất của ngọ là âm . Vậy 9 nhâp trung cung bay nghịch. . ."
Mình phải căn cứ vào đâu để xác định được Thiên nguyên long của 7 là dậu ? Thiên nguyên long của 9 là Ngọ ?
Rất mong được anh chỉ giáo cho, rất cám ơn !

AnhNgoc
14-09-09, 22:48
Chào Anh Văn Hoài !
Em là thành viên mới, Bài viết của Anh về Huyền Không rất công phu, rất có ích cho những người mới làm quen với Huyền Không. Nhưng Em đã đọc đi đọc lại rất nhiều lần đoạn đầu tiên này mà sao em vẫn không thể hiểu nổi (nếu hiểu không chính xác có thể dẩn đến sai lầm rất lớn!). Ở phần lập Hướng bàn và tọa bàn:

Hướng bàn:" . . . Tốn là thiên nguyên long. Thiên nguyên long của 7 là Dậu, Dậu tính chất là Âm nên 7 bay nghịch (thường thì hướng tinh đặt bên phải của vận tinh) . . .
Sơn bàn: " . . .Thiên nguyên long của 9 là ngọ, tính chất của ngọ là âm . Vậy 9 nhâp trung cung bay nghịch. . ."
Mình phải căn cứ vào đâu để xác định được Thiên nguyên long của 7 là dậu ? Thiên nguyên long của 9 là Ngọ ?
Rất mong được anh chỉ giáo cho, rất cám ơn !

Bạn nào trả lời giúp huyducit đi . Đây cũng là dịp để ôn kiến thức đấy.

huyducit
15-09-09, 15:54
Chào các bạn !
Chào anh VanHoai và anh AnhNgoc ! Đêm qua em về không ngủ - xem lại và đã hiểu ra vấn đề. Như vậy mình phải nhìn vào La Kinh Phân Châm thì mới có thể xác định được Hướng bàn và tọa bàn của nhà mình cần xem thuộc Thiên-Địa hay Nhân nguyên long (mà không cần quan tâm đến thuộc tính Âm hay Dương !). Theo em nghỉ, đây là mắc xích rất quan trọng và cần lưu ý cho những bạn nào mới làm quen Huyền Không như em !
Có lẽ câu hỏi của em thuộc loại "Sơ cơ" quá, nên ít bạn quan tâm.
Cám ơn hai anh VanHoai và AnhNgoc nhiều !

AnhNgoc
15-09-09, 17:03
Chào các bạn !
Chào anh VanHoai và anh AnhNgoc ! Đêm qua em về không ngủ - xem lại và đã hiểu ra vấn đề. Như vậy mình phải nhìn vào La Kinh Phân Châm thì mới có thể xác định được Hướng bàn và tọa bàn của nhà mình cần xem thuộc Thiên-Địa hay Nhân nguyên long (mà không cần quan tâm đến thuộc tính Âm hay Dương !). Theo em nghỉ, đây là mắc xích rất quan trọng và cần lưu ý cho những bạn nào mới làm quen Huyền Không như em !
Có lẽ câu hỏi của em thuộc loại "Sơ cơ" quá, nên ít bạn quan tâm.
Cám ơn hai anh VanHoai và AnhNgoc nhiều !

Nói như vậy thì bạn vẫn chưa đọc kỹ bài , nếu không quan tâm đến thuộc tính âm dương thì làm sao bạn biết phi tinh thuận hay nghịch ?

huyducit
15-09-09, 18:09
Chào Anh AnhNgoc !
Có lẽ do em viết không chính xác và không đầy đủ nên anh hiểu lầm ý em (mà cũng có thể là em hiểu chưa được vấn đề !). Chắc em phải nhờ anh chỉ giáo! xem em hiểu như vầy có đúng không ?
1) Dùng La kinh phân châm xác định hướng và tọa của nhà xem thuộc 1 trong 24 sơn nào. (Ví dụ: Nhà vận 7,Tọa Giáp Hướng Canh. Mình chỉ quan tâm Giáp và Canh thuộc Thiên-Địa-hay Nhân nguyên long mà thôi. (Canh Giáp thuộc Địa nguyên long) chứ đừng vôi quan tâm đến tính chất âm dương của nó)
2) Nhập vận niên của nhà vào trung cung, phi thuận, ta được vận bàn.
3) Nhìn vào vận bàn lấy số vừa có của hướng ( Tân-Dâu-Canh Thuộc Đoài ) Đoài ( Trường hợp này là số 9). Lấy 9 nhập trung cung đặt bên phải.
4) Số 9 là Ly, mà địa nguyên long của 9 là Bính dương(do nhìn vào màu (đỏ là dương đen là âm) và các chữ cái viết tắt như T-N-Đ) của la kinh ( đến bây giờ mới nói chuyện âm dương !) nên phi thuận ! ......
Nếu em hiểu sai nhờ anh chỉ giúp !
Chân Thành cám ơn Anh AnhNgoc nhiều !

AnhNgoc
16-09-09, 07:48
O.K vậy là bước đầu bạn đã nắm được, nhưng bạn lưu ý ở câu 2) bạn viết :Nhập vận niên của nhà.....; bạn sửa lại là VẬN TINH mới đúng .
Thân.

huyducit
16-09-09, 09:22
Cám ơn Anh AnhNgoc nhiều nhé !

huyducit
28-09-09, 14:35
Chào Anh Anh Ngoc, Anh Văn Hoài và các bạn trong diễn đàn !
Em là thành viên mới của diễn đàn, mới làm quen với Huyền Không, trình độ còn nhiều hạn chế, gặp trường hợp nhà không chính hướng tức +(-) từ 4 đến dưới 7 độ thì phải dùng thế quái. Nhưng khi dùng thế quái mà gặp 5 nhập trung cung thì sao ?
Trong các bài về Huyền Không phi tinh của Anh Văn Hoài em không thấy đề cập đến trường hợp này !)
Mong các anh và các bạn chỉ giúp ! Rất cám ơn !

AnhNgoc
28-09-09, 17:17
Chào Anh Anh Ngoc, Anh Văn Hoài và các bạn trong diễn đàn !
Em là thành viên mới của diễn đàn, mới làm quen với Huyền Không, trình độ còn nhiều hạn chế, gặp trường hợp nhà không chính hướng tức +(-) từ 4 đến dưới 7 độ thì phải dùng thế quái. Nhưng khi dùng thế quái mà gặp 5 nhập trung cung thì sao ?
Trong các bài về Huyền Không phi tinh của Anh Văn Hoài em không thấy đề cập đến trường hợp này !)
Mong các anh và các bạn chỉ giúp ! Rất cám ơn !

Bạn nào xung phong bỏ chút thì giờ hướng dẫn giúp huyducit chút đi . Nhớ là không được lật bài ra đọc lại nhé ! Mong có nhiều câu hỏi như vậy để các bạn thuộc bài . Thân

huyducit
28-09-09, 17:49
Sẵn đây cho em hỏi luôn: Nhà xây và nhập trach ở vận 7, nhưng bây giờ là vận 8. Vậy có phải mình phải lập 2 tinh bàn vừa vận 7 và vận 8 không ? nếu đúng như thế thì mình phải dùng cặp hướng - tọa tinh nào để luận cát hung ? hay phải kết hợp cả 2 ? Nếu tinh bàn của vận 7 cát, vận 8 hung, thì mình phải làm sao ? vận bàn nào chính ? vận bàn nào phụ ?
Một chút thắc mắc sơ cơ, rất mong được các Anh, các bạn chỉ giúp !
Rất cám ơn !

AnhNgoc
28-09-09, 18:16
Sẵn đây cho em hỏi luôn: Nhà xây và nhập trach ở vận 7, nhưng bây giờ là vận 8. Vậy có phải mình phải lập 2 tinh bàn vừa vận 7 và vận 8 không ? nếu đúng như thế thì mình phải dùng cặp hướng - tọa tinh nào để luận các hung ? hay phải kết hợp cả 2 ? Nếu tinh bàn của vận 7 các, vận 8 hung, thì mình phải làm sao ? vận bàn nào chính ? vận bàn nào phụ ?
Một chút thắt mắc sơ cơ, rất mong được các Anh, các bạn chỉ giúp !
Rất cám ơn !

Câu hỏi này bắt đầu hay rồi đó , bạn nào đang online giúp huyducit với nhé.

AnhNgoc
30-09-09, 11:33
Chào Anh Anh Ngoc, Anh Văn Hoài và các bạn trong diễn đàn !
Em là thành viên mới của diễn đàn, mới làm quen với Huyền Không, trình độ còn nhiều hạn chế, gặp trường hợp nhà không chính hướng tức +(-) từ 4 đến dưới 7 độ thì phải dùng thế quái. Nhưng khi dùng thế quái mà gặp 5 nhập trung cung thì sao ?
Trong các bài về Huyền Không phi tinh của Anh Văn Hoài em không thấy đề cập đến trường hợp này !)
Mong các anh và các bạn chỉ giúp ! Rất cám ơn !

Chào các bạn .Câu hỏi này của Huyducit đã được bạn Dualathlon trả lời ở trang Hành Lang Phong Thủy .

vanhoai
02-10-09, 20:28
Tam Cát
Huyền Không phong thủy được cho là từ "Kỳ môn độn giáp". Theo Kỳ môn thì 3 cửa: Hưu, Khai, Sinh là 3 cửa tốt nhất, sẽ đem lại thuận lợi, may mắn.
Lạc thư Nhất Bạch ở phương Khảm, cửa hưu của Kỳ môn cũng ở phương Khảm; Lục Bạch ở phương Càn, cửa Khai cũng ở phương Càn; Bát Bạch ở phương Cấn, cử sinh của kỳ Môn cũng ở phương Cấn. Cho Nên ba sao: Nhất Bạch, Lục Bạch, Bát Bạch là ba cửa Hưu, Khai, Sinh của Kỳ Môn.
Thế nào là Tam cát? Tức Nhất bạch, Lục bạch, Bát bạch. Nhất bạch là đầu chín sao(cửu tinh), thống lãnh các quái, là đứng đầu của tam hợp. Thiên khí thì giáng xuống, địa khí thì bốc lên, cũng là nơi dung chứa sự cao thấp,một khi hai đường Bát, Lục khác nhau tương sinh, kim cứng gặp thổ là giàu sang cực độ.
Ngũ cát
Ngũ cát tức là hợp tam ban mà kiêm lấy Tham Lang với Tả Phụ. Như vận 1 lấy thủy Nhất Tam Nhị phối với Lục Bát. Vận 4 trung nguyên lấy thủy Tứ Ngũ Lục phối với Bát Nhất. Vận 7 hạ nguyên lấy thuỷ Thất Bát Cửu mà phối với Nhất Lục .

Nếu bày bố tam cát, ngũ cát đúng phép, xuyên suốt liên nhau thì phát phúc lâu dài mà không cần phải dùng thế tinh (tức làm lệch hướng nhà để dùng thế quái)

vanhoai
03-10-09, 15:24
“Sơn quản nhân đinh, thủy quản tài”. Dùng thủy pháp là bố trí thủy tại những nơi có hướng tinh là “tam cát, ngũ cát” để làm hưng vượng tài lộc
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/10/03/03/61121254558065.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.9376971.html)

Thí dụ nhà Tý hướng Ngọ vận 7, tinh bàn như sau:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/10/03/03/73891254558058.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.9376965.html)

Nhà này trước nhà là đường lớn tức là hư thủy. Hướng Nam có hướng tinh 6, hướng đông nam có hướng tinh 1, hướng tây nam có hướng tinh 8. Tuy vào vận 7 hướng tinh 6 là tử khí nhưng vì trước nhà có tam cát lại có đường đi nên không đến nỗi suy bại mà tài lộc lại có phần khá. Tuy nhiên vì vận 7 cửa mở tại Ngọ là không có vượng khí nên chỉ bình bình, qua vận 8 thì làm ăn có chiều hướng phát triển tốt hơn. Chỉ có điều sơn tinh 8 bị tù nên con cái đi học xa hoặc xuất ngoại, nhà thưa vắng người.

Trong nhà nếu bố trí thủy vào cung hướng có hướng tinh là tam cát, ngũ cát cũng làm thúc đẩy tài vận (lưu ý nên dùng "thành môn quyết" để vào đúng vị trí)

vanhoai
04-10-09, 06:38
Thẩm Trúc Nhưng đã nói:Then chốt của "cát, hung, hoạ, phúc" là Sơn thần phải ở trên núi và thuỷ thần phải ở dưới nước. Tức là hướng có hướng tinh là vượng sinh tiến khí cần có thuỷ hoặc trống thoáng hay đường đi. hướng có sơn tinh là vượng sinh tiến khí thì cần có núi hoặc đồi cao hay cây cao.
Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước thì lại rất xấu. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm,bồn rửa mặt, hồ cá, hồ bơi, vòi nước, máy giặt... đều cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy vượng. Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa vượng, suy như sông ngòi, hồ ao... có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng quan trọng đến những người cư ngụ trong căn nhà đó. Ta có thể dùng thuỷ nhân tạo như làm hồ nước lớn hoặc đài phun nước ở những nơi cần có thuỷ và làm non bộ (lớn) hoặc trồng cây cao tại những nơi cần có sơn (đối với bên ngoài nhà).

Đối với những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Trước hết cần dùng bí quyết thành môn để mở cổng hoặc cửa chính (thí dụ: Nhà toạ dậu hướng mão vận 8 ở hướng có hướng tinh 4 là tử khí nhưng nếu mở cửa chính tại cung giáp thì sẽ đỡ lại tuy vẫn chịu ảnh hưởng của tử khí Tứ Lục, dĩ nhiên là không thể bằng nhà có vượng tinh đáo hướng). Sau là phối hợp thuỷ pháp để kích tài.
Thuỷ pháp còn là cách bố trí thuỷ trong nhà tại những nơi có hướng tinh là:
_ Tam cát : Nhất bạch, lục bạch, bát bạch. Đặc biệt nơi có hướng tinh 6 nếu bố trí thuỷ động như phong thuỷ luân hoặc hồ cá thì sẽ kích tài mạnh vì cặp số 1-6 hoá thuỷ tiên thiên chủ về công danh và tài lộc.
_ Ngũ cát : gồm có tam cát cộng hai sao là vượng khí và sinh khí.
Trong nhà bồn rữa chén, wc, bồn nước đều coi là thuỷ. Tuy nhiên nếu đường nước đi ngầm hoặc đậy kín thì không ảnh hưởng bao nhiêu
Những nơi không nên có thuỷ:
- những hướng tinh hung sát như: 5; 2; 7 ( trừ trường hợp chúng nằm trong ngũ cát)
- các cặp sơn hướng tinh: 2-3; 7-6; 9-7; 2-7; 7-3
- Các khu vực có các sao vận-sơn-hướng đều là sao âm như: 2; 4; 5; 7; 9 thì không nên thấy thuỷ ( thí dụ: 2-5-9; 2-4-7; ....). Nếu có thì sẽ có người đàn bà làm loạn hoặc làm mất hạnh phúc gia đình. Đặc biệt sao toạ là 4 mà có thuỷ thì gia đình tan vỡ, vợ chồng ly thân...

huyducit
05-10-09, 17:17
Chào Anh Văn Hoài !
Em đọc đến phần Thủy Pháp, có bảng tra: Vận, Sinh, vượng, tiến khí. Nhưng em không hiểu tại sao cột tiến khí có vài vận không có. Không biết có phải anh để trống là để đở rối mắt, dể nhìn, cho dể hiểu, hay là vì lý do khác ? Anh vui lòng giải thích dùm em nhé ! Rất cám ơn !

AnhNgoc
05-10-09, 17:26
Chào Anh Văn Hoài !
Em đọc đến phần Thủy Pháp, có bảng tra: Vận, Sinh, vượng, tiến khí. Nhưng em không hiểu tại sao cột tiến khí có vài vận không có. Không biết có phải anh để trống là để đở rối mắt, dể nhìn, cho dể hiểu, hay là vì lý do khác ? Anh vui lòng giải thích dùm em nhé ! Rất cám ơn !

Em cứ đọc thật kỹ lại . Suy nghĩ thật kỹ . Nếu lúc đó vẫn không tìm ra đáp án hãy hỏi , như vậy em sẽ hiểu sâu hơn. Chúc em thành công.

huyducit
06-10-09, 09:29
Chào Anh Văn Hoài, Anh AnhNgoc !
Trong cột Tam Cát thì em hiểu vì sao có vận chỉ có 1,6 hoặc 1,8 hoặc chỉ 6,8 hoặc có vận có đủ 1,6,8. Đó là vì bản thân vận đó hoặc vượng, sinh, hay tiến khí đã có 1 sao trong Tam cát rồi, hoặc cả vận, vượng, sinh, tiến khí đều không có 1 trong tam cát nên phải có đủ cả ba sao 1,6,8. không biết sự suy nghĩ này của em có đúng không ?
Còn ở cột tiến khí, Em thật sự không hiểu vì sao :
Ở vận 7: Vượng khí là 7, Sinh khí là 8, Tiến khí là 9, nhưng khi:
ở Vận 8 : Vượng khí là 8, sinh khí là 9, mà tiến khí không phải là 1 ?
Nếu vì 1 là 1 trong Tam cát rồi, nên không viết, ghi ra sẽ thừa ? Còn các sao 2,3,4,5,7 là các sao hung nên nó không thể là sao tiến khí được ?
Không biết sự suy nghĩ này của em có đúng không ?
Rất mong lãnh hội được sự giải thích của các anh ! Em rất cám ơn !

huyducit
08-10-09, 14:25
Thôi em đã hiểu rồi ! Đó là do tương sinh, tương khắc !
Cám ơn hai Anh nhiều !

vanhoai
08-10-09, 15:08
Chào Anh Văn Hoài, Anh AnhNgoc !
...............
Còn ở cột tiến khí, Em thật sự không hiểu vì sao :
Ở vận 7: Vượng khí là 7, Sinh khí là 8, Tiến khí là 9, nhưng khi:
ở Vận 8 : Vượng khí là 8, sinh khí là 9, mà tiến khí không phải là 1 ?
..............

Chào huyducit

Thực ra Tiến khí ở rất xa từ 20 đến 40 năm nữa mới đến, cho nên nó chỉ có lực khi cùng nguyên vận (thượng, trung hoặc hạ nguyên). Như thí dụ trên thì tiến khí 9 là cùng trong hạ nguyên với vận 7 nên 9 có lực còn 1 là khác nguyên vận với 8 nên 1 không có lực. Vài hàng chắc em hiểu.
Lần sau nếu có thắc mắc thì em qua bên "hành lang phong thủy huyền không" hỏi nhé.

Thân

huyducit
08-10-09, 16:47
Cám ơn Anh nhiều !

vanhoai
21-10-09, 16:47
Mọi cục diện đều có sơn cùng thủy tận. Khó bề duy trì mãi một thời kỳ. Vì vậy đừng để đến lúc tận cục. Khi bắt đầu cảm thấy không chịu đựng nổi, tức là khí sinh vượng của âm hoặc dương trạch đã suy giảm hoặc cùng kiệt, hoặc sử dụng không hợp thời, thì hãy nhớ câu minh triết của dịch lý: “Cùng tắc biến, Biến tắc thông”. Người am hiểu đại số lạc thư muốn cứu nhân độ thế,có thể sử dụng nguyên lý biết ắt thông,suy tính cách thay đổi cục diện vốn có, để chuyển bại thánh thắng, chuyển bĩ thành thái. Thay đổi, cải tạo bằng cách nào? Người khá giả thì đập đi xây mới, hoặc lợp lại mái nhà vào mÙa khô, ngày nắng ráo, hoặc tạm thời chuyển đi chỗ khác vài tháng sau mới trở về, sẽ thấy ngay hiệu lực của việc thay đổi, cải tạo. Song muốn cải tạo âm, dương trạch, phải tính toán thiên tinh hiện thời cho chuẩn xác, tu tạo phải chọn ngày giờ phù hợp với hành độ của thiên tinh (tinh bàn)

Trích Trạch vận Tân Án

Cách cải tạo mệnh vận, còn gọi là đổi vận thường có các cách sau:
• Đập cũ xây mới.
• Xây mới thêm trên 2/3 diện tích cũ.
• Bỏ nhà trống trên 100 ngày (có nhiều trường hợp 49 ngày đã có tác dụng, nhưng không bảo đảm)
Trong thời gian làm các việc trên chúng ta lo sửa chữa để bố trí cho hợp với tinh bàn của vận mới. Sau đó sẽ chọn giờ lành tháng tốt mà nhập trạch trở lại

vanhoai
21-10-09, 17:46
Phàm xem đất, trước hết xem hình cục của sơn thủy và bình dương có hoàn mỹ hay không. Sau đó đối chiếu vận tinh (sao vận) với địa bàn xem sinh khắc thế nào, tiếp đó lệnh tinh (sao vượng) của sơn hướng có đáo sơn, đáo hướng hay không, rồi xem Chính thần, Linh thân ra sao, tiếp đó xét lệnh tinh chiếu tới Thành Môn, bởi thành môn tùy vận mà biến hóa, xem thành môn nên lấy hay bỏ. Rồi dùng tiêu chuẩn lập hướng tiêu thủy để xác định phân châm tọa hướng, xem có thể kiêm hay không được kiêm. Có người sẽ hỏi: “Nếu âm, dương trạch đáo sơn đáo hướng lại phải thu được vượng khí của thành môn và thu sơn thoát sát, còn phải tùy tiết khí mà chọn đất, thì quá phức tạp, liệu có phương pháp nào đơn giản hơn chăng?. Có thể giải đáp như sau: “Về chân long huyệt, thì nên lấy vượng tinh của hướng, nhưng nếu Thành môn đã thu được vượng khí , thì có thể nhân lúc lệnh tinh đang vượng mà tu sửa. Cách này tương đối đơn giản, nếu phải hạ táng, tuy không có điều kiện chọn ngày, vẫn có thể nạp cát; còn nếu tu sửa phần mộ tối kỵ sát chiếm hướng, nhất là hướng động khí và thủy khẩu.
Phương pháp lập hướng phải chú trọng những gì? Trước tiên phải xem vị trí lai Long nhập thủ, xem có cục nào trong Thiên, Nhân, Địa nguyên, sau đó đối chiếu cục ấy hợp với nguyên, vận nào, nếu thuộc dương lệnh đáo sơn đáo hướng thì có thể lấy mà dùng, nếu thuộc lỡ vận, không đương lệnh, thì dụ hình cục hoàn mỹ cũng chớ tham mà chuốc họa tuyệt diệt, suốt đời ôm hận. Sau khi phân biệt ba nguyên, lại xem thủy lai thủy khu81 (thủy đến, thủy đi), phối hợp sơn hướng, xác định xem có thể kiêm hay không thể kiêm, cần có sao vượng đáo sơn hoặc trhu3y xứ, cần có sao suy đến cửa thủy khứ. Ví dụ: Vận 7 là đầu của Hạ nguyên, là do sao Phá Quân quản cục, thì cần sao đương lệnh 7 đáo sơn đáo hướng, còn ở phương đi của thủy khẩu phải là sao 3,4,5,6 phương đến của thủy khẩu phải là các sao 8,9,1 chiếu tới mới hợp lý khí

Chú thích: Hướng vượng gặp thủy tức là thủy vượng, không gặp thủy, hoặc gặp thứ thủy tù đọng thì là thủy suy.” Thiên Bảo kinh” từng dặn đi dặn lại rằng: “Long phải hợp hướng, hướng phải hợp thủy”.

vanhoai
23-10-09, 08:40
Có người hỏi:” Lập hướng hai vận 1, 9 là khó nhất, dễ phạm hung hơn cả, nên xử lý thế nào? . Đáp: “Vận 1, 9 như ngụ ý Dương Quân Tùng đã nói: Long Giang Nam đến, Giang Bắc ngóng trông, là phụ mẫu trong vận 9, lại là thống lĩnh trong vận 9, sức long từ xa tới mà sao từ phương vượng đến thường là song hành, nên hai vận 9, 1 đều không có tọa hướng lý tưởng về đáo sơn đáo hướng, duy trong vận 1 chỉ có tọa Ngọ hướng Tý là khả dụng, trong vận 9 chỉ có tọa Canh hướng Giáp là khả dụng. Nếu thế, có phải trừ hai hướng đó , các hướng còn lại đều phạm hung chăng? Không hề! Ở đây, trước hết hãy xem lực của hai Long mạnh hay yếu, tiếp đó xem có phải Long chân huyệt hay không. Nếu lực của hai Long mạnh mà không phạm Quá quái và là sai thố, lại thuộc Long chân huyệt, lai thủy và khứ thủy với lai Long đều cùng một nguyên, hợp thành quẻ thuần túy, thì có thể dùng phép thế quái đem sao vượng đến chỗ lai thủy, ở hướng đó hoặc ở nơi lai Long nhập thủ sẽ có thể phát phúc lâu dài”.
Câu “Chính sơn, chính hướng lưu chi thượng quả yêu ngộ hình trượng” trong Thiên Bảo Kinh của Dương Quân Tùng, có nghĩa là sơn Thiên nguyên cần thủy lưu Thiên nguyên, sơn nhân nguyên cần thủy lưu Nhân nguyên, sơn Địa nguyên cần thủy lưu Địa nguyên, chớ để lẫn lộn. Chữ “Chính” trong “chính sơn chính hướng” nghĩa là sơn thiên can (ví dụ: nhâm, quí, bính, đinh, canh, ất,…) cần kiêm ít chứ không được kiêm nhiếu, nếu kiêm nhiều sẽ phạm sai thố. Ba chữ ”Lưu chí thượng” có nghĩa sơn thiên can không thể khác địa chi với thủy lưu của nguyên, nếu phạm, e sẽ cô quả hoặc bị thua kiện. Do dó, sơn hướng cùng một nguyên cần có phối hợp âm dương. Chính hướng, chính sơn còn gọi là chủ hướng chủ sơn, kiêm hướng còn gọi là Chi Thần , nghĩa là Long, Sa, Thủy đều phải cùng một nguyên với Chính tọa chính hướng, không được cùng nguyên với kiêm hướng (Chi Thần). Đó chính là Thủy pháp, Sa pháp và tôn chỉ lập hướng của Huyền Không phong thủy.
Huyền Không phong thủy lại phân biệt cục Thuận Tử và cục Nghịch Tử, lấy Càn Khôn Cấn Tốn, Giáp Canh Nhâm Bính, Dần Thân Tị Hợi làm Dương. Lấy Tý Ngọ Mão Dậu, Thìn Tuất Sửu Mùi, Ất Tân Đinh Quí làm Âm, đem Dương đặt trong thủy, nghĩa là thủy khẩu lai khứ đều thuộc Dương; đem Âm đặt trên sơn, nghĩa là tọa sơn, triều sơn đều thuộc Âm, thành cục Thuận Tử. Nếu đem Âm đặt trong thủy, đem Dương đặt trong sơn, thì thành cục nghịch tử. Như vậy, mỗi sơn có hai cách dùng, là chính cục và kiêm cục, 24 sơn vị chi là 48 cục, đúng như câu kinh: “24 sơn song song khởi”.

Trích TRẠCH VẬN TÂN ÁN

vanhoai
28-10-09, 17:39
Sự kết hợp của các cặp sơn - hướng tinh hoặc đường lối đi trong hay ngoài nhà tạo thành các cặp hướng tinh cũng nói lên nhiều ý nghĩa trong bố cục của căn nhà.
Những cách 1-6, 2-7, 1-4, 6-7 đều đáng kể và phải được đặc biệt chú tâm tới, nhất là nếu chúng lại có ngoại hình hay cấu trúc bên trong ứng hợp, mức độ tốt, xấu sẽ từ đó biểu hiện hoặc gia tăng khốc liệt. các cặp 1-6, 1-4 không bao giờ bị luận là suy tử, chỉ trừ khi bị ngoại hình bên ngoài làm hỏng mà thôi, còn thường thì chúng đều rất tốt đẹp. Cặp 2-7 chỉ tốt nếu chúng là vượng khí, hoặc đi với những khí sinh, vượng là Thổ như 5, 8. Còn nếu không thì cần phải đề phòng. Cặp 6-7 là Giao kiếm Sát thì chỉ trừ lúc 1 trong 2 sao là khí sinh, vượng thì không sao, còn nếu không thì sẽ có vấn đề tranh chấp hay bị trộm cướp hoặc án mạng.
Cũng có thể dùng 1-6, 2-7 để luận Ngũ hành sinh, khắc của cung này, nhưng như đã nói là vẫn phải để ý đến ngoại hình và thiết kế, cũng như động tĩnh của khu vực này trước, sau đó mới tính đến vấn đề Ngũ hành sinh khắc, và vì vậy sẽ có muôn ngàn trường hợp khác nhau, tuy rằng trạch vận căn nhà thì giống nhau. Lấy thí dụ như khu vực này của 1 căn nhà mà có hồ tắm thì 1-6 đắc thế, khu vực này có kim-thuỷ vượng, chủ sinh ra người tài hoa, văn chương cái thế, học hành giỏi dang. 2-6, nếu như khu vực này lại có núi thì lúc đó Sơn tinh 2 vượng, nhưng là tử khí nên là cách trong nhà phát sinh quả phụ, người đàn ông trong nhà nếu có giỏi dang cũng yểu chết, khó thành danh. Nếu chỗ đó có bếp cũng chủ nhân đinh suy bại, gặp năm niên tinh 7 tới hoá hợp thành Hoả tiên thiên 2-7 là Hoả vượng khắc Kim 6, sợ rằng người cha, người chủ gia đình có tai hoạ lớn. Cho nên Huyền Không là biến hoá, muôn hình vạn trạng, chứ không có 1 công thức nhất định tính độ vượng, suy của ngũ hành hoặc phi tinh.
Cặp 3-8/ 8-3 cũng vậy, tuỳ theo địa hình, cấu trúc mà tính chúng là tốt hay xấu trong vận 8. Nhưng thông thường thì chúng là tốt, nhất là nếu nơi đầu hướng có 8, bên mé phải hoặc trái lại có 3.
- 1-6: Hợp hoá thành thuỷ tiên thiên, nếu có nước thì đắc lôi quan thuỷ, lợi cho tài vận và công danh.
- 2-7: Hoà tiên thiên: Chủ bệnh tật nặng và lâu dài, rất có thể bị đau tim và cao máu.
- 7-9: Hoả hậu thiên : Bực bội, thần kinh căng thẳng.
- 4-9: Kim tiên thiên: Nếu ở cung càn thì công danh thuận lợi. học hành thi cử đỗ đạt.
- 3-8: Mộc tiên thiên: Đại lợi cho công danh và tài lộc.
- 9-2: Lưỡng âm hoả: Có chuyện xích mích, cãi cọ.
- 6-7: Thương kiến sát: Chủ về tai nạn thương tật hoặc trộm cướp.
- 2-7: Đấu ngưu sát: Chủ về tranh chấp dẫn đến đánh nhau.
- 3-7: Xuyên tâm sát: Chủ về cãi cọ, bất hoà,...
- Các cung có các sao toàn âm (-) : 2;4;5;7;9. Vdụ: 9-4-7 hoặc 5-9-2; ...Nếu có thuỷ ở đó là nguy hại cho ngườii đàn ông trong nhà, nên đoán nếu người chồng không bỏ nhà đi xa thì ắt phải chết sớm .
- Tam ban quái ở trung cung (258; 369; 147): Gia đình hòa thuận, con cái ngoan hiền, có chí,...
- Hỏa khí quá mạnh: Như nhà tọa dậu hướng mão vận 7: Đầu hướng có 2-7(hỏa tiên thiên) lại thêm vận tinh 5 rồi vào trung cung gặp 9-7 (hỏa hậu thiên) cộng với hướng tinh 5 cũng đếu là hỏa . Rồi đến phương tọa gặp 7-9 cũng hỏa hậu thiên thêm hướng tinh 3 là thế mộc sinh hỏa. Mà hỏa thịnh thì khắc kim nên đương nhiên ngực, phổ, cổ họng bị đau. Còn một yếu tố nữa là nhà có hỏa khí mạnh thì con người bực bội nên trong nhà hay có cải cọ , to tiếng

vanhoai
28-10-09, 18:31
Đây là thí dụ về sự kết hợp các cặp số (mượn vd của anh PTS)
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/sources/2009/10/28/06/33691256729300.bmp
Luận giải nhà 281 độ, Ất hướng Tân kiêm 4 độ

Nhà này sau khi nhập trạch thì tai họa đến dồn dập, bệnh tật phá tài,.. thậm chí chết cả con chó.
Kiêm 4 độ thì chưa thể dùng thế quái nhưng lại không được vượng như chính hướng (tuy nhiên Ất hướng tân hay Tân hướng Ất thì chính quái và thế quái giống nhau). Đây nhà phụ mẫu tam ban quái khảm cung giả kiếp. Nếu vượng thì cực vượng, nếu suy thì cực suy
_ Cửa ga-ra có vượng khí lại ít dùng (used for office) nên người nhà thường ra vào bằng cửa hông có hướng tinh 9 là sinh khí, đáng ra là cửa vượng nhưng vì ở đây có sơn tinh 7 nên 7-9 kết hợp thành hỏa hậu thiên vào trong gặp 2-5 (thổ) rồi lại gặp 9-7 (hỏa) sau cùng gặp 4-3 (mộc). Như vậy là Mộc sinh HỎa, Hỏa sinh Thổ. Sát khí quá mạnh nên bệnh tật phá tài là không thể tránh khỏi. Lại thêm bếp quay về BẮC có hướng tinh 5 cũng chủ bệnh tật, phá tài.
căn nhà Ất hướng Tân này nhập trạch trong tháng 1 năm 2004. Đối với những căn nhà nhập trạch vảo buổi giao thời. Ta phải lập 2 tinh bàn, sau đó xem xét những dữ kiện đã diễn ra cho căn nhà đó để kết luận tinh bàn nào đúng và dùng tinh bàn đó. Theo kinh nghiệm (lại kinh nghiệm :668: ) không những của tôi mà còn của nhiều vị tiền bối khác thì vận 8 bắt đầu vào cuối năm 2003. Còn bắt đầu vào ngày tháng nào thì chưa đủ dữ liệu để kết luận. Do đó khi gặp những nhà nhập trạch vào thời điểm này ta cứ phải lập 2 tinh bàn mà xem xét.

vanhoai
03-11-09, 14:12
Luận về nhà bếp

Bếp là nơi chế biến thức ăn cung cấp năng lượng nuôi sống con người. Tức là nơi phát sinh và dẫn hỏa vào nhà. Cho nên nó liên quan mật thiết đến sức khỏe, dân số trong nhà đó. Vì thế cách bố trí bếp người ta thường tránh đặt bếp gần thuỷ như bồn rửa chén, vòi nước, bể nước, wc, tránh các xung sát như cầu thang, lối đi chiếu vào bên hông hay đằng trước, thậm chí vòi nước cũng không được chĩa vào bếp. Bởi vì những thứ này đều là thủy, mà thủy thì có thể làm tắt hỏa, dẫn đến nguy hại cho sức khỏe và nhân đinh trong nhà. Bếp còn không được nằm dưới xà nhà, hay nhà có nhiều tầng thì không được kê giường trên bếp hoặc wc cũng không được ở trên bếp, bếp không được để vào chỗ mà khi trước là wc vì nơi này đã trở nên ô-uế, Cầu thang cũng không được ở trên bếp

Theo Huyền không thì bếp đặt vào cung có sinh, vượng khí của sơn tinh sẽ làm cho người nhà khỏe mạnh, con cái mau thành đạt
Về vấn đề Thủy ở gần bếp thì hiện nay còn nhiều tranh cãi, chúng ta còn phải tiếp tục chiêm nghiệm. Tuy nhiên cũng có một vài ý sau:
- Nơi để bếp có sơn tinh là suy tử khí, nhưng hướng tinh là sinh vượng khí - Cần Thủy
- Bếp tại cung Ly (hướng Nam) hay sơn hướng tinh kết hợp thành hỏa hậu thiên hay hỏa tiên thiên (2-7); (7-2); (7-9); (9-7) - Cần Thủy
- Bếp tại cung có hướng tinh 6 hoặc 7 (hỏa khắc kim) - Cần Thủy
- Khu vực đặt bếp có sinh vượng khí của sơn tinh và Suy, tử khí của hướng tinh thì không được có thủy
- Khu vực đặt bếp có sao tử tôn tinh (3-4); (4-3) không được có thủy
- Bếp để ở khu vực có sơn hướng kết hợp thành tủy tiên thiên (1-6); (6-1) hoặc cung Khảm,...không được có thủy, sẽ dập tắt hỏa.

Về cầu thang và lối đi chiếu vào bếp thì lại cần coi tinh bàn như thế nào.
Đặt tinh bàn của nhà vào tâm của bếp. Nếu hướng cầu thang hay lối đi chiếu vào có sinh, vượng khí của hướng tinh thì được coi là tốt. Còn ngược lại nếu là suy tử khí của hướng tinh thì được coi là xấu.

Chúng ta cần chiêm nghiệm thêm

nguoikhonghoc
05-11-09, 21:50
Luận về ngũ hành cần xem phương pháp luận ngũ hành của dịch ly việt nam, rất chặt chẽ

vanhoai
07-11-09, 17:34
Hướng bếp

Theo Huyền Không thì nơi để bếp chủ về sức khỏe và nhân đinh, còn hướng bếp là chủ về tài lộc. Nếu hướng bếp (phía lưng người nấu) có hướng tinh là sinh, vượng khí thì rất tốt cho tài lộc hoặc có hướng tinh là:
- Nhất bạch Thủy: được “Thủy hỏa ký tế” nên là bếp tốt.
- Tam bích, tứ lục Mộc: Mộc sinh hỏa nên cũng là bếp tốt.
- Bát bạch thổ: Hỏa sinh Thổ (bát bạch là cát tinh) nên là bếp tốt vừa.
- Cửu tử: tị hòa nên cũng tốt vừa.
- Nhị hắc, Ngũ hoàng: Cũng hỏa sinh thổ nhưng nhị hắc và ngũ hoàng là hung tinh nên là bếp xấu.
- Lục bạch, thất xích Kim: Hỏa khắc Kim nên là bếp xấu

vanhoai
07-11-09, 20:40
Luận về phòng ngủ

Con người ta cần 1/3 thời gian trong ngày cho việc ngủ, nghỉ. Nên phòng ngủ đối với mỗi người trong nhà là rất quan trọng. Cùng một ngôi nhà nhưng mỗi người đều có sự thịch suy khác nhau, nếu phòng ngủ hay giường ngủ đặt vào chỗ hung nhiều khi có thể bệnh tật triền miên hoặc chết người.
Vì phòng ngủ là quan trọng nên người ta cho phòng ngủ là 1 trong 3 yếu tố quan trọng trong ngôi nhà (cửa chính, bếp, phòng ngủ). Phòng ngủ không được có bếp tựa vào, cửa phòng không được có cầu thang hay lối đi chiếu vào, giường ngủ không được dưới wc hay dưới xà nhà,…
Ngoài yếu tố theo Huyền Không là cửa phòng ngủ nên có hướng tinh là tam cát hoặc ngũ cát tính theo tâm phòng ngủ (dùng tinh bàn của nhà), người ta còn kết hợp dụng thần của người ngủ trong phòng đó.
Như người có dụng thần, hỷ thần là Hỏa nên ở phòng hướng Nam(so với tâm nhà), dụng thần, hỷ thần là Thủy nên ở phòng hướng Bắc,…..Đầu giường cũng nên quay về các hướng này
Về giường ngủ thì cần xét các yếu tố sau (tính theo tâm nhà):
1/- Những vị trí nên tránh:
• So với chi của năm sinh tránh những cung nằm trong Địa chi tương hình:
- Dần-tị-thân
- Sửu-tuất-mùi
- Tý-Mão
- Thìn-Thìn; Ngọ-Ngọ; Dậu-Dậu; Hợi-Hợi

• Năm gặp Thái Tuế, Tuế Phá: Nếu là năm hạn và đặc biệt là năm mệnh xung Thái tuế tại cung hướng gặp Thái tuế có hướng tinh là sinh, vượng khí thì không sợ Thái Tuế, còn không được thì không nên kê giường tại nơi này kẻo tai họa đến.
- Phương Thái Tuế: Năm Tý ở phương Bắc, năm Sửu ở phương Sửu,…
- Phương Tuế Phá: Năm Tý ở phương Nam, Năm Sửu ở phương Mùi,…
- Mệnh xung Thái Tuế: Thần-Dần; Mão-Dậu; Thìn-Tuất; Tị-Hợi; Ngọ-Tý; Sửu-Mùi

• Năm gặp Ngũ Hoàng: Gặp niên tinh Ngũ Hoàng đến phương nào thì nên tránh kê giương ngủ tại phương đó.


• Năm gặp Tam sát: Nếu tại phương gặp năm có tam sát cũng nên tránh không kê giường tại phương này trong năm
Phương tam sát:
- Năm Hợi, Mão, Mùi tam sát ở các phương: Thân, Dậu, Tuất
- Năm Dần, Ngọ Tuất tam sát ở các phương: Hợi, Tý, Sửu
- Năm Thân, Tý, Thìn tam sát ở các phương: Tị, Ngọ, Mùi
- Năm Tị, Dậu, Sửu tam sát ở các phương: Dần, Mão, Thìn
2/- Những vị trí nên đặt giường: Gặp nhưng năm có hạn hoặc mệnh xung Thái tuế, để giảm tai họa ta nên kê giường vào những vị trí sau:
• Tuế hợp với can:
Năm Giáp ở phương Kỷ (khôn); năm Bính ở phương Tân; năm Quí ở phương Mậu (cấn); năm Nhâm ở Đinh; năm Tân ở Bính, năm canh ở Ất; năm Kỷ ở Giáp; năm Mậu ở Quí; Năm Đinh ở Nhâm; năm Ất ở Canh.

• Phương Lục hợp: cần biết hành hóa là hành gì có tị hòa hoặc sinh cho dụng thần, hỷ thần thì tốt, bằng ngược lại thì không nên dùng.
Năm Tý ở Sửu, Tý-Sửu hóa Thổ; năm Dần ở Hợi, Dần-Hợi hóa Mộc; Mạo tuất hóa Hỏa; Thìn-Dậu hóa Kim; Tị -Thần hóa Thủy; Ngọ-Mùi hóa Thổ…và ngược lại.

vanhoai
14-11-09, 17:59
Luận về cửa chính

Trong căn nhà của chúng ta (dương trạch) nếu được bếp tốt mà phòng ngủ xấu thì cŨng không được tốt. Nếu được bếp và phòng ngủ tốt mà cửa chính (cửa thường ra vào nhà) xấu thì cũng không phải là căn nhà tốt. Cho nên khi nhập trạch vào một nhà mới thì cái cửa chính vẫn là quan trọng nhất, thứ đến là phòng ngủ và bếp. Trong “thuật phong thủy” người ta coi trọng ba cái này mà gọi là CHỦ-MÔN-TÁO.
- Chủ: là phòng chủ (phòng lớn nhất trong nhà)
- Môn: là cửa chính
- Táo: là bếp
Theo “Dương trạch tam yếu” thì người ta cho phối vị trí đặt của 1 trong 3 cái này với hướng nhà, nếu được du niên tốt (sinh khí, thiên y,…) thì tốt, còn nếu phạm vào du niên xấu (tuyệt mệnh, ngũ quỉ,…) thì phải tránh. Ngay cả cửa phòng, cửa bếp cũng phải đặt vào vị trí tốt mà tránh vị trí xấu.
Theo phong thủy “Huyền Không” thì Cửa chính là nơi nạp khí vào nhà và là cái quan trọng cần đặc biệt quan tâm. Nếu cửa chính bố trí đúng cách và được hướng tinh là vượng khí thì cho dù phòng ngủ, bếp bố trí có hơi sai một chút thì cũng không sao vì đã được “nhất chính đương quyền mà bách tà phải phục” rồi. Chỉ khi nào qua vận sau, lúc đó hướng tinh thành suy khí thì mấy anh chị này mới nổi lên “quậy” mà thôi.
- Trước hết Cửa chính hay cửa thường ra vào nhà cần bố trí ở cung hướng có hướng tinh là Tam cát hay Ngũ cát. Nếu được hướng tinh là vượng tinh thì càng tốt.
- Điều sau này là quan trọng không kém. Đó là dùng “bí quyết thành môn” để tìm cung có vượng khí của vận chúng ta đang sống mà mở cửa ngay đó. Vì có như vậy thì mới nạp được khí tốt vào nhà
Thí dụ: nhà hướng Nam 180’ vận 8 có hướng tinh 8 tại cung hướng Nam. Nay nếu mở cửa tại cung Bính thì nhà vẫn khó khăn như thường vì không nạp được vượng khí, chỉ khi mở cửa tại cung Ngọ hoặc Đinh thì mới khá được. Khi qua vận 9, tuy hướng Nam vẫn có hướng tinh là tam cát (1-6-8) nhưng nếu cửa vẫn ở Ngọ hoặc Đinh) thì tài vận lại đi xuống, nếu chuyển cửa qua Bính thì sẽ giử được tài lộc.

Trên đây là 3 vấn đề cốt lõi, gọi là CHỦ-MÔN-TÁO theo “Huyền Không”

dhai06
15-11-09, 08:25
Lạc thư, Hà đồ và Lượng thiên Xích

Hãy coi thử ma phương sau:
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/maphng.jpg

Tổng số của các cạnh hay đường chéo đều bằng 15. Đây chính là cân bằng của vũ trụ

1-Hà Đồ: Hà Đồ có 10 số: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10. Tổng số Hà Đồ là 55. Năm số lẻ là số dương tức số trời được biểu tượng bắng những chấm trắng. Tổng số các số trời là 1+3+5+7+9= 25. Năm số âm là số chẵn tức số đất biểu thị bằng những chấm đen. Tổng số các số đất: 2+4+6+8+10 = 30. Tổng cộng số trời đất là 55. Do đó “Dịch từ thượng” nói: số trời có 5, số đất có 5. Năm ngôi cùng tương tác mà hợp với nhau. Số trời là 25, số đất là 30, tổng số là 55, các số đó tạo nên sự biến hóa và điều hành quỷ thần. Theo Chu Hy, 5 ngôi tương đắc mà đều hợp với nhau. Theo “Dịch hệ từ thượng”: Ở trên là chỉ sự xếp đặt 5 cặp số của Hà Đồ, cứ một số trời hợp với một số đất, 1-6 ở dưới, 2-7 ở trên, 3-8 ở bên trái, 4-9 ở bên phải và 5 hợp với 10 ở trung cung. Hà Đồ là bức đồ đầu tiên của Kinh Dịch, sự vận hành của nó theo chiều tương sinh của ngũ hành, vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới luôn luôn tiến hóa , biểu hiện sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch. Bắt đầu từ Bắc đến Đông, vì Thủy sinh Mộc, qua Nam, vì Mộc sinh Hỏa, vào trung ương, vì Hỏa sinh Thổ, đi qua Tây , vì Thổ sinh Kim, trở về Bắc , vì Kim sinh Thủy. Vậy đường vận hành khởi từ Bắc ở dưới, qua bên trái, lên phía trên,vào trung ương, sang bên phải, lại về Bắc ( Theo quan điểm Á Đông vì ở Bắc bán cầu: Phía Bắc biểu trưng cho hàn lạnh nên thuộc Thủy, Phía Nam biểu trưng cho ấm nóng, nên thuộc Hỏa. Phía Đông biểu trưng cho sự trỗi dậy, nên thuộc Mộc. Phía Tây biểu trưng cho bền chắc, nên thuộc Kim. Trong khi đó Nam Bán Cầu thì vị trí Hỏa và Thủy sẽ đổi cho nhau, điều này lý giải phía Nam bán cầu “lường thiên xích” bay ngược với Bắc bán cầu)
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/Htngsinh.jpg
Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sông hoàng hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi chép lại, gọi là hà đồ
Khẩu quyết của hà đồ như sau:
“Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC.
Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM.
Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG.
Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY.
Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung”
Tạm dịch là:
“ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC.
2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM
3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐÔNG
4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY
5 – 10 là Thổ nằm ở chính giữa”
Dựa vào khẩu quyết, có thể biết vào thời Phục Hy, ngưới ta chỉ biết có 4 hướng là : ĐÔNG-TÂY-NAM-BẮC mà thôi.
http://i494.photobucket.com/albums/rr306/nvanhoai/h-hnh.jpg
Thật là kỳ diệu và ngạc nhiên con số 15. Ngày nay khoa học đã khám phá ra có tất cả 15 hằng số quan trọng trong sự hình thành của vũ trụ. Xin trích đoạn trong 1 tạp chí KH:
"sự hình thành của vũ trụ dựa vào những điều kiện ban đầu được biểu hiện qua 15 hằng số (trang 39). Một hằng số điển hình là vận tốc ánh sáng (299792 km/s), sau đó là hằng số vạn vật hấp dẫn Newton, G (6.67 x 10-11 Nm2/kg2), hằng số Planck, h (6.625 x 10-34 Js), khối lượng của electron (9.1091 x 10-31 kg), của proton, điện tích electron..... Những hằng số nầy bất biến đối với thời gian và không gian. Nếu có người ngoài hành tinh sống ở một thiên hà khác cũng sẽ đo được những hằng số nầy. Những hằng số nầy đòi hỏi một sự chính xác kỳ diệu cho sự tồn tại của vũ trụ chúng ta đang có hiện tại. Chẳng hạn nếu G nhỏ hơn một chút thì vũ trụ chỉ là những đám khí hydrogen không tạo được hành tinh, G lớn hơn một chút thì vũ trụ sẽ nhanh chóng co lại ngay từ lúc sơ sinh. Ở cả hai trường hợp vũ trụ sẽ hoàn toàn khác và con người sẽ không hiện hữu. Thậm chí, các con số nầy cũng chi phối kích thước và khối lượng của mọi vật trên quả điạ cầu. Chiều cao con người không thể vượt quá 2 m, núi cao nhất không thể cao hơn 8 km, trái đất quay với vận tốc vừa phải sao cho đúng với kích thước của mình đưa đến một ngày địa cầu là 24 tiếng [7]. Với 15 con số kỳ diệu nầy, vũ trụ được điều chỉnh một cách chính xác nên con người hiện hữu và và từ đó ý thức (consciousness) được thành hình."
Như vậy hoặc là có sự trùng hợp, hoặc là hệ thống lí luận của người xưa đã đúng hướng?

tuyettinh09
27-11-09, 00:28
:1008:anh VANHOAI cho em hoi.em đã theo hoc phong thủy dược mấy năm rồi.thường khi xem nhà cho 1 ai đó,em thường xem khí của nhà,đoán quẻ,rồi mới định hướng tính sao,va em lấy khí nhà và quẻ la chính,
những khi cải biến phong thủy nếu nhà dó gặp chuyện về sức khỏe,công việc...sau khi cải biến sẽ tốt lên
nhưng nếu yêu cầu về tiền bạc,như lam cho tài vận khá lên thì em ko sao làm đươc,em đã làm rất nhiều cách mà ko đươc,
anh cho em hoi,thế la sao,tránh điều rủi thì được.nhưng cầu may thì ko được,dù là làm cho bản thân mình.
anh co thể giai thich cho em hiểu đươc ko,và cach nao khắc phục ,thường khi anh xem thi thế nao,anh co thể chia sẻ kinh nghiẹm của anh cho em biêt chút chút đươc ko

tom
27-11-09, 01:04
cầu tài không được thì coi xem về lá số (tứ trụ hay tử vi) coi người đó đang ở vận hạn nào?
thường thì vận xấu thì bố trí phong thũy chĩ giúp bình an,bớt thất thoát chứ không phát tài đươc.
phát tài phải hôi tụ 3 điều:
1/ thiên thời(số mạng giàu)
2/địa lợi(phong thủy nơi ở tốt)
3/nhân hòa( nổ lực phấn đấu của bản thân)

vanhoai
27-11-09, 17:50
cầu tài không được thì coi xem về lá số (tứ trụ hay tử vi) coi người đó đang ở vận hạn nào?
thường thì vận xấu thì bố trí phong thũy chĩ giúp bình an,bớt thất thoát chứ không phát tài đươc.
phát tài phải hôi tụ 3 điều:
1/ thiên thời(số mạng giàu)
2/địa lợi(phong thủy nơi ở tốt)
3/nhân hòa( nổ lực phấn đấu của bản thân)
Trong phần nhân hòa còn thêm đức độ nữa. Phong thủy cứu được 30% số mệnh. Cũng còn tùy trính độ người coi nữa . Thường thì xây một căn mới dễ hơn là sửa một căn cũ. Rồi còn vấn đề đo đạc nữa, nhiều khi đặt la bàn mỗi chỗ mỗi khác, hì hì

tuyettinh09
27-11-09, 22:14
he he.vui qua.gio thi em hieu roi.cam on anh VANHOAI va anh TOM nha
gio thi em bot duoc noi lo roi.truoc day cu nghi la tai minh ko the lam duoc dieu do
cam on 2 anh rat nhieu:202:

sonthuy
27-11-09, 22:55
:1008:anh VANHOAI cho em hoi.em đã theo hoc phong thủy dược mấy năm rồi.thường khi xem nhà cho 1 ai đó,em thường xem khí của nhà,đoán quẻ,rồi mới định hướng tính sao,va em lấy khí nhà và quẻ la chính,
những khi cải biến phong thủy nếu nhà dó gặp chuyện về sức khỏe,công việc...sau khi cải biến sẽ tốt lên
nhưng nếu yêu cầu về tiền bạc,như lam cho tài vận khá lên thì em ko sao làm đươc,em đã làm rất nhiều cách mà ko đươc,
anh cho em hoi,thế la sao,tránh điều rủi thì được.nhưng cầu may thì ko được,dù là làm cho bản thân mình.
anh co thể giai thich cho em hiểu đươc ko,và cach nao khắc phục ,thường khi anh xem thi thế nao,anh co thể chia sẻ kinh nghiẹm của anh cho em biêt chút chút đươc ko
Chào bạn tuyettinh09, nghe bạn nói về PT chắc là rất khá và phương pháp của bạn hay lắm, bạn có thể chia sẽ cho mọi người được không?. Anh VanHoai nói vậy chứ anh mà ra tay thì nhà đó tốt lên liền à, cả về công việc sức khỏe tiền tài... từ từ anh VanHoai sẽ chia sẽ những kinh nghiệm quí báu đó :0401:cảm ơn

tuyettinh09
28-11-09, 21:22
chào bạn SONTHUY.khả năng phong thủy của mình con kém lắm,như anh VANHOAI đã noi ''còn tùy vào trình đô người coi nữa''điều đó chứng tỏ mình còn phải hoc hỏi nhiều .
bây giơ mình cũng đang tu luyện thêm.hi vọng la có thể khá lên đươc.vì từ trước đến giờ minh đều tự học.tự tìm hiểu lấy.ko co ai chỉ bảo.lên khả năng cung rất han chế.minh chứng rõ nhất là mình đều hỏi những câu hỏi vô thưởng vô phat đó
Rất cam ơn vì ban đã quan tâm:008:

vanphap
29-11-09, 13:19
:1008:anh VANHOAI cho em hoi.em đã theo hoc phong thủy dược mấy năm rồi.thường khi xem nhà cho 1 ai đó,em thường xem khí của nhà,đoán quẻ,rồi mới định hướng tính sao,va em lấy khí nhà và quẻ la chính,
những khi cải biến phong thủy nếu nhà dó gặp chuyện về sức khỏe,công việc...sau khi cải biến sẽ tốt lên

được như vậy là bạn đã có thứ hạng rồi, chỉ sợ rằng sau khi chỉnh sửa xong mà bị tốt ít xấu nhiều thì nguy.

Chúc mừng bạn.

Wow, xin lỗi post bài xong mới thấy đây là topic học thuật, những bài này phải để bên hành lang. Xin admin chuyể giúp.

QuocTrung
29-11-09, 15:26
:1008:anh VANHOAI cho em hoi.em đã theo hoc phong thủy dược mấy năm rồi.thường khi xem nhà cho 1 ai đó,em thường xem khí của nhà,đoán quẻ,rồi mới định hướng tính sao,va em lấy khí nhà và quẻ la chính,
những khi cải biến phong thủy nếu nhà dó gặp chuyện về sức khỏe,công việc...sau khi cải biến sẽ tốt lên

Chào Tuyettinh09
tôi rất đồng cảm với bạn về tài vận , bạn đã được anh Tom và Anh VanHoai giải thích rất tận tình ,
Tôi có thể hỏi bạn xem khí của căn nhà bạn xem như thế nào ? dựa trên cơ sở nào là chính
cám ơn bạn

tuyettinh09
29-11-09, 20:59
Chào Tuyettinh09
tôi rất đồng cảm với bạn về tài vận , bạn đã được anh Tom và Anh VanHoai giải thích rất tận tình ,
Tôi có thể hỏi bạn xem khí của căn nhà bạn xem như thế nào ? dựa trên cơ sở nào là chính
cám ơn bạn
cũng ko co gì cả.nếu bạn đọc cuốn mai hoa dịch số của thiệu khang tiết thì sẽ hiểu;VD''bước vào nhà hoa xuân phơi phới.là gia thất hòa khí bội phần.bỗng như thu lạnh phân phân.ấy điềm nhà cửa nát tan trong ngoài....../''
va xem xét hoan cảnh xung quanh(tưc la loan đầu đó bạn),nhưng ko đơn giản là xem địa thế đâu bạn,mà phải xem cả vê hình dàng ,kết cấu của ngôi nhà đó(mình gọi đó la khí nhà)
sau đó xem quẻ dịch.để định vượng suy.nguyên nhân của họa phúc,rồi minh lập tinh bàn anh sao định hướng.chi co vậy thôi bạn ah:611d7:

vanhoai
30-11-09, 06:13
Luận về Mượn / cướp khí & sự thông nhau giữa các cung

Trong các cách cục "Vượng sơn vượng hướng" thì sự tốt đẹp cho nhà cửa hoặc phần mộ chỉ được trong vận đó mà thôi (tối đa được 20 năm). Khi qua vận kế tiếp, sao hướng trở thành thoái khí nên nhà hay mộ phần trở thành suy mà tai hoạ ập tới. Nếu muốn tiếp tục phát ta phải sửa lại mộ phần hay căn nhà.
Ngoài cách cục “vượng sơn vượng hướng” mà thời gian hưng vượng ngắn ngủi ra người ta còn tìm được một số cách cục khác có sự hưng vượng lâu dài hơn, đó là các dạng nhà có sự thông nhau giữa các cung
Khi khí giữa các cung được thông nhau thì có thể mượn được khí của VẬN hoặc NGUYÊN khác về sử dụng cho vận hiện tại gần giống như những chiếc bình thông nhau. Theo một số nhà phong thủy: Nhà được thông khí thì khi vượng sẽ vượng gấp 4 lần nhà "vượng sơn vượng hướng" ( trong điều kiện của vùng đất có phong thuỷ như nhau). Nhưng theo tôi : Nhà “thông khí” không phải gấp 4 lần nhà “vượng sơn vượng hướng” mà gấp nhiều ngàn lần, Nó giống như một lỗ đen hút vật chất vậy.
http://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20080406214935AAP9t0v
Khi nhà được thông khí, nếu vượng thì tiền tài hút vào kinh khủng có thể đến mức mà gia chủ không thể kiểm soát nổi, nhưng nếu suy thì cực suy vì lúc đó nó đã suy lại còn bị cướp mất khí nên sự suy bại không thể lường được, có thể đến tán gia bại sản.
Đối với môn phong thủy cấp cao thì người học phong thủy đều phải có lời thề với môn sư, từ đó người thầy nhận xét mà trao những chìa khóa đặc biệt theo cá tính từng người. Bởi vì người học phong thủy nếu chưa tỏ tường các môn lý số đã vội đem áp dụng thì gieo họa chứ không phải phúc. Thí dụ: một người mà mệnh số chỉ có thể sử dụng tốt ở mức 5-10 ngàn đồng, nay bất ngờ có trong tay hàng triệu, hàng tỷ thì con người đó sẽ như thế nào? Chắc chắn đây là một tai họa với người đó.

Chúng ta cần tìm tòi, học hỏi và chiêm nghiệm nhiều. Nếu có căn duyên thì sẽ gặp

Các cách cục được thông khí mà chúng ta sẽ lần lượt khảo sát qua là:
1)_ Thiên tâm thập đạo.
2)_ Tam ban xảo quái.
3)_ Phụ mẫu tam ban quái.

vanhoai
30-11-09, 06:31
Dùng số 10 để thông với ngũ hoàng (5) ở trung cung của cửu cung, là nơi giao hội, xuất nhập của Nhật Nguyệt mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm – Dương. Thiên tâm thập đạo có thể thông khí giữa 8 cung gọi là “thông quái” Giúp cho nhà dù ở thế suy bại ( trường hợp bị thướng sơn hà thuỷ) cũng chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc dồi dào.
Thiên-Tâm Thập-đạo chĩ áp dụng cho các sao về Vận, Tọa và Hướng mà thôi.
Có nhiều loại Hợp thập:
• Tổng số là 10 của Tọa của các cung tọa và hướng.
• Tổng số là 10 của Hướng của các cung tọa và hướng.
• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9).
• Hợp thập quái: là tổng số của Tọa và Hướng ở Trung-cung là 10, chủ phát vượng nhanh
chóng.
• Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung đối xứng qua Trung-cung.
Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.
- Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu lấy trạch vận thì ta thấy:
- Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;
- Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.
- Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.
- Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10.
- Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.
- Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.
- Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.
- Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.
Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, nên đây là cách toàn bàn Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/11/30/06/19941259537229.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.10589074.html)

• Hợp thập số là tổng số là 10 của một cặp Tọa, Hướng hay Vận trong mổi cung xung quanh
Trung cung, chủ hương vượng. Đây là toàn cuộc Hợp-thập
1)_ Sơn tinh và Vận tinh:
- Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
- Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
Thí dụ: nhà tọa Sửu hướng Mùi, vận 8
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/11/30/06/18751259537219.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.10589072.html)

2)_ Hướng tinh và Vận tinh:
- Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
- Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
Thí dụ:
nhà toạ Ngọ hướng Tý vận 7
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/11/30/06/45491259537223.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.10589073.html)

Bất kể sự kết hợp giữa hướng tinh với vận tinh hay giữa sơn tinh với vận tinh thì khi đã được thiên tâm thập đạo thì toàn bàn đã được thông khí, 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng vượng và ngược lại.
Trong cách cục Thiên Tâm Thập Đạo tuy toạ hướng có thể lâm vào tình trạng “:thướng sơn há thuỷ” tức suy bại về tài lộc và nhân đinh nhưng chỉ cần cung có sao sinh khí hoặc tiến khí được phù hợp hình thế mà trở lên vượng thì toàn bàn đều trở lên vượng mà không sợ “thướng sơn há thuỷ” nữa. Thí dụ nhà toạ TÝ hướng NGỌ vượng phát trong vận 7, qua vận 8 thì trở lên suy bại vì hướng tinh 7 đã trở thành thoái khí. Nhưng nếu cung hướng NAM (có hướng tinh 8 là vượng khí) hay cung hướng ĐÔNG BẮC (có hướng tinh 9 là sinh khí) có thuỷ, trống thoáng hay đường đi hoặc cung hướng TÂY NAM (có sơn tinh 8) hay cung hướng ĐÔNG (có sơn tinh 9) có núi, đồi, nhà cao hay cây cao thì nhà này vẫn vượng phát như thường (dĩ nhiên những khu vực này cần có cửa để đón nhận vượng khí)

Thiên Tâm thập đạo có thể phá được thế Phản phục ngâm toàn bàn nếu có cửa thu vượng khí.

Ngoài ra Thiên tâm thập đạo còn cần hình thế chung quanh phù hợp thì mới được thông khí.

vanhoai
08-12-09, 18:52
Tam ban quái & Thất tinh đả kiếp
Các bộ số (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) được gọi là bộ số của quẻ tam ban.
Phép dùng Tam ban quái và Thất tinh đả kiếp (đả kiếp là cướp đoạt khí của tương lai) là phép dùng quẻ Tam ban để cướp đoạt khí của tương lai như Thượng nguyên thì cướp đoạt khí của Trung nguyên, Trung nguyên thì cướp đoạt khí của Hạ nguyên...
Có 3 loại tam ban quái:
1)_ Tam ban quái liên châu.
2)_ Tam ban xảo quái.
3)_ Phụ mẫu tam ban quái. Trong đó lại chia làm hai loại:
a_ Ly cung đả kiếp (đả kiếp thật)
b_ Khảm cung giả kiếp (đả kiếp giả)

Tam ban quái liên châu

Liên châu tam ban quái được cho là quý trong các cuộc đặt biệt và có thể đem tới nhiều điều tốt cho chủ nhà ( dĩ nhiên là loan đầu phải phù hợp ). Có người lại cho rằng Tam ban quái liên châu chỉ tốt được vài năm đầu, sau đó là suy bại. Đó là họ chưa biết cách kích hoạt cho thông khí mà thôi.
Liên Châu Tam Ban Quái là cuộc bao gồm 9 cung mổi cung đều có sơn tinh, vận tinh, và hướng tinh liền nhau. 3 sao liền nhau , tức là 3 sao đều là (1-2-3) hoặc (2-3-4) hoặc (3-4-5) hoặc (4-5-6) hoặc (5-6-7) hoặc (6-7-8) hoặc (7-8-9) hoặc (8-9-1)
Thí dụ:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/12/08/06/77401260272729.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.10781236.html)

Tam ban xảo quái

Tam ban xảo quái là trong mổi cung đều xuất hiện một trong các bộ số tam ban (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9)
Thí dụ:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/12/08/06/27971260272721.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.10781233.html)
Cũng gần giống như các cuộc thiên tâm thập đạo. Các cuộc Tam ban quái liên châu và Tam ban xảo quái tuy có thể phạm vào cuộc “thướng sơn há thuỷ”, nhưng chỉ cần một cung hướng vượng và một cung sơn vượng thì toàn bàn đều vượng (dĩ nhiên vẫn cần có cửa để thu nhận khí ờ các cung vượng này). Còn nếu không được cung nào vượng thì thật là nguy hiểm, vì lúc đó khí bị cướp đi hết mà sinh ra tai hoạ khó lường

Phụ mẫu tam ban quái

Còn gọi là THẤT TINH ĐẢ KIẾP. Khi các hướng tinh thuộc bộ số tam ban: (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) phân bổ vào các cung lần lượt là LY-CHẤN- CÀN và KHẢM –ĐOÀI-TỐN kết hợp với cặp song tinh là vượng tinh ở đầu hướng thì đây là phép thất tinh đả kiếp.
Điều cần biết là vị trí của các số trong mỗi nhóm cung định chiều quay của khí trong nhóm này, chẳng hạn như các sao Hướng của nhóm Khảm là Đoài, Khảm và Tốn có số hướng tinh xắp theo thứ tự là (1,4, 7) cho biết chiều quay của khí trong nhóm này là theo chiều kim đồng hồ. Chiều quay của khí trong nhóm Ly phải theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Hai chiều khí này phải ngược với nhau để có thể được coi là đồng liệt. Như vậy trường hợp trên đây được coi như có 2 bộ số tam ban .
Thí dụ 1:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/12/08/06/68681260272739.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.10781239.html)

Thí dụ 2:
http://img.photo.zing.vn/file_uploads/gallery/w642h/q42008/2009/12/08/06/86621260273310.bmp (http://photo.zing.vn/photo/gallery_preview/allsize.10781567.html)
Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: LY-CHẤN-CÀN thì đây là LY cung đả kiếp (phép đả kiếp thật)
_ Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: KHẢM-ĐOÀI-TỐN thì đây là KHẢM cung giả kiếp (phép đả kiếp giả)
Sau đây là một vài loại Thất Tinh Đả Kiếp khác:
• Các sao Tọa và Hướng của các cung tọa và hướng hợp thành 2 cặp số của Thất Tinh Đả cuộc hợp thành quẻ Tam ban tức là Vận, Tọa và Hướng của mổi cung hợp nhau lại thành Tam ban quái. Trường hợp này không cần điều kiện song tinh đáo hướng. Thí dụ: Vận 2, sơn Cấn hướng Khôn.
Kiếp.
• Các sao Tọa và Hướng của mổi cặp cung tọa và hướng có các số cung hợp với nhau thành
một cặp số sinh thành của Hà đồ như là (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9). Cả 4 sao của các cặp
cung này hợp lại thành 2 cặp số Thất Tinh Đả Kiếp như thí dụ trên.
• Cả 4 sao Tọa và hướng của mổi cặp cung đối xứng nhau qua Trung-cung hợp nhau thành 2
cặp số Thất Tinh Đả Kiếp.
Ngoài ra còn có trường hợp Toàn bàn Thất Tinh Đả Kiếp mà người ta còn gọi là Tam-Ban Xảo quái (đã khảo sát ở phần trên).
Điều quan trọng cần chú ý là các phép MƯỢN KHÍ làm khí trong nhà được đưa lên rất cao nên có thể đưa tất cả các điều tốt xấu lên cao độ khiến cho rất thịnh vượng hoặc rất suy bại tùy theo tình trạng phong-thủy tốt xấu. Như vậy, khi Ngũ-hành của sao và cung kỵ nhau, kỵ thủy và kỵ sơn, ta vẫn phải tìm cách giải cho thỏa đáng để triệt tiêu cho bằng hết tất cả chuyện xấu.
Trong phép THẤT TINH ĐẢ KIẾP thì những điều kiện sau đây cũng cần có:
1)_ Hướng tinh hoặc sơn tinh là sinh vượng khí cần được đắc cách
2)_ Ngũ-hành trong các cung đều phải sửa đổi cho tốt.
3)_ Kỵ Sơn và thủy cũng cần phải giải quyết cho thỏa đáng ở các nơi cần thiết.
4)_ Hình thế bên ngoài phải không kỵ hay được an bày để không kỵ.
5)_ Không bị Tù tức là vượng tinh của hướng không được nằm trong Trung-cung (trường hợp tam ban xảo quái và các trường hợp khác)
Hậu quả có thể vô cùng tai hại nếu các điều kiện trên không đuợc toàn chỉnh.

conan135
08-12-09, 19:25
Bạn thêm về ví dụ 1 :
2 5 8 tuy thông khí với nhau nhưng cần phải xem xét như thế này :
2 là tử tinh của thượng nguyên khí lực nó đã không con cái khí mà nó đưa tới 5 chỉ là tử khí chứ chẳng phải tốt lành gì, sao 5 là khí của trung vận là đại hung tinh lại nhận khí từ 2 đưa tới là ác gặp ác hợp bè hợp lũ chẳng gọi là khí tốt vậy, 2 5 cùng đi đến 8, 8 là cát tinh nhưng lại gặp một lũ hung tinh đến như là người tốt mà bị rơi vào giữa đống giặc không theo thì sẽ hại, nên dù có thông khí đi chăng nữa cũng chỉ là cái phồn vinh nhất thời thất vận thì sẽ bại vong ngay tức khắc, trường hợp này phải xem đến sự thông khí của 3 6 9, 3 nằm giữa trường khí cùa 2 8 nên 3 cũng như tình trạng của 8 mà 3 lại thất vận nên tuyệt đối không nên dùng 3, 6 9 là thành phần thứ 2 quyết định khí lưu thông đến 8 ngoài 2 5 nên cần phải bổ 6 9, 6 đã bắt đầu sang vận tử khí nhưng lại là cát tinh nên lực nhẹ thì nơi đó có thể gắn một chiếc quạt máy hay là một cái bống đền thì ổn rồi, ở đây 9 trở nên quan trọng nhất vì nó là sinh tinh lại gần 8 nhất đã bổ 8 thì nhất định phải bổ thêm 9 và nên đễ nước từ 9 sang 8 là tốt nhất, do đó cái danh thất tinh đã kiếp nối là thông khí vì thực chất nó cho ta biết được hướng khi lưu thông trong 1 căn nhà để mà bổ và chế đến khi thất vận cũng chẳng hại to như các trường hợp khác mà thôi, tuy nhiên các cục thất tinh đã kiếp như vậy đã vượng thì trên 40 năm cực vượng do đó nó có thể giải quyết được tình huống thướng sơn hạ thủy để sang vận mới thì tốt đẹp hơn chính vận của hướng, các trường hợp đèo thêm phản phục ngâm nữa thì đành chịu vì tất cả các cung một là quá mạnh, 2 là quá yếu chẳng giúp ích gì cho nhau
http://upanh.com/uploads/04-Dec-2009/039ogmp7lha7za41tyrz_tn_0x0.jpg (http://c.upanh.com/uploads/04-Dec-2009/039ogmp7lha7za41tyrz_tn_0x0.jpg)

namphong
12-12-09, 09:00
Dạ, vậy ở đây có bác nào hiểu câu :
tam hợp là huyền không
Hướng lấy từ tam hợp
Huyền không suy luận bàn
Biết rõ cơ trời đất
Phong thủy tự sắp bày
Xin lập một topic khác để tranh luận

Xem ra bạn đã làm loãng topic của anh Văn Hoài rồi.
Bạn trích những câu trên nhưng bạn có hiểu không?
Bạn nói về Tam hợp và Huyền không vậy bạn có biết quyển nào là kinh điển của Tam hợp, và quyển nào là kinh điển của Huyền không?

"Tam hợp thị Huyền không
Hướng lấy từ Tam hợp"

Chính là nói việc phân kim lập hướng, Huyền không lập hướng chia làm hạ quái khởi tinh và thế quái khởi tinh, Tam hợp lập hướng chia làm 24 vị châu bảo, 48 vị cô dương, hư âm và sát diệu. Lập hướng dù hạ quái hay thế quái đều phải chọn cho được 24 vị châu bảo, tránh 48 vị cô dương, hư âm và sát diệu.
Nội dung hai câu trên là như vậy, nhưng cao hơn nữa bạn có hiểu nó hàm ý gì nữa không? Nó nhắc nhở địa sư phải chọn cho hài hòa không thiên vị, lấy cái lợi chung cho mọi người. Như Tý sơn phân kim Bính tý, Canh tý là châu bảo, nhưng nếu chọn nữa bên trái của Bính tý thì con cả hưởng hết, chọn bên phải Bính tý thì con cả và con thứ chia nhau; Nếu chọn nữa bên trái Canh tý phân kim thì con thứ hưởng hết, chọn nữa bên phải Canh tý phân kim thì con thứ và con út chia nhau. Nếu bên chọn có hình loan tốt đẹp, bên không được chọn có hung sát thì một bên phát, một bên bại tuyệt. Lấy tọa sơn chia 3 phần: tả vi trưởng phòng; trung vi thứ phòng; hữu vi tiểu phòng mà đoán định, âm dương nhị trạch như nhau.(tôi viết phần này cho anh Văn Hoài vì tôi chắc bạn sẽ không hiểu được đâu)

Huyền không suy luận bàn
Biết rõ cơ trời đất
Phong thủy tự sắp bày


Cái này chính là nói việc ai tinh định sinh vượng suy tử. Ai tinh này không phải là việc lập tinh bàn Vận-Sơn-Hướng bàn của huyền không đâu mà chính là sơn thủy nhị bàn. "Âm dương phân lưỡng lộ, Sơn thủy định nhị bàn", sơn một đường, thủy một đường chia rõ. "Phiên thiên đảo địa đối bất đồng" là vậy. "Biết rõ cơ trời đất", không phải là nói trời đất mà chính là nói thiên bàn(sơn bàn), địa bàn(thủy bàn).

"Phong thủy tự sắp bày" chính là nói thiên nhiên định sẵn, long sơn hướng thủy đã an bài; hình loan hợp lý khí hợp tất phát phúc; hình loan hợp lý khí bất hợp tức chờ thời không nên cưỡng cầu, nên nói "tiên khán kim long động bất động"; lý khí hợp hình loan bất hợp chính là nơi không nên vọng cầu; hình loan và lý khí bất hợp chính là bại tuyệt địa cục.


Tam Ban Cục mỗi phái có sở đắc riêng, đứng trên quan điểm một phái đương nhiên không thể chấp nhận quan điểm các phái khác. Đứng trên quan điểm nhiều phái lấy cái hay để dùng, tùy cục mà định, lấy cái ưu của bên này bổ cái khuyết của bên kia, từ từ sẽ nhận thấy chân quyết, nếu không vượt qua được cái "tôi" thì sao nhận chân khẩu quyết?

"thức đắc phụ mẫu tam bàn quái ,tiện thị chân thần lộ .
bắc đẩu thất tinh khứ đả kiếp ,li cung yếu tương hợp ."

Thiên quái, Địa quái, Phụ mẫu quái: tam ban quái
1-6 hợp dụng 4-9: Kim Thủy tương sinh
2-7 hợp dụng 3-8: Mộc Hỏa tương sinh
Nếu như 1-6 hợp dụng 3-8: Kim Mộc tương sát
2-7 hợp dụng 4-9: Thủy Hỏa tương sát
Hợp 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, hợp 5, hợp 10, hợp 15 là hợp, còn lại bất hợp

Tam Ban Quái có thấp có cao, dụng có hợp có bất hợp nên có cát có hung, toàn lấy nguyên lý trên mà xét sẽ rõ. Như 2-5-8 là toàn hợp, 1-4-7 là hợp thượng trung, trung hạ nguyên bất hợp, 3-6-9 là thượng trung bất hợp, trung hạ nguyên hợp

conan135
12-12-09, 12:12
:004:Hay hay đúng không hổ danh là huynh Nam Phong, vậy anh có biết mấy câu này lấy từ sách nào ra không ? Việc phân kim như anh nói là từ Huyền Không đại Quái, chẵng qua chỉ là thuyết của 1 nhà tôi không dám lạm bàn

vanhoai
19-12-09, 07:01
Bàn thêm về ví dụ 1 :
2 5 8 tuy thông khí với nhau nhưng cần phải xem xét như thế này :
2 là tử tinh của thượng nguyên khí lực nó đã không con cái khí mà nó đưa tới 5 chỉ là tử khí chứ chẳng phải tốt lành gì, sao 5 là khí của trung vận là đại hung tinh lại nhận khí từ 2 đưa tới là ác gặp ác hợp bè hợp lũ chẳng gọi là khí tốt vậy, 2 5 cùng đi đến 8, 8 là cát tinh nhưng lại gặp một lũ hung tinh đến như là người tốt mà bị rơi vào giữa đống giặc không theo thì sẽ hại, nên dù có thông khí đi chăng nữa cũng chỉ là cái phồn vinh nhất thời thất vận thì sẽ bại vong ngay tức khắc, trường hợp này phải xem đến sự thông khí của 3 6 9, 3 nằm giữa trường khí cùa 2 8 nên 3 cũng như tình trạng của 8 mà 3 lại thất vận nên tuyệt đối không nên dùng 3, 6 9 là thành phần thứ 2 quyết định khí lưu thông đến 8 ngoài 2 5 nên cần phải bổ 6 9, 6 đã bắt đầu sang vận tử khí nhưng lại là cát tinh nên lực nhẹ thì nơi đó có thể gắn một chiếc quạt máy hay là một cái bống đền thì ổn rồi, ở đây 9 trở nên quan trọng nhất vì nó là sinh tinh lại gần 8 nhất đã bổ 8 thì nhất định phải bổ thêm 9 và nên đễ nước từ 9 sang 8 là tốt nhất, do đó cái danh thất tinh đã kiếp nối là thông khí vì thực chất nó cho ta biết được hướng khi lưu thông trong 1 căn nhà để mà bổ và chế đến khi thất vận cũng chẳng hại to như các trường hợp khác mà thôi, tuy nhiên các cục thất tinh đã kiếp như vậy đã vượng thì trên 40 năm cực vượng do đó nó có thể giải quyết được tình huống thướng sơn hạ thủy để sang vận mới thì tốt đẹp hơn chính vận của hướng, các trường hợp đèo thêm phản phục ngâm nữa thì đành chịu vì tất cả các cung một là quá mạnh, 2 là quá yếu chẳng giúp ích gì cho nhau
http://upanh.com/uploads/04-Dec-2009/039ogmp7lha7za41tyrz_tn_0x0.jpg (http://c.upanh.com/uploads/04-Dec-2009/039ogmp7lha7za41tyrz_tn_0x0.jpg)

Đúng là xét theo bình thường thì như thế. Nhưng, Huyền Không có cái vi diệu mà ít ai hiểu được.



.......................
...............................
Huyền không suy luận bàn
Biết rõ cơ trời đất
Phong thủy tự sắp bày


Cái này chính là nói việc ai tinh định sinh vượng suy tử. Ai tinh này không phải là việc lập tinh bàn Vận-Sơn-Hướng bàn của huyền không đâu mà chính là sơn thủy nhị bàn. "Âm dương phân lưỡng lộ, Sơn thủy định nhị bàn", sơn một đường, thủy một đường chia rõ. "Phiên thiên đảo địa đối bất đồng" là vậy. "Biết rõ cơ trời đất", không phải là nói trời đất mà chính là nói thiên bàn(sơn bàn), địa bàn(thủy bàn).

"Phong thủy tự sắp bày" chính là nói thiên nhiên định sẵn, long sơn hướng thủy đã an bài; hình loan hợp lý khí hợp tất phát phúc; hình loan hợp lý khí bất hợp tức chờ thời không nên cưỡng cầu, nên nói "tiên khán kim long động bất động"; lý khí hợp hình loan bất hợp chính là nơi không nên vọng cầu; hình loan và lý khí bất hợp chính là bại tuyệt địa cục.


Tam Ban Cục mỗi phái có sở đắc riêng, đứng trên quan điểm một phái đương nhiên không thể chấp nhận quan điểm các phái khác. Đứng trên quan điểm nhiều phái lấy cái hay để dùng, tùy cục mà định, lấy cái ưu của bên này bổ cái khuyết của bên kia, từ từ sẽ nhận thấy chân quyết, nếu không vượt qua được cái "tôi" thì sao nhận chân khẩu quyết?

"thức đắc phụ mẫu tam bàn quái ,tiện thị chân thần lộ .
bắc đẩu thất tinh khứ đả kiếp ,li cung yếu tương hợp ."
Thiên quái, Địa quái, Phụ mẫu quái: tam ban quái
1-6 hợp dụng 4-9: Kim Thủy tương sinh
2-7 hợp dụng 3-8: Mộc Hỏa tương sinh
Nếu như 1-6 hợp dụng 3-8: Kim Mộc tương sát
2-7 hợp dụng 4-9: Thủy Hỏa tương sát
Hợp 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, hợp 5, hợp 10, hợp 15 là hợp, còn lại bất hợp

Tam Ban Quái có thấp có cao, dụng có hợp có bất hợp nên có cát có hung, toàn lấy nguyên lý trên mà xét sẽ rõ. Như 2-5-8 là toàn hợp, 1-4-7 là hợp thượng trung, trung hạ nguyên bất hợp, 3-6-9 là thượng trung bất hợp, trung hạ nguyên hợp

Thiên ngọc kinh viết:
"thức đắc phụ mẫu tam bàn quái ,tiện thị chân thần lộ .
bắc đẩu thất tinh khứ đả kiếp ,li cung yếu tương hợp ."

Tưởng Đại Hồng giải thích:
" Bàn thức được ba quẻ phụ mẫu đã là lộ chân thần rồi. Nhưng cần phải biết phép "Thất tinh đả kiếp" thì phần tinh yếu của Tam Ban quái mới được nhận tác dụng cao nhất"

Chương Trọng Sơn giải thích:
"Phụ mẫu là phụ mẫu kinh qua 4 vị trí, tam ban là ba ban đảo vòng: Khảm đến Tốn, Tốn đến Đoài, rồi Đoài đến Khảm. Bắc đẩu là khí lập cực tùy theo thời gian. Thất tinh là từ hiện tại suy ngược tới vị trí thứ bảy. Chỗ này nếu ngũ hành tương phản với khí lập cực thì rất dễ phát sinh tai họa; Cần phải hợp nhau để thay vì phát họa thì biến thành phát phúc. Thuyết này có mấy ai biết được. Nhóm Doãn Nhất Thược không rõ nên đoán quàng xiên, cho rằng chẳng liên quan gì tới tinh yếu của phép đả kiếp"

Hãy cứ tìm và học, ai có duyên thì sẽ gặp.

nguoikhonghoc
16-05-10, 21:56
Xin góp vui phong thủy huyền không!
có 2 quyển sách đáng tham khảo
1- Thẩm thị huyền không học - thẩm trúc nhưng khoảng 170 ngàn đồng ở hiệu sách nguyễn xí
2- Phong thủy nhà cửa gì gì đó không nhớ rõ tên - Khương văn thìn (dựa trên quyển 1 viết ra với kinh nghiệm lâu năm cho dễ hiểu và ứng dụng có cả kinh dịch)

Meocondangyeu20102010
25-11-10, 21:59
xin hỏi anh vanhoai
giải thích loan đầu là gì sao em không hiểu nhỉ?

vanhoai
15-12-10, 05:07
Bạn Meocondangyeu20102010 đưa câu này qua bên Hành lang phong thủy Huyền Không nhé.

hatcatvodanh
25-01-11, 22:04
kính anh vanhoai và anh namphong!! hai anh có thể chỉ cho mọi người nguyên tắc sử dụng phân kim và cho ví dụ cụ thể được không anh??
trân trọng!!

ThamLang
13-03-11, 12:31
...* Khi Hướng tinh ở 1 trong hai bên kết hợp với hướng tinh ở đầu hướng thành 1 cặp số tiên thiên (1-6; 2-7; 3-8; 4-9) mà ở đó lại có thủy hay cổng, ngõ thì xem như có thành môn
Thí dụ: nhà tọa CANH, hướng GIÁP (75 độ), nhập trạch trong vận 8. Nếu an Vận bàn thì vận tinh số 6 tới hướng. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại bài PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN) thì số 3 đến ĐÔNG BẮC. Vì ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà số cửu tinh của đông bắc là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên 3-8. Nếu nơi này có ao hố hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.

Thưa anh vanhoai
Khi em phần lý thuyết, tới phần ví dụ Thành Môn này thì không rõ, có phải chỗ này là thành môn ngầm không ạ.Đọc lại nhiều lần hoài vẫn thấy không hiểu chỗ này vì nếu lấy 6 nhập trung thì hướng vượng tinh không đáo Cấn nên em tính hoài vẫn không ra thành môn.

vanhoai
13-03-11, 14:01
Đúng đây là thành môn ngầm em ạ.

TanLen73
13-03-11, 14:16
@Thamlang
Nhà tọa Canh hướng giáp, nhập vận 8 được song tinh 8 tới hướng, tại Đông Bắc có hướng tinh 3. Hướng tinh tại hướng là 8 kết hợp với hướng tinh 3 tại Đông Bắc được 8-3 Mộc tiên thiên, nên tại Đông Bắc có cổng, sông, hồ ... thì nhà đắc thành môn.

ThamLang
14-03-11, 05:33
Thưa anh vanhoai, anh TanLen và anh chị em
Em cũng còn có chỗ chưa rõ mong anh hướng dẫn thêm : khi đắc thành môn, nếu nạp khí ở phương này thì vượng khí thu được sẽ tính của sao đương lệnh hay sao đầu hướng ạ? Ví dụ giáp canh trên khi nạp khí thành môn thì vượng khí thu được nếu tính là khí của bát bạch thì có thể suy ra những nhà có cung đắc thành môn và cung này có hướng tinh ngũ hoàng thì vẫn có thể nạp khí phải không anh ?
Cảm ơn anh đã quan tâm.

1268
14-03-11, 20:30
Chào Tham Lang.

Có được thành môn rồi phải xem thành môn đó có dùng được không? Nếu thành môn đắc vượng khí đến thì mới dùng được. Bạn đọc kỹ lại phần thành môn sẽ hiểu.

Thân.

vanhoai
15-03-11, 03:34
Thưa anh vanhoai, anh TanLen và anh chị em
Em cũng còn có chỗ chưa rõ mong anh hướng dẫn thêm : khi đắc thành môn, nếu nạp khí ở phương này thì vượng khí thu được sẽ tính của sao đương lệnh hay sao đầu hướng ạ? Ví dụ giáp canh trên khi nạp khí thành môn thì vượng khí thu được nếu tính là khí của bát bạch thì có thể suy ra những nhà có cung đắc thành môn và cung này có hướng tinh ngũ hoàng thì vẫn có thể nạp khí phải không anh ?
Cảm ơn anh đã quan tâm.

Thí dụ: Nhà Dậu hướng Mão vận 8. Hướng Đông Nam có hướng tinh Ngũ Hoàng. Nếu Cung Tốn(tính từ tâm nhà) có Thủy (ao hồ, ngã ba hay cổng ngõ) thì vẫn gọi là đắc thành môn phụ, chỉ có điều là không được mở cửa nạp khí vào nhà tại cung hướng này mà thôi.

ThamLang
15-03-11, 19:06
Chào Tham Lang.

Có được thành môn rồi phải xem thành môn đó có dùng được không? Nếu thành môn đắc vượng khí đến thì mới dùng được. Bạn đọc kỹ lại phần thành môn sẽ hiểu.

Thân.

Chào anh 1268
Chắc do lỗi trình bày không rõ nên anh 1268 hiểu nhầm ý,theo ý ThamLang hiểu là khi mở thành môn thì được vượng khí của sao đương lệnh (vì lẽ đó nên thành môn chỉ dùng trong thời gian 1 vận , khi hết vận vượng khí không còn nên thành môn suy), nhưng còn sao hướng tại cung mở thành môn thì cũng sẽ được nạp khí , không biết là có vượng hay không ?

ThamLang
15-03-11, 19:14
Thí dụ: Nhà Dậu hướng Mão vận 8. Hướng Đông Nam có hướng tinh Ngũ Hoàng. Nếu Cung Tốn(tính từ tâm nhà) có Thủy (ao hồ, ngã ba hay cổng ngõ) thì vẫn gọi là đắc thành môn phụ, chỉ có điều là không được mở cửa nạp khí vào nhà tại cung hướng này mà thôi.

Thưa anh vanhoai
Theo ví dụ trên em hiểu là : nhà trên tuy đắc thành môn (đắc = đạt = được) nhưng không dùng được (vì không mở cửa nạp khí) có đúng không anh?
(mong anh thông cảm vì em cứ hỏi hoài vụ này, nhưng thật sự là có gút mắc thì trong lòng cứ thấp thỏm không yên.Cảm ơn anh, chúc anh vạn sự như ý :1898:)

con_nha_ngheo
23-03-11, 14:58
Cám ơn bác VanHoai
để em nghiên cứu từ từ ạ :5333:

sonthuy
19-05-11, 23:35
Trích:
Nguyên văn bởi vanhoai
Thí dụ: Nhà Dậu hướng Mão vận 8. Hướng Đông Nam có hướng tinh Ngũ Hoàng. Nếu Cung Tốn(tính từ tâm nhà) có Thủy (ao hồ, ngã ba hay cổng ngõ) thì vẫn gọi là đắc thành môn phụ, chỉ có điều là không được mở cửa nạp khí vào nhà tại cung hướng này mà thôi.

Thưa anh vanhoai
Theo ví dụ trên em hiểu là : nhà trên tuy đắc thành môn (đắc = đạt = được) nhưng không dùng được (vì không mở cửa nạp khí) có đúng không anh?


Hi ThamLang
Câu này tôi có thể trả lời thay anh VanHoai được: Nhà trên đắc thành môn phụ nhưng vướng hướng tinh Ngũ Hoàng nên không cho mở cửa.

ThamLang
21-05-11, 05:58
Hi anh sonthuy
Cảm ơn anh đã quan tâm trả lời.Câu hỏi này em hỏi cách nay cũng khá lâu, trong lúc chờ anh vanhoai thì em cũng may mắn tự giải quyết được, giờ thì cũng tương đối đỡ đỡ (hơn ngày xưa)rồi anh ạ.
Rất mong được học hỏi anh hêm. Chúc anh nhiều sức khỏe và an khang.

levandungforex
26-05-11, 09:14
Chào anh Van Hoai!
Tôi muốn hỏi anh một chút, Tiên Thiên BQ và Hậu Thiên BQ thì mình dùng cái nào, và dùng nào trường hợp nào. Vì tôi thấy cách sắp xếp quẻ trên mỗi cái là có sự khác nhau!
Cảm ơn anh!

levandungforex
03-06-11, 23:01
http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/levandungforex2011/apps/photo/album/photo-detail/id/1208669381#/dt/levandungforex2011/apps/photo/album/photo-detail/id/1208669381

vanhoai
04-06-11, 04:46
Chào anh Van Hoai!
Tôi muốn hỏi anh một chút, Tiên Thiên BQ và Hậu Thiên BQ thì mình dùng cái nào, và dùng nào trường hợp nào. Vì tôi thấy cách sắp xếp quẻ trên mỗi cái là có sự khác nhau!
Cảm ơn anh!

Bạn có thể cho câu hỏi rõ hơn được không? Xin cho thì dụ
(Bạn đưa qua bên Hành lang phong thủy huyền không nhé)

adhoc
07-09-11, 22:27
Luận theo Dịch lý VN như thế nào ? tui chưa bao nghe bao giỡ

TanLen73
17-10-11, 11:02
Mong anh VanHoai tiếp tục đăng bài để các ACE có tài liệu quý mà học tập và tham khảo.

vovi1111
27-11-11, 08:11
Anh Văn Hoài mến,

Tài liệu này của anh hay quá; nó giải thích cho tôi nhiều điều đang muốn hỏi.

Có một khó khăn là trong nhiều bài viết, các hình minh họa đã không còn hiển thị được. Phiền anh có thể xem và post lại chúng giùm với.

Cảm ơn anh đã chia sẻ những kiến thức này rất nhiều.

Thân mến.

cóc tía
21-01-12, 21:42
Chào anh vân hoài !
Tôi thấy bài anh viết hay quá ,tôi đọc tuy chưa nhuần nhiễn được như anh nhưng cũng cảm nhận được thuật phong thủy thật là tinh diệu !
Nhưng không biết phần một anh đã viết hết chưa ?
Nếu hết rồi mong anh viết tiếp phần hai để chúng tôi được học hỏi .
Chân thành cảm ơn anh !

vanhoai
22-01-12, 18:50
Cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Phần II của Phong thủy Huyền Không Phi Tinh vì có một phần liên quan tới dịch quái, cho nên tôi đang hoàn thiện phần dịch quái để đưa lên trước (sẽ cố gắng đưa lên càng sớm càng tốt) rồi mới tiếp tục phần II được.
Năm mới chúc các bạn một năm Nhâm Thìn an lành, hạnh phúc và đặc biệt nghiên cứu học thuật càng ngày càng tấn tới.

cóc tía
25-01-12, 10:19
Cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Phần II của Phong thủy Huyền Không Phi Tinh vì có một phần liên quan tới dịch quái, cho nên tôi đang hoàn thiện phần dịch quái để đưa lên trước (sẽ cố gắng đưa lên càng sớm càng tốt) rồi mới tiếp tục phần II được.
Năm mới chúc các bạn một năm Nhâm Thìn an lành, hạnh phúc và đặc biệt nghiên cứu học thuật càng ngày càng tấn tới.
Rất cảm ơn thịnh tình của anh !
Nhân dịp xuân mới xin chúc anh và gia đình sức khỏe - An khang - Thịnh vượng !
Tôi là người ngoại đạo lại rất bận nhưng tôi quyết định học huyền không phi tinh của anh . Có điều sao nhiều hình minh họa không hiển thị lên nên gây nhiều khó khăn cho việc nghiên cứu ?
Mong anh sớm đưa phần II và những gì liên quan lên để mọi người học tập . Nếu người người - Nhà nhà điều biết xắp xếp môi trường sống và làm việc của mình theo phong thủy thì chắc chắn : Dân sẽ dàu ,nước sẽ mạnh .
Rất ngưỡng mộ anh !

hoachithanh
09-03-12, 10:43
Vượng sơn, vượng hướng
Nhà vượng sơn vượng hướng chỉ tốt trong thời gian của vận đó mà thôi. Khi qua vận kế thì sao đương vận của vận này trở thành thoái khí của vận sau tức thành khí xấu, năng lực suy giảm nên cung toạ và hướng của nhà trở thành xấu. Đến vận sau nữa thì các cung này lại càng xấu hơn nữa…Do đó vượng sơn vượng hướng chỉ tốt trong đương vận mà thôi, tức là chỉ tốt nhiều nhất là 20 năm. Điều này giải thích vì sao một nhà đang làm ăn phát đạt bỗng trở nên suy tàn và càng ngày càng lụn bại.

Kính anh Văn Hoài,
Cái này có 2 trường hợp phải không anh:
1) Nếu nhà này không đổi vận thì vẫn tốt trong các năm của vận kế tiếp.
2) Nếu có các hành động (ra khỏi nhà, sửa chữa...) gây ra đổi vận mới có thể chịu ảnh hưởng như anh nói.
Em hiểu như trên có đúng vậy không anh Văn Hoài? Trân trọng.
PS: Sau khi nghiên cứu và đọc kỹ, em đã hiểu, ví dụ:
Nếu sang vận mới là 9, thì tinh bàn vận 8 (nếu chưa làm phép đổi trạch vận) Vẫn là tinh bàn của vận 8, nhưng ý nghĩa của các con số phi tinh đã thay đổi hẳn. Số 8 là đương vận trong vận 8, nhưng sang vận 9 thì ý nghĩa đã thay đổi (tinh bàn vẫn giữ nguyên như v8). Số 8 là suy khí. Vì vậy muốn hóa giải thì chỉ có cách thay vận tinh 8 bằng vận tinh 9 (phép đổi vận) may ra có cách cục tốt hơn.
Em quả chậm hiểu, anh coi như không có câu hỏi trên.

nguyenhoangsqtt
09-03-12, 15:23
Xin hỏi a là nếu là nhà chung cư cao tầng thì phải xác định thế nào? hướng nhà có phải xác định giống như trên không ạ? mong a chỉ giúp.

1268
12-03-12, 14:20
Xin hỏi a là nếu là nhà chung cư cao tầng thì phải xác định thế nào? hướng nhà có phải xác định giống như trên không ạ? mong a chỉ giúp.

Chắc anh VH bận việc, xin phép được trả lời bạn như sau:

Đối với nhà chung cư thì ta phải xác định hướng chung cư và hướng căn hộ, và cả hai cái đó đều ảnh hưởng đến căn hộ mình đang xét. Tuy nhiên, hướng của căn hộ vẫn ảnh hưởng chủ đạo, hướng của chung cư sẽ làm tăng giảm cái tốt hoặc cái xấu của căn hộ.

Thân.

1268
12-03-12, 14:25
Kính anh Văn Hoài,
Cái này có 2 trường hợp phải không anh:
1) Nếu nhà này không đổi vận thì vẫn tốt trong các năm của vận kế tiếp.
2) Nếu có các hành động (ra khỏi nhà, sửa chữa...) gây ra đổi vận mới có thể chịu ảnh hưởng như anh nói.
Em hiểu như trên có đúng vậy không anh Văn Hoài? Trân trọng.
PS: Sau khi nghiên cứu và đọc kỹ, em đã hiểu, ví dụ:
Nếu sang vận mới là 9, thì tinh bàn vận 8 (nếu chưa làm phép đổi trạch vận) Vẫn là tinh bàn của vận 8, nhưng ý nghĩa của các con số phi tinh đã thay đổi hẳn. Số 8 là đương vận trong vận 8, nhưng sang vận 9 thì ý nghĩa đã thay đổi (tinh bàn vẫn giữ nguyên như v8). Số 8 là suy khí. Vì vậy muốn hóa giải thì chỉ có cách thay vận tinh 8 bằng vận tinh 9 (phép đổi vận) may ra có cách cục tốt hơn.
Em quả chậm hiểu, anh coi như không có câu hỏi trên.

Chào bạn chắc anh VH bận việc, xin phép được trả lời bạn như sau:

1. Một vận có 20 năm, nên khi nói nhà vượng sơn vượng hướng tốt tối đa được 20 năm vì. Cục vượng sơn vượng hướng có hướng tinh là vượng khí đến hướng, sơn tinh là vượng khí đến tọa. Khi hết vận ichcác sơn hướng đó trở thành suy khí nên ko còn tốt nữa, dù có đổi vận hay không.

2. Đổi vận có một số cách đã được các anh nói nhiều trong diễn đàn như:
- Đi khỏi nhà trên 3 tháng
- Mở rộng diện tích nhà thêm 50%
- Đập đi xây mới

Thân.

cóc tía
12-03-12, 22:02
Xin chào quý vị !
Chào anh 1268 !
Chào anh nguyenhoangsqtt !
Thấy mọi người tỏ ra rất khâm phục và kính trọng anh Vân Hoài nên tôi mạo muội viết mấy dòng để kính báo với quý vị .
Tôi vừa hân hạnh được nói truyện ĐT với anh Vân Hoài ,quả là anh ấy rất bận phần vì công việc ,phần vì đang hoàn thiện phần dịch .. của phần II huyền không phi tinh nên ít có thời giam vào diễn đàn để hướng dẫn anh chị em .
Tôi cũng như anh chị em rất mong anh ấy chuyển phần II lên để học tập và lại đang rất phân vân vì cái nhà quá xấu về mặt PT nên may mắn được anh ấy quan tâm rất là vô tư !
Vậy tôi viết mấy dòng kính báo để anh chị em quan tâm nhẫn nại chờ đợi !
Xin chào !

nguyenhoangsqtt
21-03-12, 11:03
cho e hỏi nhà chung cư cao tầng thì xác định hướng như thế nào?

1268
21-03-12, 11:36
cho e hỏi nhà chung cư cao tầng thì xác định hướng như thế nào?

Xin được trả lời bạn như sau:

Đối với chung cư cao tầng thì hướng của căn hộ được dùng để lập Tinh bàn cho căn hộ, sau đó phối hợp với hướng của cả chung cư để tăng giảm mức độ tốt xấu.

Thân.

vanhoai
01-04-12, 20:51
HUYỀN KHÔNG PHI TINH
PHẦN II

Chào các bạn,
Huyền không phi tinh phần I đã được viết khá lâu, một phần là để hoàn thiện phần tài liệu và một phần cũng để các bạn có thời gian nghiệm chứng. Nay tôi xin mạn phép đăng tiếp phần II Huyền Không phi tinh, song song với chủ đề 64 quái ải tinh pháp.
Trong phần này có thể có những lúc nhắc lại những ý đã viết ở phần I cũng là muốn nói đến sự quan trọng của nó

Phần II gồm có:

Đồng nguyên long
Thành môn nhất quyết tối vi lương,
Thành môn dụng thần
Trực hướng 14 cục
Huyền không nhập tù chi bí
Huyền không mạng cung và 24 sơn hướng
Bát sát hoàng tuyền
Ải tinh bài long quyết
Nạp giáp
Hướng thủ nhất tinh tại phúc bính, khứ lai nhị khẩu tử sinh môn
Hoán bộ di cung-nhất vật nhất thái cực
Văn xương và văn bút
Huyền không phản phục ngâm quái
Luận tuyến độ phản ngâm phục ngâm
Huyền Không và các cặp Tiên thiên
24 sơn phân thuận nghịch, cộng thành 48 cục
Cửu tinh & 24 cung hỗ sinh
48 cục vận 7 luận giải
48 cục vận 8 luận giải
Huyền Không phi tinh kết hợp 64 quái ải tinh pháp luận giải

Nhân đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè thân hữu gần xa đã tặng, cho tài liệu để chúng ta có được những kiến thức quí báu ngày hôm nay.

Chúc các bạn ngày càng tinh tấn

Ngày Nhâm Thìn, tháng Giáp Thìn, năm Nhâm Thìn
VanHoai

1268
02-04-12, 10:01
Xin chân thành cám ơn anh Văn Hoài, sau một thời gian nghiên cứu về Huyền không phi tinh, chắc mọi người cũng đã có những kiến thức nhất định về huyền không phi tinh cũng như cũng đã có một số nghiệm chứng cụ thể.

Nay anh đưa tiếp phần II cho mọi người học hỏi thật là đáng quý biết bao, xin được chân thành cám ơn anh.

Em xin có ý kiến là: Để mọi người tiện theo dõi đề nghị anh để một mục riêng ngay ở phía ngoài (thay vì cho vào phía cuối phần I thế này).

Thân.

sonthuy
02-04-12, 11:26
Rất cảm ơn anh VanHoai cung cấp thêm kiến thức Huyền Không cho diễn đàn, măc dù anh rất bận rộn nhưng đã hết lòng vì diễn đàn. Cảm phục anh nhiều lắm.

Kính Thân
ST

bonghongvang
02-04-12, 14:55
Cám ơn anh Vanhoai đã chia sẻ những kiến thức quý báu. Các bài viết của anh rất dễ hiểu với những người mới tiếp cận với huyền không.

hongai72@yahoo.com
02-04-12, 16:05
Thật là đáng quý biết bao với tấm lòng luôn rộng mở của anh VanHoai, em xin cảm ơn anh thật nhiều về những bài viết anh sắp chia sẻ . Kính chúc anh cùng gia đình vạn sự cát tường .

luanxaquyen
03-04-12, 18:52
Thấy bốn con "Thìn" trong bài viết của anh vanhoai (năm Thìn, tháng Thìn, ngày Thìn, giờ Thìn) cầm lòng không nổi phải vào chúc cho "Tứ Hải Long Vương" này sẽ đưa bài viết của anh ngày một cao và rộng hơn nữa :008:

vanhoai
09-04-12, 06:24
Đồng nguyên long

Chúng ta đã biết 8 hướng được chia thành 24 sơn và đều có phân định âm dương và mỗi hướng lại chia làm 3 nguyên, trong đó bài theo chiều thuận thì địa nguyên, thiên nguyên rồi đến nhân nguyên. Thiên nguyên là phụ mẫu, Nhân nguyên là thuận tử và địa nguyên là nghịch tử. Mỗi nguyên được an vào 8 sơn trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm;
Thiên nguyên long gồm:
• 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN
• 4sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU

Địa nguyên long gồm:
• 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI

Nhân nguyên long gồm:
• 4 sơn dương: DẦN THÂN TỊ HỢI
• 4 sơn âm : ẤT TÂN ĐINH QUÍ

Khi bài sơn thủy hoặc mở cửa, phân phòng cho âm dương nhị trạch thì điều tối quan trọng là cần đồng nguyên long với nhau. Như nhà có hướng là thiên nguyên long thì bài hình thế sơn thủy, mở cổng cửa cũng cần ở trong các cung của thiên nguyên long trong 8 hướng thì mới phát huy tác dụng mạnh nhất. Trong trường hợp bất khả kháng thì chỉ có thể an vào nhân nguyên long (thuận tử) còn tuyệt đối tránh các sơn là địa nguyên long (nghịch tử). Địa nguyên long thì chỉ có thể bài vào các sơn địa nguyên long còn không thể an vào thiên hay nhân nguyên long. Nhân nguyên long thì an vào các sơn nhân nguyên long, nếu trong trường hợp bất khả kháng có thể an vào thiên nguyên long còn không thể an vào địa nguyên long.

vanhoai
09-04-12, 06:30
Thành môn nhất quyết tối vi lương:

Thanh nang Áo Ngữ viết “Bát quốc thành môn tỏa chính khí”, trong Đô thiên bảo chiếu kinh cũng đề cập đến “Ngũ tinh nhất quyết phi chân thuật, thành môn nhất quyết tối vi lương, thức đắc ngũ tinh thành môn quyết, lập trạch an phần đại cát xương”. Vì vậy thành môn quyết trong phong thủy được xem là trọng yếu nhất, tuy nhiên nội dung của thành môn quyết thực tế là như thế nào? Thanh nang, Đô thiên bảo chiếu, Thiên ngọc… các cổ thư kinh điển không nói rõ ràng, vì thế các nhà phong thủy các môn các phái căn cứ vào cổ thư nêu lên vài chữ như vậy để tự giải thích, lý luận suy diễn, vì thế các phái đối với thành môn quyết thì lý luận và cách dùng không giống nhau.

Theo Thẩm thị nói về thành môn như sau: “thành môn là nơi dẫn khí nhập huyệt; đối với thuỷ là nơi tam xoa tụ hội hoặc thuỷ chiếu huyệt có tình, cần hợp phương sinh vượng của ngũ hành, đó là thành môn. Ngũ hành phương vị sinh vượng là gì? Đó là hai cung trái phải của cung hướng, Thiên nguyên và Nhân nguyên hướng gặp vận tinh 1 3 7 9 phi đáo, Địa nguyên hướng gặp vận tinh 2 4 6 8 phi đáo. Phàm là thành môn phải nghịch phi thủ đắc vượng khí, cần đồng nguyên nhất khí để âm thủ dương, dương thủ âm, ý nói thiên nguyên hướng thì thành môn cũng thiên nguyên, nhân và địa nguyên cũng vậy, như vậy nếu hướng là âm thì thành môn sẽ dương, hướng dương thì thành môn âm. Nếu cung bên cạnh hướng vận tinh là 5 mà lại có thuỷ tại đó thì có thể dụng làm thành môn (như vận 8, hướng Nam hoặc Tây có thể dụng thành môn tại tây nam). Nếu hướng tinh ở cung bên cạnh và hướng tinh ở chính hướng hợp thành các cặp số tiên thiên 1-6; 2-7; 3-8; 4-9 thì cũng có thể dụng thành môn.
Cần phân biệt chính mã(thành môn chính)và tá mã (thành môn phụ), lấy nguyên đán bàn(địa bàn) làm chuẩn, như Khảm với Càn, Càn với Khảm hỗ sinh 1-6 là chính mã, còn lại Khảm với Cấn, Càn với Đoài là tá mã, lực không bằng chính mã.
Lại có xuất cung kiêm hướng là tá khố, quái thuần thanh là tự khố.
Tự khố
Tự khố chính là định tuyến lập hướng không thiên lệch(không kiêm hướng), thủ tại chính trung, đắc chính quái bàn, thuỷ lí lệnh tinh đáo hướng đắc thuỷ thì trạch tự nhiên vượng, tài lộc hưng thịnh. Ví dụ như vận 8 lập toạ tị hướng hợi chính hướng(dùng bàn hạ quái không dùng kiêm), tại cung càn gặp thuỷ bát bạch tinh đắc thuỷ như hình dưới:

http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/04/09/5/52/1333925563307077321_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1388600615)

Tá khố
Phần trên nói tự khố là chính tuyến không kiêm, phần này nói tá khố chính là kiêm hướng dùng bàn thế quái vậy, phàm dụng tá khố là do chính quái lập hướng gặp suy tý khí nên phải dùng kiêm hướng để bổ cứu lại. Tỉ dụ như vận 9 tại cung Khôn có thuỷ, lập Nhâm sơn Bính hướng thì suy tý tinh đến khôn, thuỷ thành sát thuỷ, dụng thế quái thì vượng tinh đáo khôn, thủy đắc thành cát thuỷ, như đồ hình sau:

http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/04/09/5/53/13339256022039348537_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1388600646)

Tự khố, chính mã là chính cách của thành môn. Tá khố, tá mã lực không mạnh bằng (chính hướng thì lực mạnh còn kiêm hướng thì lực yếu)
Hướng suy đắc thành môn cát, bổ cứu cho hướng; hướng vượng đắc thành môn như gấm thêm hoa. Nếu thành môn suy khí tất có hung.
Kinh văn viết: “thiên thượng tinh thần tự chức la, thuỷ giao tam bát yếu tương quá, thuỷ phát thành môn tu yếu hội, khước như hồ lí nhạn giao nga.” Nói thuỷ giao tam bát tức là nói thành môn. Như âm dương nhị trạch, toạ Dậu hướng Mão, Mão là Chấn cung, nguyên đán bàn tức tam, tam với bát là “tương hợp chi tinh” tức với bát Cấn cung là chính thành môn.
Như Tốn sơn Càn hướng vận 8, xung quanh bốn bề che kín, chỉ một lối thông duy nhất tại Tý, như vậy thành môn là Tý (thiên nguyên long), Tý vận tinh 4, tại 4 Tốn dương nên thành môn không dùng được. Qua vận 9 thì vận tinh tại Tý là 5; 5 theo Ngọ mà tính, vì Ngọ âm nên 5 nhập trung nghịch phi thì 9 đến Tý, vượng tinh đáo thành môn nên thành môn khả dụng.
Thành môn chính đắc vượng thì phát phú và phát quí. Thành môn phụ đắc vượng chỉ phát phú mà không quí.
Thành môn nơi sơn hướng có hướng tinh ngũ hoàng thì không nên dùng vì tuy có tài lộc nhưng hung nhiều hơn cát.
Thành môn dùng trong đương vận, nếu qua vận thì bại.

vanhoai
09-04-12, 15:55
Thành môn dụng thần

Thành môn Dụng thần là gì? Hai cái thực chỉ là một việc.
Phàm âm dương nhị trạch, trong cục thế có cảnh vật hợp tình, hoặc là nói dụng thần để hình dung được đó là chuyên nói về lực. Như lệnh tinh đáo hướng cần thấy được thủy nhưng hướng lại không có thủy, tức lệnh tinh tuy đáo hướng mà vô lực; nếu suy tý chi tinh đáo hướng, tối kị có thủy nhưng lại có thủy đầu hướng, tức phạm “thủy lí long thần thượng sơn”, chủ thoái bại tài lộc, trong trường hợp này thành môn mà đắc dụng tức có thủy thì đó chính là dụng thần.
Như sơn thượng long thần lệnh tinh đáo tọa, phương tọa có sơn phong tức sơn tinh đắc lệnh mà phát đinh, tức dụng thần mang điều cát lợi đến. Ngược lại nếu sơn thượng long thần suy tý đáo tọa, tọa phương có sơn phong, tức phạm “sơn thượng long thần hạ thủy”, tắc tổn đinh, dụng thần ở đây dẫn xuất tổn đinh. Tức dụng thần trở thành hung họa
Thành môn dụng thần, dụng đắc phát phú đinh, dụng bất đắc tất tổn đinh thoái tài.

vanhoai
10-04-12, 19:54
(Bài này đã được anh Nam Phong đăng lên diễn đàn,Nhưng vì muốn cho chủ đề được liền lạc nên tôi đăng lại)
Trực hướng
Phép lập hướng ngoài chính hướng và kiêm hướng còn một dạng gọi là trực hướng. Chính hướng dùng tinh bàn là hạ quái bàn, kiêm hướng dùng tinh bàn là thế quái bàn.
Trực hướng kiêm hướng gần xuất quái (kiêm từ 6 độ trở lên. Nếu chỉ kiêm dưới 6 độ thì dụng thế quái như bình thường), gồm có thác quái và hỗ quái, phép dùng xuất từ Chương Trọng Sơn, đương thời gọi cục thế này là ảo mã, càng thác thì càng trực, càng ảo thì càng chính.
Sau khi lập vận bàn, tại hướng thì lấy vận tinh hướng phối Khôn Nhâm Ất quyết, tuy nhiên không nhập trung cung phi động mà bài tại hướng thượng phi động theo lường thiên xích; tại sơn thì lấy vận tinh sơn phối Khôn Nhâm Ất quyết, tuy nhiên không nhập trung cung phi động mà bài tại sơn phi động theo lường thiên xích. Không theo âm dương 24 sơn phi thuận nghịch mà cứ thác quái thì phi thuận, hỗ quái thì phi nghịch, đây là điểm đặc biệt của trực hướng.
Tam nguyên cửu vận thác quái bao gồm 12 cục:
• Nhất vận:
- Hợi hướng kiêm Nhâm.
- Càn hướng kiêm Tuất
- Canh hướng kiêm Thân
- Tân hướng kiêm Tuất
• Nhị vận - Thìn hướng kiêm Ất
• Tứ vận - Tân hướng kiêm Tuất
• Ngũ vận - Hợi hướng kiêm Nhâm
• Lục vận
- Hợi hướng kiêm Nhâm
- Giáp hướng kiêm Dần
- Mão hướng kiêm Giáp
• Thất vận
- Càn hướng kiêm Tuất
- Giáp hướng kiêm Dần
- Mão hướng kiêm Giáp

Thí dụ như: vận 1 Hợi hướng kiêm Nhâm, nhất nhập trung, 2 đến Hợi, 2 nhân nguyên là Thân, Thân thế tinh tức nhất bạch tham lang, tức dùng nhất bài tại hướng thượng, thác quái thuận phi, nhị tại đoài, tam tại cấn, tứ tại li, ngũ khảm, lục khôn, thất chấn, bát tốn, cửu nhập trung, đây là thác quái ải tinh chi pháp.
Như vận 6 Mão hướng kiêm Giáp, chấn đắc lục, tốn đắc thất, bát nhập trung, chấn tốn 2 phương thấy thuỷ sẽ chủ vượng 40 năm, vận 8 bại.

Hỗ quái tam nguyên cửu vận bao gồm 2 cục:
• Nhị vận - Tị hướng kiêm Bính
• Bát vận - Tị hướng kiêm Bính
Thí dụ: vận 2 Tị hướng kiêm Bính, vận tinh 2 nhập trung, hướng đắc nhất, nhất nhân nguyên là quý, thế tinh tham lang nhập hướng thủ, hỗ quái nghịch hành, cửu nhập trung, bát nhận càn, thất đoài, lục cấn, ngũ li, tứ khảm, tam khôn, nhị chấn.

vanhoai
10-04-12, 19:57
Trực hướng 14 cục

• 12 cục thác quái:
1. Nhất vận toạ tị hướng hợi kiêm bính nhâm
998---554---776
887---119---332
443---665---221

Hợi Nhâm cục trung cung hợp thập, kinh viết: “Khảm li thuỷ hoả trung thiên quá, long trì di đế toạ”, trung thiên quá tức trung cung đắc nhất cửu, long trì là cửu, đế toạ là nhất. Theo quyết của Nam phái Huyền không thì “ Nếu hợp ải tinh Bảo chiếu, lạc canh nông (làm nghề nông thì phú nông), thiện thương gia (buôn bán thì đại thương gia). Sau 10 năm danh tiếng vang lừng, đăng khoa kim bảng, làm rạng danh tiên tổ”. Nhất vận lập hướng, hướng thượng đắc thuỷ tức nhất bạch thuỷ, tài đinh khả vượng 20 năm. Phương Đoài thấy thuỷ, vượng tiếp 20 năm. Nếu thuỷ bao từ càn đến đoài, liên cung qua khôn, ly và tốn, khả lập thành phi tinh bất bại cục, vượng 160 năm, đến vận 9 bại.

2. Nhất vận toạ tốn hướng càn kiêm thìn tuất
999---555---777
888---111---333
444---666---222

Bát thuần quái bàn chủ đại hung, sơn hướng vận tinh phục ngâm, âm dương bất phối, sơn tinh thuỷ tinh cho dù đắc cách loan đầu thì cái cát cũng không thể địch được cái đại hung, không nên dùng.

3. Nhất vận toạ giáp hướng canh kiêm dần thân
897---453---675
786---918---231
342---564---129

4. Nhất vận toạ ất hướng tân kiêm thìn tuất
198---654---876
987---219---432
543---765---321

5. Nhị vận toạ tuất hướng thìn kiêm tân ất
812---467---689
791---923---245
356---578---134

6. Tứ vận toạ ất hướng tân kiêm thìn tuất
233---788---911
122---344---566
677---899---455

Cục hướng tinh nhập tù bất lợi,

7. Ngũ vận toạ tị hướng hợi kiêm bính nhâm
644---299---422
533---755---977
188---311---866

Cục thế toàn bàn phục ngâm, lệnh tinh nhập tù, không nên dùng

8. Lục vận toạ dậu hướng mão kiêm canh giáp
457---913---235
346---568---781
892---124---679

9. Lục vận toạ canh hướng giáp kiêm thân dần
457---913---235
346---568---781
892---124---679


10. Lục vận toạ tị hướng hợi kiêm bính nhâm
555---111---333
444---666---888
999---222---777
Cục thế vận sơn hướng tinh phục ngâm, không thể biến hoá, đại hung.

11. Thất vận toạ tốn hướng càn kiêm thìn tuất
665---221---443
554---776---998
119---332---887

Cục thế phạm đinh tinh nhập trung, chủ tổn đinh, bất hiếu, vong nhân.

12. Thất vận toạ giáp hướng canh kiêm dần giáp
764---329---542
653---875---197
218---431---986

Hết 12 cục thác quái
• hai cục hỗ quái:
1)_ Nhị vận toạ hợi hướng tị kiêm nhâm bính
411---865---683
592---329---147
956---774---238
Cục thế hướng suy, nếu ngộ được hướng thượng bế tắc, nhưng lưỡng cung khôn chấn thấy thuỷ thì có thể dùng, vận 8 cũng vậy.

2)_ Bát vận toạ hợi hướng tị kiêm nhâm bính
277---632---459
368---186---814
723---541---995

Cục thế hướng suy, xem cục bên trên (vận 2) mà dùng.
Cục trực hướng xem trọng hướng phối thuỷ pháp.

vanhoai
10-04-12, 20:33
Huyền không nhập tù chi bí

Huyền không phi tinh cách cục có nhiều, phổ biến là "vượng sơn vượng hướng" và "thượng sơn hạ thuỷ", ngoài ra cũng không thiếu các cách cục đặc biệt, trong đó có cách cục “lệnh tinh nhập tù”, gọi đơn giản là “nhập tù”. “Nhập tù” hai chữ chỉ lệnh tinh vào tù. Huyền không mật chỉ giải thích tường tận: “Lệnh tinh (sơn tinh hoặc hướng tinh) nhập trung cung chính là tù, "Song tinh đáo hướng" hoặc tọa thì sơn hướng tinh ở cung đối diện vào vận cũng nhập tù. Âm dương trạch gặp tù tất bại, phân rõ hai loại: thực tù và không thực tù”.
Như vận 1 lập Tuất hướng, vận tinh 2 đến hướng, đến vận 2 tức bị nhập tù. Nhưng nếu loan đầu phù hợp thì có thể giải tù.
Có nhiều cách .
1) Đối với mộ phần thì phía trước nên có hồ nước (ao) nhỏ, thoáng đãng, phản chiếu ánh sáng
2) Đối với nhà, trước nhà có môn lộ hay có thuỷ thì dù có tù mà không thực tù, đây là giải tù cách. Một cách nữa với dương trạch là bố trí cầu thang ở trung cung sẽ giải được tù
Riêng ngũ hoàng nhập trung thì không bị tù, ngũ hoàng trung thổ chí tôn không thể bị tù
3) Âm dương nhị trạch vào vận hướng tinh nhập tù, nếu ở cung hướng tinh là sinh khí, tiến khí có thủy (hoặc môn lộ với dương trạch) thì có thể giải tù. Sơn tinh nhập tù cũng luận như vậy.

Thí dụ 1:
vận 8 tọa sửu hướng mùi
376---731---558
467---285---913
822---649---194
Vận 8 toạ sửu hướng mùi, thiên tinh bát bạch nhập trung cung, hướng thủ vận tinh ngũ hoàng, ngũ hoàng hướng nhập trung, như vậy trạch này vĩnh viễn không bị nhập tù.
Thí dụ 2:
Vận 1 sơn Thìn hướng tuất
893---457---675
784---912---239
348---566---121
Vào vận 2 thì hướng tinh nhập tù. Nếu ở cung đông nam (có hướng tinh 3 là sinh khí) có thủy thì có thể giải tù
Như vậy phàm tù mà không tù có 2 loại: thứ nhất gặp loan đầu mà không bị tù, thứ hai ngũ hoàng hướng tinh nhập trung thì không bị tù.
Huyền không phi tinh quyết: “Dương trạch nhà ngăn từng đoạn (từng đoạn chứ không phải phòng), nếu có tổng đoạn là 1, 3, 5, 7, 9 dương số nhập tù khi vào vận 1, 3, 5, 7, 9 tất đại bại. Các đoạn 2, 4, 6, 8 âm số nhập tù khi vào vận không đáng ngại, lực nhẹ hoặc tù mà không bị tù”, Ý nói nếu nhà ngăn phòng thành từng đoạn là số chẵn thì không đáng ngại.

vanhoai
11-04-12, 21:08
Huyền không mạng cung
1- Cung phi:
Luận về mạng cung, bát trạch phái dùng rộng nhất, ngoài cách dùng đông tây tứ mạng phối hợp với đông tây tứ trạch còn có hợp hôn nhất pháp(ý nói tiểu du niên), hợp hôn nhất pháp này không rõ xuất từ đâu nên thật không nên dùng. Huyền không tính mạng cung với bát trạch giống nhau.
Nam mạng:
thượng nguyên Giáp Tý niên khởi Nhất bạch, ất sửu niên khởi cửu tử, bính dần niên khởi bát bạch.......
trung nguyên giáp tý niên khởi tứ lục, ất sửu niên khởi tam bích, bính dần niên khởi nhị hắc.......
hạ nguyên giáp tý niên khởi thất xích, ất sửu niên khởi lục bạch, bính dần niên khởi ngũ hoàng….
Nữ mạng:
thượng nguyên giáp tý niên khởi ngũ hoàng, ất sửu niên khởi lục bạch, bính dần niên khởi thất xích.......
trung nguyên giáp tý niên khởi nhị hắc, ất sửu niên khởi tam bích, bính dần niên khởi tứ lục.......
hạ nguyên giáp tý niên khởi bát bạch, ất sửu niên khởi cửu tử, bính dần niên khởi nhất bạch…….
Cách tính cung phi theo dương lịch:
• Cộng tất cả các số chia cho 9 lấy số dư:
thí dụ: 1956; 1+9+5+6=21
21:9 còn dư 3
• lấy số dư cộng thêm 4, nếu lớn hơn 9 thì trừ 9 lấy số còn lại
3+4=7
• Đây là cung phi của nữ mạng, nữ mạng sinh năm 1956 cung phi là 7 kim
• Nam mạng thì dùng phép biến như sau:
- 1 biến 5 và ngược lại
- 2 biến 4 và ngược lại
- 3 không biến
- 6 biến 9 và ngược lại
- 7 biến 8 và ngược lại
- Nếu số tính ra là 5 thì nam mạng là 8; nữ mạng là 2
Thí dụ trên nam mạng là 7 biến 8. nam mạng sinh năm 1956 cung phi là 8 thổ
a- Huyền không mạng cung phối hợp dùng với cung vị, vd: như có một cung vị phạm hoả thiêu thiên môn(lục bạch và cửu tử 2 tinh tương khắc), huyền không ngũ hành cửu tử hoả tinh khắc huyền không ngũ hành lục bạch kim tinh, nếu ở cung này có sơn thủy suy, mệnh lục bạch cư ngụ thì phạm mạng cung bị thiêu khắc, cửu tử mạng cung cư ngụ thì tiết thoái, đinh tài thoái bại.
b- Sơn tinh nhập tù, nếu ở cung có sơn tinh ngũ hoàng có sơn thì khắc người có mệnh cung nhập tù. Vd: sơn tinh 3 nhập trung cung, nếu ở cung sơn tinh ngũ hoàng có sơn (trừ vận 5) thì người cung mệnh là tam bích mộc bị khắc
c- Hướng tinh nhập tù, nếu ở cung có hướng tinh ngũ hoàng có thủy thì khắc người có mệnh cung nhập tù. Vd: hướng tinh 3 nhập trung cung, nếu ở cung hướng tinh ngũ hoàng có thủy (trừ vận 5) thì người cung mệnh là tam bích mộc bị khắc

tulacong
13-04-12, 02:03
thưa anh văn hoài các bài viết của anh quá hay nhưng cắc do thời gian cũng đã lâu nên các hình ảnh minh họa của bài viết đã không còn hiện lên nữa...vậy phiền anh để tâm up lại dùm có được không...cảm ơn anh nhiều :0401:

vanhoai
13-04-12, 05:14
thưa anh văn hoài các bài viết của anh quá hay nhưng cắc do thời gian cũng đã lâu nên các hình ảnh minh họa của bài viết đã không còn hiện lên nữa...vậy phiền anh để tâm up lại dùm có được không...cảm ơn anh nhiều :0401:
Sẽ có gắng dành thời gian up lại

vanhoai
13-04-12, 20:38
2 - Con người và tọa hướng:

• Nhà tọa Nhâm, Tý, Quí: Ứng với con thứ 2 (vượng rất vượng mà suy thì rất suy)
• Mùi khôn thân ứng với mẹ hoặc con gái
• Thìn tuất ứng với con út
• Tọa nhâm hướng bính ứng với tuổi Thân Tý Thìn (tam hợp thủy)
• Quí hướng đinh ứng với tuổi Tị dậu sửu (kim cục)
• Tý hướng ngọ ứng với tuổi thân tí thìn (thủy cục)
• Sửu hướng Mùi ứng với tuổi hợi mão mùi (mộc cục)
• Mùi hướng sửu ứng tuổi thìn tuất sửu mùi
• Tọa dần cấn hướng khôn thân ứng với tuổi thìn tuất sửu mùi
• Giáp hướng canh ứng tuổi hợi mão mùi và giáp
• Bính hướng nhâm ứng tuổi dần ngọ tuất (hỏa cục)
• Sơn dần kỵ người tuổi hợi mão mùi (mộc cục)
• Tọa tí kiêm nhâm đại kị tuổi thân tí thìn (thủy cục)
• Tọa cấn kiêm sửu hợp người tuổi dần ngọ tuất (hỏa cục)

vanhoai
22-04-12, 06:13
3- Hình, xung:
Các tuổi ở nhà phạm vào hình xung cũng rất nguy hiểm có thể chết người
a- Hình:
• Thìn hình Thìn
• Ngọ hình Ngọ
• Tí hình mão
• Sửu – Mùi – Tuất tam hình
• Dần – Tị - Thân tam hình
b- Xung:
Tuổi và hướng nhà phạm trực xung như: Dần – Thân, Sửu – Mùi, ….thì đến năm Thái tuế đến hướng sẽ gặp tai họa
Xem thêm nghiệm chứng nhà Sửu hướng Mùi kiêm cấn Khôn.
http://huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=110

vanhoai
22-04-12, 14:25
Bát sát hoàng tuyền
Phong thủy lưu hành trong dân gian “bát sát hoàng tuyền” hay “phóng thuỷ pháp” có khẩu quyết:
“canh đinh khôn thượng thị hoàng tuyền
khôn hướng canh đinh bất khả ngôn
tốn hướng kị hành ất bính thượng
ất bính tu phòng tốn thủy tiên
giáp quý hướng trung ưu kiến cấn
cấn hướng tu tri giáp quý hiềm
kiền hướng tân nhâm hành bất đắc
tân nhâm thủy lộ phạm đương kiền”
“canh đinh khôn thượng thị hoàng tuyền” chỉ Giáp sơn Canh hướng và Quý sơn Đinh hướng thì cung Khôn là hoàng tuyền, phóng thuỷ tại Khôn cung tất phạm hoàng tuyền. Thuyết này là của Tam hợp an 12 cung trường sinh phương vị. Ở vào vượng vị thì tối kị phóng thuỷ, lấy Canh Đinh Khôn thượng thị hoàng tuyền làm lệ giải thích: Giáp sơn Canh hướng, Lâm quan vị ở cung Khôn, Lâm quan là vượng vị nên nếu phóng xuất thuỷ thì hung, phạm bát sát hoàng tuyền. Quý sơn Đinh hướng thì đế vượng ở cung Khôn, phóng thuỷ tức hung, phạm bát sát hoàng tuyền. Canh Đinh nếu Khôn thuỷ lai thì tốt, thuỷ khứ tất hung.
Án Huyền không chi thuyết, ít đề cập đến bát sát hoàng tuyền mà dùng thành môn thuyết luận, lấy câu Canh Đinh Khôn thượng thị hoàng tuyền làm lệ: Giáp sơn Canh hướng thì Khôn cung là thành môn, do là địa nguyên quái cục nên thành môn ở mùi; Quý sơn Đinh hướng thì Khôn cung là thành môn, do là nhân nguyên quái cục nên thành môn ở Thân. Nếu thành môn ở Khôn thì phạm sai thác nên gọi là hoàng tuyền.
Theo thuyết Huyền không, phóng thuỷ phải ở cát phương, không thể phóng thuỷ ở tại hung phương, cát phương phóng thuỷ phải đồng nguyên long với toạ hướng, không đồng nguyên long tức bất cát, tức hung phương hung thuỷ vậy. Như vậy án huyền không thuyết thì bát sát không phải chỉ một cung vị và cũng không cố định mà thay đổi theo vận.
Ngoài ra cung hướng có hướng tinh Ngũ hoàng cũng kỵ phóng thủy (trừ vận 5)

administrator
26-04-12, 19:18
Tôi đã chuyển các bài thảo luận vào topic Hành lang phong thủy Huyền Không. Mời các bạn qua đó để thảo luận nhé!.
Thân mến.
Admin HKLS

vanhoai
27-04-12, 05:55
Ải tinh bài long quyết
Đây là phần đặc sắc của Trung Châu phái đã được anh Nam Phong đăng trong Chủ đề Huyền Không Trung Châu, tôi chỉ trình bày sơ lại.
Trong Huyền không phi tinh khi lập hướng thường quan tâm đến các hướng châu bảo tuyến (vượng sơn vượng hướng) hoặc song tinh đáo hướng. Nay thêm phần bài long để có được sự tăng cát giảm hung cho âm dương trạch.
Ngô Sư Thanh (môn đồ của Trung Châu phái) dụng Thành môn quyết có dẫn kinh văn như sau:

“ngũ tinh nhất quyết phi chân thuật
thành môn nhất quyết tối vi lương
thức đắc ngũ tinh thành môn quyết
lập trạch an phần đại cát xương”

Thành môn, sơn long chính là huyết mạch, bình dương tức là thuỷ khẩu. Như triều thuỷ tòng Tị mà nhập (phương Tị thấy thủy), nhận thuỷ lập hướng thì lập Đinh hướng hoặc Ất hướng. Giang nam lai long giang bắc vọng vậy, sơn thượng lai long chính là Hợi. Cánh tứ vị lập Quý sơn hoặc cách tứ vị lập Tân sơn. Y thuỷ lập hướng đắc vận đại hưng, thất vận lập bại.
Đây chính là Thành môn bài long pháp dụng loan đầu lập định. Ải tinh bài long pháp thì lại dụng lí khí lập định. Định âm dương mà ải tinh, thuận ải hay nghịch ải, an lần lượt cửu tinh: phá quân, hữu bật, liêm trinh, phá quân, vũ khúc, tham lang, phá quân, tả phụ, văn khúc, phá quân, cự môn, lộc tồn.
Cát tinh: Hữu bật, tả phụ, vũ khúc, tham lang, cự môn
Hung tinh: Liêm trinh, phá quân, văn khúc, lộc tồn (nếu gặp đương vận thì cát, qua vận thành hung)
Lấy đối cung của cung có giới thủy hoặc tam xoa thủy là long


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/04/27/5/19/13354787434598392_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1401328961)
Như hình trên tý phương giới thuỷ(lộ), tức Ngọ cung lai khí, lai long. Ngọ long


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/04/27/5/19/1335478770731941370_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1401328971)
Như hình trên sửu phương khúc xích thuỷ, đối cung lai khí, lai long tức Mùi long.
Cung vị bài long:
Bài long 24 sơn dùng thành 12 cung vị, 2 sơn thành một cung như dưới đây:
Tý cung: Tý sơn, Quý sơn
Sửu cung: Sửu sơn, Cân sơn   
Dần cung: Dần sơn, Giáp sơn
Mão cung: Mão sơn, Ất sơn
Thìn cung: Thìn sơn, Tốn sơn
Tị cung: Tị sơn, Bính sơn
Ngọ cung: Ngọ sơn, Đinh sơn
Mùi cung: Mùi sơn, Khôn sơn
Thân cung: Thân sơn, Canh sơn
Dậu cung: Dậu sơn, Tân sơn
Tuất cung: Tuất sơn, Càn sơn
Hợi cung: Hợi sơn, Nhâm sơn
Ca quyết Bài long:
“bản long đối cung khởi phá quân
can dương chi âm phối đốn nghịch
tiên phối phá hữu liêm phá vũ
chức nhi tham phá tả văn phá
hậu phối cự lộc lưỡng tinh sỉ
tập tề an tinh thập nhị khỏa”

Câu một viết: “bản long đối cung khởi phá quân” chính là nói tại long đối cung khởi phá quân tại đó, như Tý long thì khởi phá quân tại Ngọ.
Câu hai viết: “can dương chi âm phối đốn nghịch”, Tiên thiên bài long thập nhị địa chi là âm. Bát can tứ duy là dương, như kiền khôn cấn tốn quy về can long thuộc dương nên nghịch bài. Chi long như tí sửu dần mão … thuộc âm nên thuận bài.
Câu ba đến câu sáu nói về thứ tự an tinh: phá hữu liêm phá vũ tham phá tả văn phá cự lộc.
Thí dụ:
Mão long: An phá quân tại dậu thuận bài

http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/04/27/5/19/13354787911452936590_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1401328978)

Thìn long: An phá quân tại Tuất thuận bài

http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/04/27/5/20/13354788082080258093_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1401328988)

vanhoai
27-04-12, 17:46
Nạp giáp

Nạp giáp tại huyền không phi tinh ít sử dụng đến, tuy nhiên lại là tri thức cơ bản của Tam hợp phái, phần này luận qua về nạp giáp theo Tam hợp phái.
Nạp giáp là nói bát quái nạp thiên can, theo bát quái mà luận thì: Càn nạp Nhâm Giáp, Khôn nạp Quý Ất, Chấn nạp Canh, Tốn nạp Tân, Khảm nạp Mậu, Li nạp Kỷ, Cấn nạp Bính, Đoài nạp Đinh, dương can nạp dương quái, âm can nạp âm quái. Đây là nạp giáp tiên thiên. Tại hậu thiên quái phối hợp mà dùng, âm dương cũng từ tiên thiên quái mà đến, lí là lấy tiên thiên mà luận, tứ chính thuộc dương, tứ ngung thuộc âm. Tứ chính quái là Càn Khôn Khảm Li, tứ ngung quái là Chấn Tốn Cấn Đoài. Như vậy tức Càn Khôn Khảm Li nạp giáp toàn bộ thuộc dương, Chấn Tốn Cấn Đoài toàn bộ nạp giáp thuộc âm. Từ nạp giáp phối xuất 24 sơn âm dương, dương sơn là Càn Nhâm Giáp Khôn Quý Ất Thân Tý Thìn Dần Ngọ Tuất. Âm sơn là Hợi Mão Mùi Canh Tị Dậu Sửu Đinh Cấn Bính Tốn Tân.
Nạp giáp xuất từ thiên văn, phong thuỷ lấy đó mà dùng, phối hợp cho long -hướng.
Thí dụ như lai long từ sơn Thân, tức có thể lập Đinh sơn Quý hướng, vì Thân long chính là dương long, Đinh sơn Quý hướng mà luận thì Quý là dương, dương long khả dĩ lập dương hướng, âm long khả dĩ lập âm hướng, dương long không thể lập âm hướng và âm long không thể lập dương hướng.

http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/04/27/17/15/1335521712302822175_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1401700559)

Nhâm cung lai long, nhâm cung dương cung, lập hướng khả lập Tý sơn Ngọ hướng vì ngọ cung thuộc dương, dương long phối dương hướng tịnh âm tịnh dương nên là cát hướng.

vanhoai
27-04-12, 18:43
Hướng thủ nhất tinh tai phúc bính, khứ lai nhị khẩu tử sinh môn
(một tinh tại hướng quản hoạ phúc, hai lộ đến đi là cửa tử sinh)
Tưởng Đại Hồng viết: “hướng thủ nhất tinh tại phúc bính, khứ lai nhị khẩu tử sinh môn” Câu này là nói về dương trạch phong thuỷ, lấy hướng thủ nhất tinh và khứ lai nhị khẩu mà phán đoán cát hung hoạ phúc của trạch, phàm hướng thủ đắc lệnh tinh (vượng hướng), hướng thủ chính là thuỷ lí long thần, nếu đắc thuỷ thì đại phát tài lộc. Khứ lai nhị khẩu chính là nói môn khẩu, với trạch là cửa chính, với phòng là cửa phòng, xuất nhập chính là khứ lai. Môn khẩu đắc vượng tinh cộng với hướng thủ đắc vượng tinh thì cát càng thêm cát; nếu môn khẩu suy tinh, hướng thủ đắc vượng tinh thì tiền cát hậu thoái bại; nếu môn khẩu suy tinh, hướng thủ suy tinh thì đại bại tài lộc.
Ở đây chính ý là nói về: Hướng thì cần có hướng tinh là sinh vượng, Cửa chính cần an vào cung có sinh vượng khí tức áp dụng “bí quyết thành môn” để tìm cung có vượng khí. Nếu hướng nhà và cửa chính đã được lệnh tinh phi đáo (vượng tinh đến) lại phù hợp loan đầu thì họa phúc đã rõ rồi, đây cũng chính là ý của câu “nhất chính đương quyền, bách tà phải phục”
Luận dương trạch phong thuỷ có lục sự, lục sự gồm ngoại lục sự và nội lục sự:
• ngoại lục sự là: đạo lộ(đường sá), đình đài(đền đài), trì dung(ao hồ), kiều lương(cầu), miếu vũ(chùa miếu), phật tháp(tháp).
• nội lục sự là: môn(cửa), táo(bếp), tỉnh(giếng), xí(nhà vệ sinh), đối ma(nhà kho), súc lan(chuồng gia súc).
Nội, ngoại lục sự quan hệ mật thiết với hoạ phúc của nhân khẩu trong trạch. Theo huyền không mà nói thì xem sự phân bố nội ngoại lục sự phối hợp với sơn thuỷ nhị tinh có thể thấu được cát hung hoạ phúc rồi.
Tỷ dụ như đạo lộ tất cần nơi thuỷ lí long thần lệnh tinh phi đáo (hướng tinh vượng phi đáo), đình tháp tất cần an nơi sơn thượng long thần lệnh tinh phi đáo(sơn tinh vượng phi đáo). Nội ngoại lục sự nguyên lí tương đồng, tổng quát:
nhất nội nhất ngoại, (một trong một ngoài)
tức tức tương quan, (tương quan mật thiết)
bố cục đắc nghi, (bố cục được tốt)
đinh tài lưỡng vượng, (đinh tài cùng vượng)
tương đắc ích chương. (tương đắc toại lòng)
lưỡng giả tương phản (nếu mà phản lại)
đinh tài lưỡng bại. (đinh tài cùng bại)
Cho nên với dương trạch khi bố trí trong nhà rồi cũng rất cần thiết phải xem loan đầu bên ngoài có phù hợp hình khí hay không

vanhoai
07-05-12, 15:58
Hoán bộ di cung-nhất vật nhất thái cực

Xem dương trạch, trước tiên phải định được trung cung, sau đó phân chia 8 phương, nếu không định được trung cung thì 8 phương không thể định được, cổ tiên hiền viết: “trung cung nhất lập, bát phương tuỳ chi nhi phán. Bát phương kí do sở tại địa nhi phân, cố sở tại địa tức vi hoạt động chi trung cung. Kí dĩ các nhân chi sở tại địa vi trung cung, các nhân chi bát phương, diệc nhân chi nhi sai dị.”, lại viết: “giai nhân các nhân chi sở tại địa bất đồng, nhi sở đắc chi cảnh giới diệc các dị, các nhân sở tại địa kí bất đồng, tắc do sở tại địa phân xuất bát phương”. Nội dung nói cách lấy trung cung có khác nhau giữa các nhà, có trung cung của trạch, trung cung của phòng, lấy một vị trí thường sử dụng làm trung cung, do đó mới có thuyết đại thái cực, tiểu thái cực, nhân thái cực.

Đại thái cực đã bàn luận nhiều, nay bàn về tiểu thái cực. Khi phân phòng (phòng ngủ, phòng làm việc,..) thì lấy tinh bàn của đại thái cực đem vào tâm phòng để tìm nơi cung có hướng tinh là sinh vượng khí để mở cửa phòng. Nhưng vì một lý do nào đó không thể mở cửa phòng theo ý muốn thì còn một giải pháp đó là dùng nhân thái cực. Trong các thuyết xét thấy nhân thái cực cũng là hợp đạo lí, sở dĩ “cá nhân sở tại địa”, chỉ vị trí cá nhân thường sử dụng. Tỉ dụ như trong phòng làm việc, bàn làm việc đặt tại phía bên phải của phòng, tức trung cung lập cực điểm ngay giữa bàn làm việc, tức bên phải. Bàn làm việc bên trái của phòng, tức trung cung lập cực điểm ngay giữa bàn làm việc, tức bên trái.
Như vậy nếu phân cung định tinh bàn phòng, nếu cửa chính rơi vào suy tý, muốn thu nhận vượng khí nhập phòng thì chuyển vị trí bàn làm việc để định lại trung cung lập cực điểm từ đó tính lại tinh bàn sao cho thu vượng khí, Phép này gọi là di cung hoán bộ. Tùy thời tùy nơi mà định trung điểm lập cực, có thể không phải bàn làm việc mà là giường ngũ, bàn tiếp khách… Nếu được cả tiểu thái cực và nhân thái cực cùng tốt thì “cát càng thêm cát”
Cái lí “nhất vật nhất thái cực” phải nắm cho rõ kẻo sai nhầm, một phòng là “nhất vật” nên có “nhất thái cực”, một nhà là “nhất vật” nên có “nhất thái cực” nhưng một phòng lớn ngăn ra tạm thời nhiều phòng nhỏ, có lối đi thông nhau và không ngăn hết trần phòng lớn thì các phòng nhỏ không phải là “nhất vật” và do đó không có “nhất thái cực”.


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/07/15/19/13363787481399818380_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1409435649)
Phòng tọa Tý hướng Ngọ, lấy bàn làm việc lập cực, cửa phòng ở tại Tốn.


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/07/15/19/1336378783664196017_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1409436178)
Phòng tọa Tý hướng Ngọ, lấy bàn làm việc lập cực, cửa phòng ở tại Ly.


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/07/15/24/13363790441309575681_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1409439844)
Phòng tọa Tý hướng Ngọ, lấy bàn làm việc lập cực, cửa phòng ở tại Ất.

vanhoai
07-05-12, 16:39
Văn xương và văn bút

Nhất tứ đồng cung chủ về văn chương khoa bảng. Nhưng nếu là thất tứ đồng cung lại chủ về gian dâm
Văn xương với Văn bút theo huyền không mà nói: Văn xương là thuộc tinh thần, Văn xương chính là Tứ lục tinh. Theo loan đầu mà nói, sa sơn hình mộc tinh chính là Văn bút tức hình khí tương hợp thì phát về văn chương. “Văn xương dữ văn bút ư huyền không nhi ngôn ,tinh thìn chi trung ,hữu văn xương chi vị”, nếu như là hỏa tinh đôi khi cũng thành Văn bút. Nếu là Mộc tinh thì sơn hình cao nhưng đỉnh cần tròn, nếu là hỏa tinh thì sơn hình thẳng, đỉnh cần nhọn. Phàm huyền không phi tinh Tứ lục nếu gặp Văn bút sơn chủ người thông minh, phát văn khoa, xem đồ hình bên dưới:


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/07/16/08/1336381713459786459_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1409475728)
Mộc tinh cao mà tròn nên gọi là Văn bút. Tứ lục đáo phương, chủ người thông minh.


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/07/16/09/1336381740327216352_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1409476097)
Hỏa tinh thẳng mà nhọn, cũng chính là Văn bút, Văn xương(tứ lục) đáo phương chủ xuất người thông minh.
Chúng ta cần lưu ý ở vận này (vận 8) thì tứ lục là tử khí cho nên hình văn bút cần nhỏ, xa chứ không thể to lớn áp sát sẽ thành sát khí.
Sơn – hướng 1-4 có sơn nhỏ và xa, sơn – hướng 4-1 có thủy tĩnh cũng chủ khoa danh. Nếu sơn tinh 4 có núi lớn áp sát hoặc hướng 4 có thủy thì chủ về người dâm đãng, nghiện rượu, gia đạo bất hòa.

vanhoai
10-05-12, 18:13
Huyền không phản phục ngâm quái

Khi sơn tinh hay hướng trùng với địa bàn thì gọi là bị phục ngâm, khi xung với địa bàn (cộng thành 10) là bị phản ngâm
• Sơn tinh phản, phục ngâm: con người trong nhà bệnh hoạn, tang tóc, nhà thưa vắng người
• Hướng tinh phản, phục ngâm: gặp nhiều phiền phức nơi thương trường, nhà tan cửa nát.
Trong Đô Thiên Bảo Chiếu kinh có viết: Vùng sơn long khí Phản, Phục ngâm đến sơn hướng (trước hoặc sau nhà) thì gặp tai họa, rắc rối triền miên có thể dẫn đến tự vẫn, bôn ba xứ người hoặc ra pháp trường.
Cục diện của phản, phục ngâm thích hợp với vùng bình dương. Cung hướng tinh bị phản phục ngâm cần địa hình bằng phẳng, trống thoáng, có thủy để hóa giải. Cung hướng sơn tinh bị phản phục ngâm cần cây cao nhà cao để hóa giải
Thí dụ chiêm nghiệm:
- Sơn hướng 2-1 tại cung khảm; 2 là khôn là âm u kỳ bí, 1 là khảm là lún xâu lấp kín, nếu ánh sáng không được tốt sẽ có hiện tượng ma quái hình người nữ (ma nữ)
- Sơn tinh 6 nhập cung càn, sơn tinh 8 nhập cung Cấn : nếu không hóa giải thì nhà ít con trai hoặc vô sinh

vanhoai
10-05-12, 18:31
Luận tuyến độ phản ngâm phục ngâm

Luận phản ngâm phục ngâm, trừ phần trước luận về tinh bàn phạm phản ngâm phục ngâm ra, còn một loại phản ngâm phục ngâm, đó là tuyến độ cách cục phạm phản ngâm phục ngâm, so với phần trước nói về phản ngâm phục ngâm khác biệt nhau, vì phần trước nói phản ngâm phục ngâm là cửu tinh, cửu cung phản phục ngâm, chương này nói về “dịch kinh” 64 quái phản ngâm phục ngâm. Tuyến độ phản ngâm phục ngâm thuộc về phân kim, nghiên cứu về phản phục ngâm phân kim thì trước hết phải xem la bàn 64 dịch quái, có nơi gọi là huyền không bàn, cũng có nơi gọi là dịch bàn.
Lập 1 tọa hướng, sau đó bài tinh bàn, xem hướng tinh và sơn tinh ứng với quái nào, hậu thiên bát quái càn đoài li chấn tốn khảm cấn khôn, tên gọi là thiên trạch hỏa lôi phong thủy sơn địa. Lấy hướng tinh quái làm thượng quái(thiên quái), lấy sơn tinh quái làm hạ quái(địa quái), hợp hai quái thành một chu dịch quái.
Như tại hướng bài tinh bàn, hướng tinh là nhị hắc, sơn tinh là lục bạch, nhị tức khôn tức địa, an tại thượng quái, lục tức càn tức thiên, an tại hạ quái, hợp thành địa thiên thái quái. Tọa sơn và 6 cung còn lại cũng theo đó mà bài xuất.

Nếu cung nào sơn tinh hoặc hướng tinh là ngũ hoàng thì ngũ hoàng lấy quái đương vận, như hiện nay vận 8 thì ngũ hoàng lấy quái Cấn.
La bàn Tam nguyên có một tầng an lục thập tứ quái chính là phép này, tuy nhiên theo phép này thì Tam nguyên cửu vận, tùy vận, tùy sơn hướng mà quái bài xuất khác nhau, nhưng La bàn lại cố định 64 quái, đó là do La bàn ghi tổng quái 64 quái để đối chiếu cùng quái bài xuất từ hướng tinh và sơn tinh, phần bên dưới sẽ nói rõ phép này. Dưới đây là 64 tổng quái trên la bàn:


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/02/17/16/53/13294724131655482376_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1351287129)

Khi lập âm dương nhị trạch phạm tuyến phản phục ngâm tai họa ập đến tức thì

vanhoai
12-05-12, 07:21
Phục ngâm quái:
Phục ngâm quái, tức là điên đảo hào của quái, sơ hào đảo làm thượng hào, nhị hào đảo làm ngũ hào, tam hào đảo làm tứ hào, tứ hào đảo làm tam hào, ngũ hào đảo làm nhị hào, thượng hào đảo làm sơ hào. Thí dụ như hướng tinh 2, sơn tinh 6 hợp thành Địa Thiên Thái quái, sơ hào dương đảo làm thượng hào, nhị hào dương đảo làm ngũ hào, tam hào dương đảo làm tứ hào, tứ hào âm đảo làm tam hào, ngũ hào âm đảo làm nhị hào, thượng hào âm đảo làm sơ hào. Địa Thiên Thái quái lật quái thành Thiên Địa Bĩ quái, Bĩ quái chính là phục ngâm quái.

Phản ngâm quái:
Phản ngâm quái tức là biến hào âm dương của quái, dương hào biến âm, âm hào biến dương. Thí dụ như hướng tinh 2, sơn tinh 7 thành Địa Trạch Lâm quái, âm hào biến dương, dương hào biến âm thành Thiên Sơn Độn quái. Đây chính là phản ngâm quái.

Thí dụ: vận 4 càn sơn tốn hướng

434---988---216
325---543---761
879---197---652

Càn phương tọa sơn, hướng tinh 2 phối sơn tinh 6 thành Địa Thiên Thái quái, Càn sơn trong 24 sơn trên dịch bàn 64 quái bên trên là cung vị của quái cấn, khiêm, bĩ, tuỵ. Điên đảo hào thì phục ngâm quái là Thiên Địa Bĩ, phản ngâm quái cũng là Thiên Địa Bĩ. Như đồ hình bên dưới(trên là quái gốc, bên trái là quái phản ngâm, bên phải là quái phục ngâm)

http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/12/6/48/1336780085567142471_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1413064470)

Như vậy nếu vận 4 lập toạ sơn ở vào Bĩ quái( 315 đến 319độ) sẽ phạm phản phục ngâm, đại hung. Như hình bên dưới:

http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/12/6/48/1336780111362242994_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1413064556)

vanhoai
18-05-12, 20:39
Nhị thập tứ sơn phân thuận nghịch, cộng thành 48 cục

Kinh viết: “Nhị thập tứ sơn phân thuận nghịch, cộng thành tứ thập hữu bát cục, ngũ hành tức tại thử trung phân, tổ tông khước tòng âm dương xuất”
24 sơn âm dương, mỗi bàn bài nhất sơn, nhất thuỷ bàn cộng thành 48 cục. “tổ tông khước tòng âm dương xuất” là chỉ ải tinh nhập trung cung, thuận phi hay nghịch phi tuỳ vào âm dương 24 sơn mà định. 48 cục là nói chính tuyến, kiêm tuyến thế tinh các thứ không nằm trong số này.
“Nhị thập tứ sơn phân thuận nghịch, cộng thành tứ thập hữu bát cục, ngũ hành tức tại thử trung phân, tổ tông khước tòng âm dương xuất”
Tứ thập bát cục, chính là nói ai tinh châu bảo tuyền, luận huyền không phi tinh tam nguyên cửu vận, mỗi vận 20 năm, cộng tam nguyên là 180 năm. Mỗi Tam nguyên 180 năm có 48 tuyến châu bảo, tức vượng sơn vượng hướng tuyến:
vận 2 và vận 8:
kiền sơn tốn hướng
tốn sơn kiền hướng
tị sơn hợi hướng
hợi sơn tị hướng
sửu sơn mùi hướng
mùi sơn sửu hướng
vận 3 và vận 7:
thìn sơn tuất hướng
tuất sơn thìn hướng
mão sơn dậu hướng
dậu sơn mão hướng
ất sơn tân hướng
tân sơn ất hướng
vận 4 và vận 6
giáp sơn canh hướng
canh sơn giáp hướng
cấn sơn khôn hướng
khôn sơn cấn hướng
dần sơn thân hướng
thân sơn dần hướng
vận 5:
tý sơn ngọ hướng
ngọ sơn tý hướng
quý sơn đinh hướng
đinh sơn quý hướng
mão sơn dậu hướng
dậu sơn mão hướng
ất sơn tân hướng
tân sơn ất hướng
thìn sơn tuất hướng
tuất sơn thìn hướng
sửu sơn mùi hướng
mùi sơn sửu hướng

vanhoai
18-05-12, 21:31
Cửu tinh & 24 cung hỗ sinh:

Tại tinh bàn huyền không, trừ ra thuỷ lí long thần(hướng bàn), sơn thượng long thần(sơn bàn), vận bàn(thiên bàn) ra còn địa bàn.
Địa bàn với Hướng bàn phối hợp là bí mật của Huyền không phong thuỷ (đúng ra đây là phần đặc sắc của Vô Thường phái), phương pháp bí mật này lấy ngũ hành tương sinh để luận.
Tinh tuỷ của bí quyết này là lấy cung vị với cửu tinh phối hợp luận ngũ hành tương sinh. Cung vị có đại cung vị và tiểu cung vị. Đại cung vị chính là cửu cung: Chấn Tốn Li Khôn Đoài Càn Khảm Cấn Trung. Tiểu cung có 26 cung vị gồm 24 sơn và mậu, kỉ tại trung cung. Tuy nhiên trung cung không thể định toạ hướng nên 26 tiểu cung vị thực chỉ dùng 24 cung vị là 24 sơn mà định luận ngũ hành tương sinh.

“Hướng thủ nhất tinh tại phúc bính”
Chính là nói hướng thủ nhất tinh phối hợp 24 cung mà luận. Lấy hướng tinh tại hướng so địa bàn 24 sơn nhận ngũ hành, sau đó xem ngũ hành tại hướng phối hợp mà luận, phàm cung sinh tinh thì cát càng thêm cát mà hung càng thêm hung, tinh sinh cung thì cát giảm cát, hung giảm hung (xem thí dụ)
Lại nữa khi luận về sơn tinh tức tinh đại diện cho người trong gia đình như càn đại diện người cha, khôn đại diện mẹ, chấn đại diện trai trưởng,…. Lấy sơn tinh tại địa bàn, nếu được địa bàn sinh thì cát lợi còn nếu địa bàn khắc thì bất lợi cho người đó, ngoài ra còn phải xét thêm có được hướng tinh, vận tinh để bổ cứu thêm khi luận về người trong gia đình cho dù người đó không ở nhưng vẫn lấy căn nhà hoặc mộ phần người cha mà luận.

Nhị thập tứ cung vị ngũ hành như sau:
giáp mộc, mão mộc, ất mộc, thìn thổ, tốn mộc, tị hỏa, bính hỏa, ngọ hỏa, đinh hỏa, mùi thổ, khôn thổ, thân kim, canh kim, dậu kim, tân kim, tuất thổ, kiền kim, hợi thủy, nhâm thủy, tý thủy, quý thủy, sửu thổ, cấn thổ, dần mộc.

Thí dụ 1: vận 8 trạch toạ tý hướng ngọ, hướng thủ là thiên nguyên long quái, hướng tinh bát bạch vượng khí, bát bạch hướng tinh thiên nguyên quái là Cấn, ngũ hành là thổ. Ngọ cung hướng ngũ hành là hoả, Ngọ hoả sinh Cấn thổ, thuộc về cung sinh tinh nên cát càng thêm cát.
Thí dụ 2: vận 8 toạ quý hướng đinh, hướng thủ nhân nguyên long quái, hướng tinh bát bạch vượng khí đến hướng, bát bạch nhân nguyên long tại địa bàn là Dần, ngũ hành là Mộc. Đinh hướng ngũ hành là Hoả, Dần Mộc sinh Đinh Hoả là tinh sinh cung, giảm cát.
Thí dụ 3: Vận 8 toạ Dậu hướng Mão, hướng thủ thiên nguyên long quái, hướng tinh Tứ lục tử khí đến hướng, Tứ lục thiên nguyên long tại địa bàn là tốn, ngũ hành là Mộc. Mão hướng ngũ hành là mộc, Tốn Mộc tị hòa Mão mộc là tinh tị hòa cung, giảm hung.
Thí dụ 4: Vận 8 toạ Tân hướng Ất, hướng thủ nhân nguyên long quái, hướng tinh Tứ lục tử khí đến hướng, Tứ lục nhân nguyên long tại địa bàn là Tị, ngũ hành là Hỏa. Ất hướng ngũ hành là Mộc, Ất Mộc sinh Tị Hoả là cung sinh tinh, hung càng hung.

vanhoai
20-05-12, 18:12
Huyền Không và các cặp Tiên thiên


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/20/17/38/13375102981318368076_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1421170371)
Trong Hà Đồ, phía bắc có 1 khoáy trắng và 6 khoáy đen, phía nam có 2 khoáy đen và 7 khoáy trắng. Phía tả có 3 khoáy trắng và 8 khoáy đen, phía hữu có 4 khoáy đen và 9 khoáy trắng, ở giữa có 5 khoáy trắng và 10 khoáy đen.
Như vậy :
1 hợp 6 2 hợp 7 3 hợp 8 4 hợp 9 5 hợp 10.
Mặt khác các số vòng trong 1, 2, 3, 4, 5 là các số sinh; 6, 7, 8, 9, 10 là các số thành. Các khoáy đen là số chẵn thuộc âm, các khoáy trắng là số lẻ thuộc dương.
Các số thành chính là các số sinh cộng với số 5 ở giữa.
Trong Hà Đồ có 10 số, từ số 1-> 10, tổng các số của Hà Đồ 1 + 2 + 3+4…+ 10 = 55.
Năm số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9 là số trời biểu hiện bằng khoáy trắng.
Năm số chẵn: 2, 4, 6, 8, 10 là số đất biểu hiện bằng khoáy đen
Tổng 5 số trời = 25 Tổng 5 số đất = 30
Tổng số trời + số đất = 55 tương ứng với 55 khoáy trên Hà Đồ.
Khi học về ngũ hành mà chưa học qua Hà Đồ, người đọc chỉ chấp nhận sự xếp đặt một cách máy móc mà không giải thích được tại sao lại quy nạp các sự vật và hiện tượng vào ngũ hành như vậy.
Sự nghiên cứu về Hà Đồ, Lạc Thư sẽ giải thích rõ ràng và đi vào bản chất của sự vật.

Theo Chu Hy “thiên nhất sinh thuỷ, địa lục thành chi. Địa nhị sinh hoả, thiên thất thành chi. Thiên tam sinh mộc, địa bát thành chi. Địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi. Thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi”, nghĩa là: trời lấy số 1 mà sinh hành thủy, đất lấy số 6 mà làm cho thành. Đất lấy số 2 mà sinh hành hỏa, trời lấy số 7 mà làm cho thành. Trời lấy số 3 mà sinh hành mộc, đất lấy số 8 mà làm cho thành. Đất lấy số 4 mà sinh hành kim, trời lấy số 9 mà làm cho thành. Trời lấy số 5 mà sinh hành thổ, đất lấy số 10 mà làm cho thành.
Như vậy trời sinh thì đất thành, đất sinh thì trời thành. Đó là lẽ sinh thành của tạo hoá. Đầu tiên khi trời đất định ngôi, càn khôn xác lập thì hành đầu tiên sinh ra phải là nước. Cho nên trời lấy số 1 mà sinh hành thuỷ, đất lấy số 6 mà làm cho thành. Điều này còn có ý nghĩa nữa là thuỷ chính là gốc của con người và vũ trụ, cũng là thiên thuỷ hay là thiên quý của đời người. Thuỷ do số 1 sinh ra, số 1 là số trời, mà nhâm quý lại ứng tại hành thuỷ. Vậy nói tới thiên quý là người ta nói tới nước của trời cho, là gốc của vũ trụ và con người. Trong ngũ hành và Hà Đồ thì thuỷ ở phương bắc.
Lần lượt các hành thuỷ, hoả, mộc ra đời, lần thứ tư đất lấy số 4 mà sinh hành kim, trời lấy số 9 mà làm cho thành, bởi vì trong lòng đất đã chứa chất và mang sẵn kim loại rồi. Sau khi bốn hành ra đời, tự nhiên hành thổ xuất hiện, thực ra hành thổ đã xuất hiện đầu tiên trong cái cụm từ “ trời lấy số 1 mà sinh hành thuỷ, đất lấy số 6 mà làm cho thành” nhưng vì trời là vô hình nên trời không cụ thể, còn sau khi sinh thành 4 hành kia thì đất mới hiện ra đúng như câu nói “ sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông ”
Như vậy các cặp số tiên thiên là:
Nhất lục cộng tông (1-6 cùng họ)
Nhị thất đồng đạo (2-7 cùng một đường, một lớp)
Tam bát vi bằng (3-8 ng[I]ang nhau)
Tứ cửu vi hữu (4-9 bạn bè)
Ngũ thập đồng đồ (5-10 cùng loại)
Ngoài ra số 5, số 10 và 15 (5+10) là số của thổ là nguồn gốc sinh vạn vật
Trong Huyền không phong thủy thì các cặp số tiên thiên và các hợp số ngũ, thập và thập ngũ là những hợp số quan trọng đặc biệt. Khi chúng hợp với nhau thì sẽ mất đi tính chất nguyên thủy của chúng mà mang tính chất của hợp số.
Thí dụ: Hướng tinh Lục bạch (kim) đáo phương khảm, phương khảm địa vận là nhất bạch sẽ hợp với lục bạch thành thủy tiên thiên chủ tài lộc, nếu tại đây có thủy thì sẽ vượng tài.

vanhoai
21-05-12, 21:12
Sau đây sẽ là phần luận giải 48 cục hạ quái và 48 cục khởi tinh (thế quái) cho vận 7 và vận 8 (các vận khác sẽ luận bàn khi có điều kiện) trong phần này tôi sẽ đăng phần chú giải của
1- Thẩm trúc Nhưng (Thẩm Thị) trong cuốn "Thẩm Thị Huyền Không"
2- Chung Nghĩa Minh trong cuốn "Huyền Không Chú Giải Khảo Nghiệm"
3- Thái Nhất Lương trong cuốn " Huyền Không Địa Lý Chân Nguyên Phát tài Bí Chỉ"
Ngoài ra với những cục đặc biệt tôi sẽ có ý kiến riêng.

vanhoai
22-05-12, 05:49
1. NHÂM SƠN BÍNH HƯỚNG HẠ QUẺ


http://d.f8.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/22/5/06/13376380181286328479_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1422601990)
Nhâm sơn Bính hướng 342’đến 348’ quẻ Tỉ

Thẩm Thị chú : Song tinh đáo hướng. Phương Bính có thủy, thì đương nguyên tiến tài. Hai phương Thìn, Mùi có thể dùng “Thành môn quyết”. Phương Cấn phạm “ Phục ngâm”, không kị nước. Phương Sửu có nước, là sinh khí, qua vận này tiếp tục phát.
Chung Nghĩa Minh chú giải : Hai phương tuy là đương nguyên vượng thủy, nhưng vận tinh và sơn hướng tinh (7-2-7) là tiên thiên số hỏa, nước có thể thấy, nhưng không thể là nước chảy cuồn cuộn, mênh mông. Nếu không như thế thì khó tránh khỏi tai họa. Nếu phía trước sau thủy không có sơn chặn lại, thì nhân đinh không vượng, không xuất quý nhân. Phương Thìn là phương Diệu Sát với phương Thiên Kiếp, không thích hợp với nước đến. Phương Sửu là hướng tinh là sinh khí lại phục ngâm, thích hợp với nhiều vùng nước tích tụ.
Dương trạch chính giữa của bố cục này không nên xây dựng nhà vệ sinh hoặc cầu thang, vì hướng tinh là sao Nhị Hắc nhập trung cung là bệnh tật. Nếu muốn xây trạch này, thì phải tránh bố trí cầu thang ở giữa nhà, dưới cầu thang lại còn bố trí nhà vệ sinh, đây là sự sắp đặt không tốt.
Thường mọi người với dương trạch này nếu muốn mở cửa lớn, thì đều có quan niệm là cửa lớn mở tại bên long ( bên trái), nhà vệ sinh đặt tại bên hổ ( bên phải) gọi là “ Rồng sợ hôi thối, hổ sợ ồn ào”. Nếu lấy quẻ này mà nói thì, phía bên long là phương Thìn, Tốn, Tị, nếu mở cửa tại 3 phương này, chủ là phụ nữ thì mắc bệnh thần kinh, điên loạn. Phía hổ là quẻ Khôn, Đoài, Càn , nếu nhà vệ sinh xây ở phương quẻ Khôn, chủ bệnh tật không khỏi, thậm chí có thể ung thư, trúng độc. Xây ở phương quẻ Đoài, thì chủ về con cháu ngu đần, không biết đọc sách, phụ nữ thì không có kinh, không có khả năng mang thai, các bệnh về mắt. Nếu xây ở phương quẻ Càn, 1-4 vẫn là văn thịnh, có nhà vệ sinh ô uế, công danh vô vọng. Nói nguyên nhân là do long, hổ là không thể cố chấp. Bố cục này hợp nhất là mở cửa lớn ở giữa, hoặc mở ở phương Sửu. Phương Sửu có hướng tinh Bát Bạch sinh khí. Các cặp 6-8, 7-8, 6-7, đều tương sinh, tổ hợp. Nếu có thông đạo đạt đến hướng trên, thì bát phối hợp với thất là sự phối hợp của thiếu dương và thiếu âm. “ Huyền không bí quyết” viết “ Thư hùng phối hợp thế xuất hiền lương”, “ Vị nhân đầu ngưu, tích thiên tương chi ngọc bạch”. Phát phúc nhanh nhất.
Song thất đáo hướng, Đoài là kim, thích hợp với những ngọn núi rất đẹp đẽ hình tròn hoặc hình vuông, hồ nước tương ứng, là nhân tài, tài năng, xuất phú quý. Nếu có núi cao hiểm trở hay núi đá lởm chởm, thì chủ xuất vỡ mặt, sứt môi, là kẻ tàn bạo không kỉ cương luật pháp. Phàm trong Thất vận, cặp sao song thất cũng phải phối hợp suy luận phán đoán hình thế thực tế. Để hiểu rõ những ứng nghiệm của cát hung, thì phải đọc thuộc ý tượng của quẻ Đoài. Bố cục này của 24 sơn đều như thế này cả.
Nghiệm chứng:
Mai táng ông Tạ Công Tích vào lúc 5 giờ chiều ngày mùng 5 tháng 8 năm 1984 âm lịch ( mệnh Tân Hợi ), là mộ rùa ở nghĩa địa công cộng Bổ Bình Đỉnh thị trấn Trúc Sơn, Nhâm sơn, Đinh Hợi phân kim, quẻ Tỉ thượng hào. Con trai lớn Tạ Chí Trường ( sinh năm Canh Dần, mệnh Ngũ hoàng) nguyên nhận chức tại phòng kiểm tra kiểm soát, đầu tháng 10 thì được nhận chức quan kiểm soát, không lâu sau thì lại thăng chức chủ nhiệm phòng kiểm soát, đến nay đã nhận đến chức quan tòa.
Nhà tại phía bắc Hồ Nam và tại phía nam Hồ Bắc, trước sau thì đều có thủy, nếu trước sau không có thủy, không chỉ có hại đối với sức khỏe cơ thể, mà còn không lâu sau thì trong gia đình có thể xuất hiện những chuyện kì lạ không rõ nguyên nhân. Đó là nguyên tắc của thủy vì vậy trong mỗi vận đều phải chú ý.
Sơn | Chủ ứng của cát hung
Khảm| Xuất quý nhân, phú quý, con đường công danh rộng mở
Khôn |Gia đình thịnh vượng, thích hợp với những ngọn núi đẹp và xa
Chấn |Một bốn đồng cung, ghi danh bảng vàng thích hợp với những ngọn núi đẹp
Tốn |Phụ nữ đơn độc nắm quyền gia đình, mẹ con không hợp nhau
Càn |Nếu phương Tuất có núi đẹp thì xuất là người văn phong nho nhã
Đoài |Thiếu con trai, nếu hình dạng núi mà khô cằn, xấu thì xuất là người ngu ngốc
Cấn |Nếu phương Sửu có núi đẹp thì con trai trưởng xuất quý tử
Ly |Nếu phương Bính có núi đạo thì xuất quý tử
Thủy |Chủ ứng của cát hung
Khảm |Hối sát, vợ chịu hình phạt, thương tổn con nhỏ
Khôn |Mùi thủy tuất long, tích phú quý
Chấn |Xuất là người gian dâm phóng đãng, thời thiếu niên thất bại nhiều lần
Tốn |Xuất là người pháp, ngục tù
Càn |Thượng nguyên phát khoa danh, thích hợp với dòng nước ở xa
Đoài |Tích phú quý, kị đại thủy, những âm thanh trực tiếp xông tới
Cấn |Phương Sửu có nước thì phú quý. Nếu có thêm núi đẹp thì xuất quý tử
Ly | Phương Bính có nước, đương nguyên phú quý


Sách bí quyết viết: “Thất vận Nhâm Bính, lệnh tinh song đáo hướng , thích hợp với vừa có nước, vừa có núi, nhưng sinh xuất tài. Tọa sơn là 8-6, 1-6 tương sinh ( nguyên đán bàn khảm nhất), có lẽ là vượng đinh. Chúng cùng với Bính Nhâm, sơn nghịch, hướng thuận, cùng biến cách. Song thất (7-7) đáo hướng thích hợp với sơn thủy, 3 cung Giáp, Tuất, Sửu, được sơn thủy đẹp, cũng phát khoa giáp)

vanphung51
25-05-12, 09:23
Xin chào quý vị !
Chào anh 1268 !
Chào anh nguyenhoangsqtt !
Thấy mọi người tỏ ra rất khâm phục và kính trọng anh Vân Hoài nên tôi mạo muội viết mấy dòng để kính báo với quý vị .
Tôi vừa hân hạnh được nói truyện ĐT với anh Vân Hoài ,quả là anh ấy rất bận phần vì công việc ,phần vì đang hoàn thiện phần dịch .. của phần II huyền không phi tinh nên ít có thời giam vào diễn đàn để hướng dẫn anh chị em .
Tôi cũng như anh chị em rất mong anh ấy chuyển phần II lên để học tập và lại đang rất phân vân vì cái nhà quá xấu về mặt PT nên may mắn được anh ấy quan tâm rất là vô tư !
Vậy tôi viết mấy dòng kính báo để anh chị em quan tâm nhẫn nại chờ đợi !
Xin chào !

Kính chào bạn cóc tía,bạn có thể cho mình xin địa chỉ và số máy của anh van hoai được không?

vanhoai
25-05-12, 18:02
Thái Nhất Lương chú giải:
Thất xích lệnh tinh song đáo hướng, nếu trước mặt có hồ nước trong lặng, ngoài thủy có sơn triều án, mặt sau có tiểu sơn, phía ngoài có thủy bao huyệt, hoặc có cao sơn, trên sơn có “thiên trì thủy” (hồ nước trong lặng) ở càn khảm cấn có 1-6-8 chủ tam nguyên bất bại
Phía sau, trước tiên thầy thủy rồi sau thấy sơn chủ tổn đinh, anh em bất hòa, khắc thê tiểu nhi khó nuôi. Phương khôn tốn có thể dụng thành môn. Mùi phương có thủy, phát tài mà nhiều âm bịnh. Thìn phương là phương “thiên kiếp sát”, nếu có thủy thì phát tài mà nhiều hung sát, quan ti trưởng nam sát mẫu, cần phải trồng cây trúc để giải hung, lại có thể thong thủy khí để tăng tài.

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/25/17/32/13379419231315147274_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1426576533)

Dương trạch, trung cung có 3-7-2 kỵ cầu thang và nhà xí, phạm thì nhiều bệnh. Càn Đoài có bếp, wc chủ nhiễm ác bệnh. Phương Càn chấn 1-4. 4-1 là văn xương phương, nếu có wc hoặc chuồng gia súc thì con cháu không học hành, cũng chẳng công danh.
Cuộc này dương trạch tại nội, thông từ hướng đến trung cung rồi đến sửu có cửa hợp 2-7, 3-8 hợp 1-6-8 chánh phối, chủ phát tài nhanh chóng và bền lâu. Cửa sau tại sửu hợp 1-6-8 phát tài, chủ phú quí, văn võ toàn tài.
Phòng ngủ nên ở giáp, tốn, ly. Phòng ngủ an tại bính sơn thì cửa phòng tại Bính, nhâm, giáp, càn. Tại canh sơn thì cửa phòng tại canh sửu tốn ly

vanhoai
26-05-12, 15:47
Vanhoai chú giải:
Tọa sơn (khảm) có thủy (CNM viết: Hối sát, vợ chịu hình phạt, thương tổn con nhỏ), vận 7 chưa phải là suy bại nhân đinh nếu phía trước ngoài thủy có sơn. Qua vận 8. sơn tinh bát bạch nhập tù, an tại cung khãm có thủy tiên thiên lại gặp thủy nên bát bạch suy nặng. Nhị hắc nhập trung cung nên khắc người vợ người mẹ, bát bạch là hình ảnh con nhỏ, cần có cao sơn để chế hóa.
Dương trạch, đây là cách cục "Ly cung đả kiếp". Nếu hình thế tương hợp thì vận 7 tốc phát, qua vận 8 nếu không sửa hình thế cho tương hợp thì cực suy bại có thể phá sản. Song tinh 7 đáo hướng, qua vận 8 thành thoái khí, nếu phía trước có đường đi lại có cửa tại Bính thì ứng người đàn ông trong nhà hoang đàng vô độ.
Nhà này ứng hợp người tuổi Thân, Tí, Thìn ( vượng thì rất vượng mà suy thì rất suy)
Cung hướng Tây có cao sơn thì khắc các người tuổi: Nhâm thìn, tân sửu, kỷ dậu, kỷ mùi, mậu thìn, đinh sửu
Cung hướng Tây nam có thủy thì khắc người nam tuổi: canh dần, quí tị, kỷ hợi, tân sửu, mậu thân, tân hợi, đinh tị, canh thân, bính dần, kỷ tị, ất hợi. Nữ tuổi: Tân mão, canh tí, kỷ dậu, mậu ngọ, đinh mão, bính tí.

cóc tía
27-05-12, 11:32
Kính chào bạn cóc tía,bạn có thể cho mình xin địa chỉ và số máy của anh van hoai được không?

Chào bạn !
Tôi thì không hẹp hòi gì ,nhưng e rằng anh Vân Hoài sẽ không hài lòng khi tôi tự tiện cung cấp thông tin của anh ấy cho người khác khi anh ấy chưa đồng ý !
Trân trọng !

vanhoai
27-05-12, 15:39
2. NHÂM SƠN BÍNH HƯỚNG KHỞI TINH
http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/27/15/02/1338105772615895139_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1428851229)

Nhâm Sơn Bính hướng
Kiêm Hợi, Ất Hợi phân kim. Quẻ Quan. Tọa Từ 337,5 đến 340,5 độ
Kiêm Tí, Qúy Hợi phân kim. Quẻ Bác. Tọa Từ 349,5 đến 352,5 độ


Thẩm Thị chú : Tài tinh đến hướng đầu, phương Bính có ánh sáng của nước thì tiến tài. Phương Cấn phạm “ Phục ngâm”, nước có thể dùng được. Hai phương Thìn Mùi có thể dùng “ Thành môn quyết”.
CNM chú giải : Bố cục này địa vận có 100 năm, đến giữa Nhị vận Giáp Thân, Giáp Ngọ 20 năm là long vận nhập tù, nếu hành vận đến đây thì kiện tụng, miệng lưỡi thị phi, phá sản. Đến vận 3-4 Chấn là đương lệnh, phương quẻ Chấn lối lên, âm trạch có thủy đẹp, núi đẹp có chủ xuất văn nhân nho nhã, giao du khắp nơi. “Đăng long hữu thuật”. Hình thế này nếu phương Khôn, phương này nếu có hố sâu, có nước thì chủ tổn thương bé gái, thiếu nữ, con út, nếu có đỉnh núi đẹp , thì con út sẽ phát đạt khi ở xa gia đình, xa quê hương, con gái thì xuất chúng. Hướng tinh phương Bính tuy là đương nguyên vượng thủy, nhưng bộ sao là 2-5-7 đồng cung, cũng đều là sao âm “Huyền không bí quyết” viết: “ Âm thần mãn địa thành quần, hồng phấn trường trung không khoái lạc.” Trong khi phú quý hạnh phúc, không tránh được là người phóng đãng, hơn nữa nếu tài ðến thì bị ức hiếp.
Đầu hướng cần có thủy thông khí, thì vẫn là vượng tài, nếu không thì nhà sẽ gặp tai họa.
Sơn | Chủ ứng của cát hung
Khảm| Nếu núi cao mà bị đè nén, thì mắc các bệnh đau đầu
Khôn |Nếu có núi cao mà đẹp thì xuất quý tử, quẻ này không có tốt cho con gái
Chấn |Bát vận xuất hiền nhân. Giữa các đời không có sự tranh chấp
Tốn |Hạ nguyên Cửu vận thì xuất là người kì tài thông minh
Càn |Bệnh tật, ung thư, đái tháo đường, các bệnh về phổi
Đoài |Xuất là người nhanh nhẹn, nhiệt tình, là người thông minh khoa học
Cấn |Xuất là người có tài nhưng không gặp thời, đi vào chỗ bế tắc.
Ly |Là nhà phê bình văn học, nếu có núi thì sinh nhiều con gái, thiếu con trai.
Thủy |Chủ ứng của cát hung
Khảm |Nếu nước lớn chảy mà có tiếng thì chủ đau đầu chóng mặt.
Khôn | Bệnh tật, ung thư, nghiện hút.
Chấn |Là người hay quên, là người không có chí khí
Tốn |Xuất trộm cướp, mắc các bệnh về gan, bạo ngược hung bạo.
Càn |Nước chảy nếu mà quay lại, chủ bị bôi nhọ, làm nhục, cuối cùng là bỏ nhà ra đi.
Đoài |Cửu vận xuất kì tài, tích phú quý.
Cấn |Nước thích hợp với hình tròn, sáng sủa, tích trữ của cải, nhà nhà phú quý.
Ly |Là nhà phê bình văn học phát tài

vanhoai
27-05-12, 15:42
Tọa hướng sai tinh pháp

Nếu ở kiêm tuyến giữa Nhâm Tí hướng Bính Ngọ thì luận theo bố cục là:

Bố cục này là phía sau lưng có núi, trước mặt có nước, chủ em thì mạnh mẽ, anh thì mềm yếu. Tài tuy vượng, nhưng anh em vợ chồng, bố con bất hòa, có phát lộc nhưng không đủ, phát đinh nhưng không thịnh, không thể có sự hoàn mỹ được. Hình thế này không hợp với tăng sư, vì tăng sư là hình tượng thuần dương. Mà đầu hướng gặp thiếu âm song thất (5-7), âm dương cũng không hòa hợp.
Nếu tọa ở Nhâm Hợi hướng Bính Tí là quẻ xuất, không dùng được. Hệ thống này là sai tinh pháp “ Trạch vận tân án” đặc biệt là âm ( là tuyết hành, sau đó thì xuất gia, hiệu phật trí, diễn bản) người học sám hối ( Vinh Bách Viết). Kinh nghiệm của tác giả, tọa ở tuyến giữa Nhâm Tí, phải lấy Nhâm sơn quẻ thế luận khởi tinh. ( Nguyên lý này phù hợp với công việc dệt cửi, 7 chính, 4 dư cung chủ, có liên quan đến nguyên lý của độ chủ).
Kim thuộc tuyến giữa 2 chữ, gọi là “ chỗ giáp lai” là vô hướng, không chỉ là ranh giới của thiên địa mà còn là hình đất nước với đất nước, tỉnh với tỉnh, huyện thị với huyện thị, thị trấn với thị trấn, không chỉ là 3 miền, đại kị. “ Phi tinh phú” viết : “ Há nào vô kì tuyến du hồn, quỉ thần nhập thất, càng không có quẻ phùng hợp, trong mơ mà vẫn còn nhớ đến tình. Ăn bám con người khác, vì luyến tiếc công nuôi dưỡng mà tha thứ, vứt bỏ gia đình lên trên vai người cha, có thể thấy đó là tính tham sống” . “ Kì tuyến” là giáp giới giữa quẻ với quẻ, còn có tên là “xuất quẻ”, “ đại không vong”, “ không phúng”, là đồng nhất trong quẻ, là giáp giới giữa sơn với sơn”. “ Thẩm Tổ Miên ( có con cháu đầy đàn) nói : “ không vong hướng, kim rơi vào chỗ giáp lai, như là con người lúc hoảng hốt trong hoạn nạn.” Lại nói: “ Phàm là không có hướng xác định, thì có nhiều chuyện quỷ quái.”
“ Đại không vong” chủ là phụ nữ thì không có niềm vui, chủ từ đó mà không hợp nhau, anh em không hòa thuận, tinh thần quái lạ dị thường; nếu càng tự ý dùng, thì mọi việc làm đều điên đảo, rối loạn, các ý kiến khác nhau giữa mọi người cũng gây nên xung đột; người có tài thì không có con trai, người có con trai thì không có tài; người sinh được nhiều con gái thì 3 đời tuyệt tự, không có con trai. Tác giả đã thông qua thảo nghiệm, giữa các quan hệ bố với con gái, mẹ với con trai, anh trai với em gái, thì thường xảy ra anh trai với em gái, chị gái với em trai loạn luân.
“ Tiểu không vong” thì chủ muốn tiến cũng không được, muốn lui cũng không xong, uy quyền không có, danh tiếng cũng không vang, gây chấn động, xuất hiện nhiều hành động thừa, nhiều lần nổi dậy gây chuyện thị phi, như vậy sẽ ném bỏ hết công sức đi, không một chút mảy may luyến tiếc công sức, là người có tài nhưng không gặp vận, là phụ nữ đương gia. Tác giả đã gặp qua một số thầy địa sư dùng thiên bàn ( phùng châm), hoặc chân bàn ( trung châm)là nhân lập hướng, đa số đều phạm “ đại không vong”, “ tiểu không vong” từ đó mà phát sinh bi kịch. Khi lập hướng cần phải cẩn thận, nếu không thì sẽ phạm phải!

(CNM)

vanhoai
28-05-12, 06:10
Thái Nhất Lương luận giải:

Thất xích lệnh tinh đáo hướng 5-2-7 âm tinh toàn cung, vượng kim gặp thổ chủ, điền trang giàu có nhưng dâm dục, phụ nữ nắm quyền, sanh nhiều con gái. Khi có tài (tiền bạc) thì thường dùng vào chuyện dâm sắc mà không làm việc từ thiện. Khôn ly tốn có sơn vận hướng đồng một phái 5-7-9, Phi Tinh Phú viết:” Tử hoàng độc dược, chủ bị độc dược; Nếu ốc hoặc sơn hình phá toái nhọn, đỏ thì bị hỏa tai, hoạnh tử, bịnh phổi, tim.
Tọa sơn 6-3-6 là thối khí đinh tài tinh, lại hợp nguyên đán bàn 1-6, càn khảm cấn thủy tinh 1 6 8 có thủy tú ở xa ôm sau huyệt, ở xa phía sau có đồi nhỏ và có ngoại thủy bao bọc thì chủ tam nguyên bất bại.
Vượng lệnh đinh tinh đáo khôn phương 7-4-5 là phương kị khuyết hãm, chủ bại tiểu phòng, tổn nữ nhi, thấy sơn đẹp thì xuất nhà bốc mệnh (bói toán), hoặc luật sư, thường phát nữ nhi.
Tốn phương 9-6-3 có viễn sơn (núi ở xa) đẹp, mộc hỏa thông lâm, chủ xuất thông minh kỳ sĩ và trường thọ.

http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/28/5/39/1338158360927952069_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1429482341)

Dương trạch môn tại Bính phương 5-2-7 có thủy, chủ đại phú. Môn tại cấn, bát vận thì phòng phòng đều phú quí. Ở Càn có tú sơn, thủy nhiều thì phát văn tú khoa.
Sàng(giường) vị tọa Giáp sơn thì môn nghi thất vận Càn Canh Sửu. Tọa Bính sơn thì môn tại Mùi Giáp Thìn Cấn Càn. Tọa canh sơn thì môn tại canh Sửu Nhâm Khảm Tốn.

vanhoai
30-05-12, 14:04
3. TÍ SƠN NGỌ HƯỚNG HẠ QUẺ

Tí sơn – 1,5’ quẻ phục – 357,5’ quẻ khôn
Trung cung 3 - 2 , mẹ con bất hòa.


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/30/13/25/13383591341694028444_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1432185829)

TTNhưng chú : Song tinh là lệnh tinh đáo tọa, không được dùng “ nước bọc quanh Huyền Vũ” ( chòm sao phương Bắc trong nhị thất bát tú), hoặc phía sau lưng có bờ đê ngăn nước. Phương Khôn là sinh khí, dương trạch thích hợp với cửa đặt ở phương Tí và phương Khôn. Nếu phương Tốn có nước, chủ xuất là người dâm đãng. “ Phi tinh phú” có viết : “ đương trí tứ đãng nhất dâm. “ nếu phương Càn có nước phạm cách thực: Dự, như là ngừng ăn vậy”.

CNMinh chú giải : Nếu phía sau có nước, thì vượng tài, duy chỉ không thích hợp với tối tăm u ám, nếu không thì sẽ gặp những chuyện kì lạ không rõ nguyên nhân vì 3 quẻ Càn, Khảm, Cấn chủ sau sao là 2-5-7-9 đều là âm tinh. Phương Khôn Bát Bạch thủy, không chỉ là sinh khí, hơn nữa là quẻ thủy hậu thiên, vượng tài. Phương Tốn có thủy là ánh sáng chiếu rọi, thì tích phú quý, tiền của, không những không xuất dâm đãng mà lại còn là người tuấn tú phong nhã, dòng dõi con nhà thư hương. Xuất dâm đãng, là núi ở phương Tốn cần phải là núi xiêu vẹo, nước chảy lộn xộn thì mới bắt đầu ứng nghiệm. Phương Càn sơn hướng 2-3 , nếu quẻ Lôi địa dự, mộc khắc thổ, xuất người phóng đãng chủ mắc các bệnh về tì vị, khắc mẹ, nghịch tử đánh mẹ, mắc các bệnh về chân, gan, tai nạn xe cộ, tử hình… kị gặp núi, nước. Bố cục này nếu giao với bát vận, 7 tọa sơn là mất trí, tháng 2 năm Tân Mão( dương lịch năm 2011), lưu niên tam bích bay đến cung Khảm; 3- 7 thay núi, chủ gặp trộm cướp, kiện tụng, năm Ất Mão, Quý Mùi sẽ gặp tai họa. Phương Mùi nếu có gò đất, đống đất đơn độc thì cỏ cây không mọc được, chủ xuất hòa thượng; “ Huyền cơ phú” cũng viết “ Khôn phối hợp với thuần dương, thì người góa vợ há nào có thể phát triển được” . Phương Tốn có núi thanh nước biếc, nếu gặp lại các năm có niên tinh 1; 4 đến , thì chủ phát khoa danh. Phương quẻ Chấn, Cấn có nước chảy đến, dương trạch có môn lộ, thì chủ xuất mắc các bệnh về mắt, nếu có núi chặn lại, thì xuất ngu đần. Phương Khôn có thủy hoặc môn lộ thì chủ xuất phú quý, vì phương này chịu ảnh hưởng của sao 8 – 6. Bát bạch là sinh khí của thủy; “ Tử bạch tuyết” có viết: “ 6-8 chủ xuất kì tài võ học, là người thao lược toàn tài”, “ 8-6 là người văn sĩ tham mưu hoặc con đường thăng tiến kì diệu.” Xuất võ quý, con đường công danh diệu kì. Nếu phương này bị núi cao che khuất không thông, thì xuất nhân tài nhưng không gặp thời, cuối cùng chỉ như con suối trong rừng sâu, lại tổn hại đến sự thông minh; nếu có đoạn đầu sơn lại càng kị.

Sơn | Chủ ứng của cát hung
Khảm |Vượng đinh, quan văn quan võ, nếu thế thì phải có nước cùng phối hợp
Khôn |Không thể nhìn thấy hình đầu của núi
Chấn |Thiếu con trai, hơn nữa là người ngu đần. Các mệnh về mắt, mụn nhọt
Tốn |Nếu có núi ở xa lại con đẹp thì thượng nguyên phát khoa danh
Càn |Bệnh tật, ung thư, bị vật nặng đè chết
Đoài |Nếu có núi đẹp, trong núi lại có hồ, chắc chắn là xuất khoa giáp
Cấn |Thiếu con trai, hơn nữa là người ngu đần, thích hợp với những ngọn núi ở xa
Ly |Có nhiều thành tích trong võ học, con đường công danh kì diệu

Thủy |Chủ ứng của cát hung
Khảm |Phát tài, nếu là phụ nữ thì được mọi người giúp đỡ nhiều, còn có cả núi hỗ trợ giúp đỡ
Khôn |Phú quý, bất ngờ phát tài, con đường công danh kì diệu
Chấn |Phú quý, xuất là người thông minh kì tài
Tốn |Xuất nhà văn, là người trông coi thư hương
Càn |Mắc các bệnh về tì vị, gan, chân
Đoài |Xuất là người phong lưu, phóng đãng
Cấn |Bệnh tật, phá sản, gia đình tan vỡ, có người chết
Ly |Trúng gió, chết đói, gia nghiệp tiêu tan, tiêu điều

Chương Trọng Sơn “ Trạch đoạn” ghi lại: Mộ tổ tiên của nhà họ Từ Du, 4 góc Càn, Khôn, Cấn, Tốn đều có nước, ngoài ra các chỗ khác lại trống trải không có núi, nước. Chủ trúng gió, không ăn được, đói đến hơn mười ngày thì chết, gia nghiệp cũng tiêu tan, vì địa bàn 6, Càn là đầu. 2 Khôn là phúc. Đầu phúc cũng không có sinh khí, là chết đói. Lại lấy 8-4-6-1 là vận tinh ải đến Càn, Khôn, Cấn, Tốn , trên đến 4 góc, sơn hướng, cũng hung nhiều hơn là cát.
Tọa sơn ải tinh là song thất, ứng chỗ thiếu hụt, chưa hoàn bị, “ Huyền không bí quyết” viết: “ Đoài khiếm khuyết thì môi hở răng lạnh.” Chủ xuất là người sứt môi, người câm, mắc các bệnh về cổ , họng. Phương Càn có thủy, thì mắc các bệnh về tì vị không khỏi, thậm chí còn tổn hại đến con người, phá tài. Cũng là chủ mắc các bệnh về gan, chân.
Thất vận Tí sơn Ngọ hướng sơn tinh với vận tinh hợp thập, có lợi nhất đối với con người, công danh. Nếu hình khí tương hợp, được dương trạch của chùa danh tiếng thì có thể xuất tổ sư. Âm trạch, dương trạch có thể là thánh sinh vĩ đại.

vanhoai
30-05-12, 16:01
Thái Nhất Lương chú giải:

Song lệnh tinh đáo tọa tại khảm cung. Cuộc này hậu diện cần có bờ đê thấy thủy, ngoài thủy có sơn cao đẹp hoặc có tú phong, giữa lưng có nửa thiên trì, ấm long trì là cát lợi. đinh tài đều vượng. Trước nặt có tiểu án sơn hình nga my, ngoài viễn thủy trì khôn tốn hoặc gần thủy trì hoặc thành chữ phẩm là hợp hình cuộc, chủ tam nguyên bất bại. Hoặc ở hướng thủ có đồi nhỏ, ngoài khôn ly tốn có thủy trì loan bao cũng được.

http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/05/30/18/25/1338377111274661781_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1432504589)

Dương trạch dùng ở sơn long cuộc. tọa sơn diện (thấy) thủy, khôn tốn môn. Càn cung 2-8-3 thấy thủy là môn ngưu sát, chủ bị quan hình. Huyền Không Bí chỉ viết:” Lôi xuất địa diện mà tương xung thì chủ bị gông cùm xiềng xích, trưởng nam sát mẫu”.
Đoài phương văn bút sơn, tốn phương có nghiên đài tú thủy thì đời đời thư hương, khoa giáp kim bảng văn quí.
Môn nghi tại khảm tốn phương, chủ phát tài khoa giáp, phương đoài có thể đặt giá sách tốt. Phòng ngủ tọa mão sơn, môn nghi tại đoài, càn, tốn. Toạ Ngọ sơn, nghi tại tí, ngọ, cấn, đoài. Tọa dậu sơn, nghi tại mão khôn khảm.

vanhoai
01-06-12, 20:56
CNMinh chú giải :

Luận về công dụng của hợp số sinh thành, hợp thập:

Hà đồ:
• Nhất Lục cộng tông (1-6)
• Nhị Thất đồng đạo (2-7)
• Tam Bát vi bằng (3-8)
• Tứ Cửu vi hữu (4-9)
• Ngũ thập đồng đồ (5-10)
Gọi là hợp số sinh thành hay còn gọi là hợp số tiên thiên
Lạc thư:
• 1 đối đãi với 9
• 2 đối đãi với 8
• 3 đối đãi với 7
• 4 đối đãi với 6
Hợp lại đều là 10 nên gọi là hợp thập.
Thiên Ngọc Kinh viết: “ Cộng lộ lưỡng thần là phu phụ, nhận thủ chân thần lộ” Phu phụ chính là hợp thập. Bởi số của thiên địa tương thông với số của ngũ hành. Số 5 và 10 là số lấy số thần, thần lấy số hiển chính là đạo âm dương, hai khí giao cảm mà hóa sinh ra vạn vật, sinh sinh biến hóa không ngừng.
Sự sinh hóa này cũng chính là công dụng của mậu kỷ; Hợp thập cũng đều nhờ cái lực của mậu kỷ, khí vận mà đạt được lực này thì cực hanh thông
Hợp sinh thành số, hợp thập số có công dụng rất lớn. Ở mỗi vận nếu vận dụng được (loan đầu hợp lý khí) các hợp số này thì: Sơn hợp sinh thành, phòng phòng ( mạnh, trọng, quí) đều phát nhân đinh. Hướng hợp sinh thành, phòng phòng đều phát tài lộc.
Nhưng 1-6 thì sợ 4-7 lai xung (xung ngược); 2-7 thì kỵ 3-8 trở ngại. 4-9, 3-8 cũng sợ 1-6, 2-7 lai phá. Trung ương mậu kỷ thổ có tính kiên cố có thể bảo vệ qua tam nguyên mà không bại tuyệt
Hợp thập số:
Cuộc ải tinh hợp thập, Hạ quái có: vận 1, 9: càn hướng tốn, tị hướng hợi; Vận 2, 8: sửu hướng mùi; Vận 3, 7: tí hướng ngọ, quí hướng đinh ; Vận 4, 6: Canh hướng giáp, Thân hướng dần. Thế quái có: vận 1, 9 càn hướng tốn, tị hướng hợi; vận 3: Nhâm hướng bính: vận 8: Tí hướng ngọ, Quí hướng đinh
Ví dụ 1:

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/01/20/24/13385570521961067521_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1434595371)
Vận 7, quí hướng đinh hạ quái . sơn tinh + vận tinh hợp thập toàn bàn, song tinh đáo tọa. Đinh tinh và tài tinh đáo khảm

Ví dụ 2:

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/01/20/24/1338557054411732171_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1434595403)
vận 8, quí hướng đinh khởi tinh, hướng tinh + vận tinh hợp thập toàn bàn. Đinh tinh đáo doài, tài tinh đáo cấn

vanhoai
03-06-12, 17:22
Tiên thiên Hợp số:
Có loại chánh hợp, có loại cách cung hợp.
• Chánh hợp tức chánh lộ phu thê: như khảm 1 với càn 6 là chánh hợp. (Mùi với Canh ; Khôn với Dậu ; Thân với Tân hợp). Chấn 3 với cấn 8 là chánh hợp. (Nhâm với Tuất; Tí với Càn; Quý với Hợi hợp). Khôn 2 với đoài 7 là chánh hợp. (Giáp với Sửu; Mảo với Cấn; Ất với Dần hợp). Tốn 4 với Ly 9 là chánh hợp. (Thìn với Bính; Tốn với Ngọ; Tị với Đinh hợp).
Ví dụ như: Nhứt vận Tí Ngọ, Quý Đinh hướng bàn, lục bạch đáo tốn. Mảo Dậu, Ất Tân hướng bàn, Lục bạch đáo khôn. Thìn Tuất hướng bàn, lục bạch đáo khảm. Mùi Sửu hướng bàn, lục bạch đáo chấn, thì đều là chánh hợp. 1 là phu, 6 là thê, chánh hợp thì chủ phu thê giai lão.


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/03/16/46/13387167631689357683_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1436189458)
Nhất vận tí sơn ngọ hướng, quí sơn đinh hướng, hướng bàn phi tinh hợp số tiên thiên 1-6
• Cách cung hợp:
VD1: Như 4 (tốn) với 9 (ly) là chánh hợp mà nhất vận sơn càn hướng tốn, Hợi hướngTị, hướng tinh lục bạch đáo cấn, nhất bạch đáo tốn là cách cung hợp. Khôn 2 với đoài 7 là chánh hợp mà cấn khôn, mà nhất vận Dần Thân hướng bàn, lục bạch đáo càn, nhất bạch đáo khôn, ấy là cách cung phòng hợp mà chẳng phải là chánh hợp. Cách cung thì chủ phu thê xảo ngộ.


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/03/16/46/13387167601712166933_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1436189424)
Nhất vận, cấn hướng khôn, dần hướng thân, hướng bàn phi tinh 1-6 cách cung hợp
VD2: Lại như chấn 3 với cấn 8 là chánh hợp, mà nhứt vận Canh sơn Giáp hướng bàn, lục bạch đáo tọa sơn, nhất bạch đáo hướng, ấy là diêu vọng; diêu vọng thì chủ phân ly …


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/03/16/45/13387167581075865700_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1436189398)
Nhất vận, Canh hướng giáp, hướng bàn phi tinh 1-6 diêu hợp
VD3: Khảm 1 với càn 6 là chánh hợp, mà nhứt vận Bính Nhâm hướng bàn, lục bạch nhập trung cung, ấy là âm quý; âm quý thì chủ phụ nữ cầm quyền.


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/03/16/45/1338716755941469528_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1436189348)
Nhất vận, Bính sơn nhâm hướng, hướng bàn phi tinh 1-6 hợp
Hợp tinh của hướng nhập trung cung biểu thị nữ nhi nắm quyền. Kị đối diện có lộ trực xung, thủy xung.

vanhoai
08-06-12, 21:10
4. TÍ SƠN NGỌ HƯỚNG KHỞI TINH
Kiêm Nhâm Giáp Tí phân kim . Quẻ bác
Tọa Từ 352,5 đến 355,5 độ

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/08/20/26/13391619992072288439_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1440990155)

TTN chú: Phạm “ thướng sơn há thủy”, không thể dùng nếu không có “ thủy bọc quanh Huyền Vũ” ( chòm sao phương bắc trong nhị thập bát tú), phía trước có núi. Phương Cấn phạm “ phục ngâm”. Phương Khôn là sinh khí, lại hợp “ Thành môn quyết”. Bát quốc thành môn tỏa chánh khí. Phải đi từ chỗ huyền ảo đến phân rõ thư hùng, thiên cơ phải dùng ngay không được để lâu, chỉ là tại thành môn thông nhất quẻ.” Dương trạch nếu bếp xây tại phương Chấn ( Chấn tại vị trí 9) , hỏa môn hướng phương Ngọ ( Ngọ tại 6) , định chủ phụ tử không hòa hợp. Vị trí thích hợp của nhà bếp là được xây tại phương Đoài ( Đoài tại 4) , hỏa môn phương Chấn (Chấn tại 9), mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ lại hợp. Hướng sao đến phương 2 - 5 thì không thể xây bếp tại đó được; đương lệnh là ngoại lệ.
CNM chú giải: Dùng quẻ thế khởi tinh cần sự cẩn thận, như bố cục này, tọa sơn vận tam bàn, tam là thiên nguyên ( Mão) biến là cửa lớn sao số 2, thuận theo, đến sao Đinh thì hạ thủy( đến hướng), thủy long( hướng tinh) thượng sơn. Theo quan niệm của đời xưa về phong thủy “ núi phía sau thủy phía trước” mà nói thì, đây là bố cục phong thủy giết vợ, tổn đinh, phá tài. Có thể không cẩn thận hay sao?

Phương pháp chọn hướng nhà bếp hiện đại

Nguyên chú gọi bếp là chỉ hình thức cũ lấy bếp là tử sinh hỏa, mượn gió mà đốt, vẫn lấy hướng là cửa bếp. Dùng bếp sành sứ hiện đại, bếp điện từ, bếp điện, lò vi sóng.. đều là đồ dùng nhà bếp không có lửa, lý học của luận pháp cũng không thích hợp dùng, mà nên lấy phương vị quẻ nằm ở khí để lý luận.
Bản chất của bếp núc là hỏa, chính là tính nhiệt, cũng không thích hợp với quá vượng( nếu 3- 4 mộc, 9 hỏa, 5 thổ, ngũ hoàng trong giữa cung là thổ), hỏa khắc kim (6-7) cũng kị. Nhị Hắc là bệnh tật cũng kị( chỉ có trong Nhị vận là chủ vượng đinh.)
Do vậy, vị trí thích hợp nhất để đặt dụng cụ bếp hiện đại là phương quẻ sơn tinh liền đến 1-8; 3-8;4-9;1-9;1-4;3-1. Với bố cục này, phương vị thích hợp là : Phương Tốn, Chấn, Cấn, Càn, Đoài.
Sau sao gặp vị trí đặt bếp núc 9-6 “ Huyền không bí quyết “ viết : “ hỏa thiêu thiên môn, nhe nanh tương đầu, sinh ra đứa con chửi lại bố”, ( Cửu tử là hỏa, Lục Bạch Càn là thiên môn.) Chủ xuất con cháu bất hiếu. Thêm vào đó, Lục Bạch Càn kim là dương tinh, chủ mắc các bệnh về đầu, bị hỏa khắc, chủ không sinh được con trai, trúng gió, xuất huyết não.
Người đời luận dương trạch, đa số là lấy niên sinh của 9 sao phân đông, tây quẻ mệnh, lấy “ tiểu du niên quyết” phối xuất phục vị , lục sát thiên y, ngũ quỹ, họa hại, tuyệt mệnh, kéo dài tuổi thọ, sinh khí bát quẻ, dùng để đặt giường, đặt bếp núc, wc, thậm chí bắt đầu “ áp niệu pháp” , người ngu thì nhiều thật ( Càng mục nát, hỏng hóc thì càng dùng 8 chữ, tính toán vận mệnh tử vi đầu số để xem dương trạch)
Bố cục này giữa cung song nhị, bệnh tật trùng lâm, chủ con trai trưởng bệnh tật, thế xuất quả phụ. Dương trạch nếu hình đất mà sâu dài, ở chính giữa thì mờ ám, ở sân vườn thì càng không có ánh sáng xuyên qua.
Phương Chấn có sơn, Đoài có thủy, nếu hình trạng là người dâm loạn, thân mật, chỉ phụ nữ dâm dục như lửa khó có thể tránh được. Nếu sơn thủy đẹp đẽ, chủ xuất văn nhân nho sĩ, nếu phía trước là nước. “ Tử bạch quyết” có viết: “ Giao kiếm sát dễ xảy ra cướp bóc.” Lục bạch, Thất Xích, thương kiếm sát ( sơn thủy tương phản rồng thủy đánh nhau), chủ tai nạn bất ngờ. Gặp năm niên tinh 6 - 7 di chuyển đến sơn hướng thì năm đó sẽ ứng nghiệm . Phía sau lưng nếu có ngọn núi thấp, chủ là người cô quả cô độc.
Bố cục này cung giữa song nhị, xuất hướng 7- 6 thương kiếm sát, thất lệnh. Bố cục này nếu hình trạng không hợp, định chủ xuất quả phụ, con gái thì thất đức.

Sơn |Chủ ứng của cát hung
Khảm| Thương tổn xương khớp, bệnh phổi, là con gái thì gặp tai họa
Khôn |Thiếu con trai, con trai út thì bệnh nặng, mắc bệnh xương cốt
Chấn |Con gái nắm quyền gia đình, sinh nhiều con gái ít con trai, mắc các bệnh về gan
Tốn |Rắn cắn, trộm cướp, kị thấy núi sâu hay núi có hình kim tiêm
Càn |Nếu thúc dục sinh thì sinh quý tử. Nếu bị áp bức đè nén thì xuất trộm cướp
Đoài |Văn chương nho nhã, anh em thì đồng lòng.
Cấn |Vượng đinh , bát vận xuất thánh hiền, cao tăng
Ly |Hợp với quan võ, sinh được quý tử. Kị những ngọn núi cao hiểm trở, chủ gia đình bất hòa, bất luân.


Thủy | Chủ ứng của cát hung
Khảm | Tiến tài, quan võ, phát triển với nghề bốc thuốc
Khôn |Bát vận nhà nhà phát tài
Chấn |Thích hợp với những dòng nước ngầm, cửu vận phát tài, xuất quý tử
Tốn |Phú quý, thích hợp với những dòng nước ngầm.
Càn |Rắn cắn, trộm cướp, con trai trưởng thì du đãng.
Đoài | Mắc các bệnh về máu , phụ nữ thì không giữ được trinh tiết, xuất kí nữ.
Cấn |Con trai út thì mắc trọng bệnh, ngu ngốc, phá sản
Ly |Con trai trưởng thì bất tài, kiện tụng, anh em không hòa hợp, đánh nhau , đâm chém nhau.

vanhoai
12-06-12, 14:39
TNL chú giải:
Sơn hướng thượng sơn hạ thủy, cần hậu diện có viễn tú thủy, ngoài thủy có sơn bảo(ôm) huyệt. Càn cao tú sơn, lai long thành sơn chữ phẩm, càn thối khí hợp nhất lục (1-6), Cấn bát bạch sơn gần là tốt. Hướng thủ (đầu hướng) có tiểu án sơn, ngoài xa có án sơn có thủy bọc án. Khôn phương có tam xoa thủy liên tiếp đến tốn phương. Hướng thủy đắc 168, sơn đắc 168 thì tam nguyên bất bại. Do Khôn phương bát bạch làm thành môn tốt và lại hợp sanh khí. Quyết nói: “Bát quốc đoàn đoàn chung thị không, tu tùng huyền áo biện thư hùng, thiên cơ đắc dụng vô ta diệu, chỉ tại thành môn nhất quái thông”
Cuộc này nếu dụng nơi bối sơn diện thủy, tức phạm giao kiếm sát, chủ xuất bạo đồ, phạm quan hình; long thủy giao chiến chủ bị hoạnh họa, lão ông thiếu nữ thông dâm, anh em bất hòa. Tốn phương thấy thủy là mộc nhập khảm cung, tức “phượng trì thân quí”

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/12/14/10/13394850471734031340_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1444189071)

Dương trạch môn nghi tại khảm 637 chủ võ quí, phát tài, hành nghề y được đại lợi. Đoài phương 994 nên đặt thư phòng, chủ phát văn chương. Càn phương 183 nên đặt thư án thì phát công danh, xuất thần đồng, quan trung lương. Táo vị (bếp) nên ở tốn phương quay về đoài phương, Chủ thêm đinh, xuất quí tử. Phòng ngủ ở mão sơn, cửa tại đoài càn tốn, tại ngọ sơn, cửa ngọ cấn đoài, tại dậu sơn, cửa tại mão khôn khảm cấn.

vanhoai
12-06-12, 16:10
5.QUÝ SƠN ĐINH HƯỚNG HẠ QUẺ

Tí sơn Ngọ hướng Chính Tuyến
Tọa từ 13 đến 18 độ. Mậu Tí phân kim Quẻ Truân


http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/12/15/28/13394896991029260685_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1444258221)

TTN chú : Lệnh tinh hội hợp với tọa sơn, “ nước bọc quanh Huyền Vũ" hoặc phía sau lưng có bờ đê ngăn nước, đương nguyên tiến tài. Phương khôn là sinh khí, nhị vận “ nhập tù”, phía sau không có nước, phạm “ thượng sơn”. Dương trạch nếu tại phương Tốn mở cửa phụ, phương Ly mở cửa lớn, chủ con gái lớn thì dâm tiện. Nếu Khảm,Tốn có nước, phương Tốn ngoài thủy ra còn có núi đẹp chủ tiến tài, thanh tú, hơn nữa còn thi cử đỗ đạt. Phương Chấn có nhà, xuất là người mù mắt khi vận suy ắt sẽ ứng.
CNM chú giải : Bố cục này phi tinh bàn với Tí sơn Ngọ hướng tương đồng. Hai phương Tốn, Ly mở cửa, ứng với trưởng nữ dâm tiện, vì địa bàn là Tốn ( nguyên đán bàn) Tứ lục là trưởng nữ, trưởng phụ; vận bàn sao 6 ( khí của quẻ Càn) cùng thuộc trưởng nhà. Hướng thủ sao Nhất Bạch ( với sơn tinh tứ lục hợp ngũ) bị Lục Bạch phương Ly hợp xuất ( cấu kết), hóa nước ( dâm đãng, bất định). Phương Ly ải tinh 8- 2- 6 , có hình tượng của hòa thượng, chủ phụ nữ cũng bị kẻ gian lừa lấy tiền của, sắc đẹp, cấu kết làm bậy. ( người nữ sinh vào các năm Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Tị , Quý Hợi)
Nhà phương Chấn bị áp bức phải phá nhà, hoặc nhà vệ sinh, chuồng lợn, chuồng trâu ( có mùi thối), hoặc ống khói, sẽ ứng là người bị mù mắt. Phương này chịu ảnh hưởng của sao cửu tử, quẻ Ly là mắt. Ngũ hoàng là siêu vi trùng, vi rút, mờ tối không rõ ràng, hơn nữa hậu thiên quẻ Chấn vẫn là tiên thiên quẻ Ly, vẫn bị mù mắt ( bao gồm các bệnh về mắt như: bệnh đục thủy tinh thể, bệnh mù mắt xanh, bong võng mạc mắt, thị lực kém). Chủ lại bị thiếu con cháu, xuất ngu đần, là người có tâm trí thất thường. Nếu thất lệch, thì Cửu vận ( dương lịch năm 2024 đến năm 2043). “ Nước bọc Huyền Vũ” , là chỉ bình dương. Sau huyệt trạch hơi xa phải có dòng nước bao quanh nửa hình tròn mới là tốt được. nếu là phía sau có nước trực tiếp đến, “ gặp nước ở đằng sau”, “ đảo triều”, gọi là “ xông khởi lạc cung vô hạn bảo”, tuy nhiên vận 7 vẫn là đương vượng, có thể đột nhiên phát tức thời, nhưng nếu nguyên vận đi qua, càng biến thành hung thần, ắt chủ về sẽ tổn đinh, kiện tụng ngục tù, tai nạn bất ngờ chết đường, thậm chí gia đình còn tan vỡ, chết người. Nếu sau ao hồ, cũng phải là nơi hơi xa một chút, không thể nào gần được, hình trạng đẹp là hình vuông, hình tròn, hình bán nguyệt (đường bên trong cong cong) , kị hình tam giác với các hình siêu siêu vẹo vẹo, nước phía sau phải có ánh sáng, nếu là rừng cây um tùm, che khuất ánh sáng mặt trời, càng khiến cho nước sông, hồ bị u ám hơn, chủ bệnh tật, làm điều xấu xa, quỉ quái.
Phương Khôn sơn hướng 6- 8, có nước đẹp, ngoài nước ra còn có núi cao ngay thẳng, chủ Bát vận hào phú( kẻ có thế, có tiền thời xưa), xuất là người tài giỏi, văn võ, hiếu tử, hiền nhân.
“ Tử bạch quyết” có viết : “ 6-8, văn sĩ tham mưu, võ tài kì diệu”. “ Trúc tiết phú” cũng viết: “ Cấn nhập Càn, kẻ phản nghịch phải khiếp sợ” “Dao tiên phú” viết : “ Núi cao gần đến trời thì gia đình phú quý, núi chọc đến giữa trời thì con cháu hiền lành ngoan ngoãn “. Phương Đinh Ngọ chịu ảnh hưởng của sao 8-6, có án đẹp, sau án có dòng nước phẳng lặng, thì tài phán đoán như trời. Hai cung này nếu sơn thủy tương phản, chủ góa vợ không có con, “ Huyền thủy kinh” viết : “ Cấn phối hợp với Càn kim, thì quả phụ há nào cơ địa có thể phát triển được ? ”
Hai cung Tốn Tị, Dậu Tân, sơn hướng 1-4, 4-1, văn khôi giao hội, chủ khoa giáp. Nhưng. “ Phi tinh phú” viết : “ Đương trí thì 4 đãng,1 dâm, nâng đỡ người dâm đãng cải tà qui chánh”. Nếu 1-4 được lệnh, được dụng, phương chủ văn tú, thanh quí, nếu thất lệnh, sơn thủy đảo dụng, lại là người dâm đãng. Hạ nguyên kiêm hàm, phương Tốn Tị thích hợp với bỏ nước, phương Dậu Tân thích hợp với bỏ núi , là phương được lệnh, được dụng, phương này sẽ xuất khoa giáp.
Các tập huyền không hiện nay, tuy chỉ là biết qua loa đại khái “ 1- 4 đồng cung, chỉ có phát vận vinh hiển khoa danh” nếu không phân biệt được lệnh, thất lệnh, được dùng, thất dùng, động một tí là có thể phú quý, thì có thể dùng được chăng? Phú quý công danh há có thể dễ như thế này được chăng?

Sơn |Chủ ứng của cát hung
Khảm| Vượng đinh, văn nhân, võ chức. Phải gặp nước đầu tiên thì mới được
Khôn |Không thể thấy đoạn đầu sơn được nếu không thì chủ đột tử, tử hình
Chấn |Thiếu con trai, hơn nữa là ngu đần. Mụn nhọt, hỏa hoạn
Tốn |Nếu có núi xa mà lại đẹp thì chủ thượng nguyên phát khoa danh
Càn |Bệnh tật , ung thư, bị vật nặng đè chết
Đoài |Nếu có núi đẹp, trong núi lại có hồ nước thì chủ xuất văn nhân
Cấn |Thiếu con trai, hơn nữa là ngu ngốc. Mắc các bệnh về tim, mắt
Ly |Sinh được người con trung hiếu lễ nghĩa


Thủy| Chủ ứng cát hung
Khảm | Đương nguyên phát tài
Khôn | Phú quí, bất ngờ phát tài, xuất là người trung hiếu hiền lương
Chấn | Phú quí, xuất là người thông minh kỳ tài
Tốn |Xuất văn sĩ, là người đời đời thư hương
Càn |Mắc các bệnh về tì tị, gan, rắn cắn, nhiều bệnh tật
Đoài |Xuất là kẻ du đãng, là người bất lương
Cấn |Mắc trọng bệnh, hao tổn con người, không có tài, phá sản
Ly |Trúng gió, chết đói, gia nghiệp đổ vỡ

vanhoai
12-06-12, 19:48
TNL chú giải:

“Song tinh đáo tọa”, cần hậu diện có cao địa, ngoài có thủy trì tròn đẹp, lại có cao sơn. Phía trước có hình tam thai làm tiểu án sơn, ngoài xa thấy tiểu thủy trì. Khôn phương có thủy trì. Tốn phương cũng cần có thủy tạo thành chữ phẩm (品) thì rất lợi, chủ tam nguyên bất bại. Toàn bàn sơn tinh và nguyên đán bàn hợp thập thì lợi nhân đinh. Hậu diện có tú phong ứng nghiệm, sơn ở sau, thủy ở trước, 2 phương tốn khôn không có thủy thì hoàn toàn không có chút sanh khí, chủ một đời bần cùng. Có sơn thì xuất sư tổ, lợi về chùa miếu.
Tân phương có sơn đoan tú hoặc sơn văn bút. Tị phương có nghiên đài thủy thì chủ xuất đời đời thư hương bất tuyệt khoa giáp. Nếu có xú thủy (ao hồ ô nhiễm) và sơn đầu phá toái thì xuất con cháu vô học, hoang đàng phiêu đãng.

http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/12/19/16/1339503419173659123_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1444443742)

Dương trạch Tốn Ly khai môn (1-6) thủy tiên thiên thì chủ trưởng nữ hoặc dâu trưởng dâm loạn.
Dương trạch cửa chính mở tại quí phương 737 chủ đắc tài, tại khôn phương 648 thì chủ cự phú, võ quí.

vanhoai
12-06-12, 20:42
Vanhoai chú:
Đây là mộ vua Gia Long (Nguyễn Ánh). Nghiên cứu để biết tại sao các vua con rất hay chữ và nhiều cung phi.
http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/photo_famille_royale_2_vn.htm

Vận 8 sơn tinh nhập tù nhưng nhờ núi Thiên Thọ phía đầu hướng hóa giải
Vận 2, hướng tinh nhị hắc nhập trung cung nên triều đình rối loạn,
Vận 5, đầu vận vua Bảo đại chỉ còn là bù nhìn, qua cuối vận thì đành giao quyền cho Ngô Đình Diệm và sang Pháp

http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/12/20/10/13395066571176380038_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1444487204)

Các niên đại triều Gia Long
Vua | năm trị vì | vận| năm vận
Gia Long | 1802- 1820| 7| 1804-1823
Minh Mạng| 1820-1840 | 8| 1824-1843
Thiệu Trị | 1841-1847|9|1844-1863
Tự Đức| 1847-1883| 9+1| 1964-1883
Dục Đức | 1883| 2| 1884-1903
Hiệp Hòa | 1883| 2|
Kiến Phúc| 1884| 2|
Hàm Nghi | 1884-1885|2|
Đồng Khánh | 1885-1889|2|
Thành Thái |1889-1907| 2|
Duy Tân | 1907-1916 |3| 1904-1923
Khải Định | 1916-1925|3|
Bảo Đại |1925-1945| 4| 1924-1943
|1945-1955|5| 1944-1963

Mộ vua Gia Long thịnh từ 1820- 1955 (135 năm)

vanhoai
19-06-12, 18:27
6. QUÝ SƠN ĐINH HƯỚNG KHỞI TINH

Kiêm Sửu Nhâm Tí phân kim . Quẻ Ích
Tọa Từ 19,5 đến 22,5 độ


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/19/18/03/13401037922144138020_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1450672436)

TTN chú: Phương Khôn là đương nguyên vượng thủy. Phương cấn phạm “phục ngâm” phương Chấn là sinh khí. Đầu hướng có sơn, đương nguyên vượng đinh. Dương trạch, là nhà bếp, lấy hướng tinh là chủ, lửa kỵ cửa đâm vào, thích hợp nhất là tạo tại cung hướng tinh là mộc, bếp tọa thổ hướng mộc. Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ. Hỏa môn (cửa bếp) hướng Nhất Bạch, thủy hỏa đều là cát. 2 – 5 tọa hướng nên kị, đương lệnh là ngoại lệ. Phương Cửu Tử hỏa thịnh nhất, hỏa hoạn, cũng là tọa triều nên kị. Hướng Càn 6, chủ xuất nghịch tử. Hỏa môn hướng Thất Xích, chủ có sai lầm về ăn nói, bị các bệnh về phổi, máu. Phương có sao vượng đinh đặt bếp, có thể vượng đinh.
CNM chú giải: Phương Khôn hướng tinh tuy là phương đương nguyên vượng thủy, nhưng 7 hội 5 là sao xấu tương hội, thích hợp nhất là có nước, nhưng không thích hợp với ánh sáng, nếu không thì dùng pháp “ Gia hình thông khí”. Phương Chấn có sơn, phương Cấn có thủy, “Huyền không bí quyết” viết : “ Núi có gió thì có giá trị mà núi lại có nước thì họa tai vô phương cứu chữa”. Chủ tổn thương con nhỏ, là người có tài nhưng không hợp vận, cuối đời chỉ như dòng suối trong rừng sâu.


Sơn |Chủ ứng của cát hung
Khảm| Đau đầu, con cái bỏ đi, giết vợ
Khôn |Thiếu con trai, nghiện hút, đột tử
Chấn |Bệnh phong thấp, ung thư vú, mắc các bệnh về hệ thống thần kinh
Tốn |Mắc bệnh gan, nhiều tật bệnh, con trai trưởng thì tính tình hung bạo
Càn |Thượng nguyên xuất quý tử, thích hợp với những ngọ núi xa và đẹp
Đoài |Cửu vận xuất kì tài, xuất là người hung ác , tàn bạo.
Cấn |Xuất là người hiền nhân , không bao giờ có sự tranh chấp
Ly |Vượng đinh, xuất là người bốc thuốc tài giỏi ( có hồ lô xuất hiện )



Thủy | Chủ ứng của cát hung
Khảm | Con trai trưởng thì khắc vợ, bỏ nhà ra đi
Khôn | Nếu tiền đến nhiều thì phá, thích hợp với những dòng nước ngầm.
Chấn | Bát vận thì ruộng vườn đất đai phát triển.
Tốn |Thích hợp với những dòng nước nhỏ, cửu vận đại phát.
Càn |Tổn thương con người, phù thũng, sảy thai, không có khả năng mang thai.
Đoài| Kiện tụng, trộm cướp, viêm gan, nhiều bệnh.
Cấn |Phong thấp, sinh nhiều con gái, ít con trai, hao tổn con người.
Ly |Phá sản, ung thư khoang miệng, kiện tụng thị phi.

vanhoai
19-06-12, 19:32
TNL chú giải:
Thất xích đương lệnh, tài tinh đến Thân phương 547, Nếu có thủy bình, lặng thì tốc phát, hoạnh tài, xuất ngoại khoa y sư, pháp quan, luật sư, nhà toán số. Ne61y thủy quá quang sang thì phải trồng trúc để chận bớt ánh sang và thong thủy thù bảo tồn được tài. Lại nếu thủy chảy nhanh phản khiếu thì chủ bị độc dược, bịnh sỏi thận, phổi, hoạnh họa. Vượng lệnh đinh tinh tại đầu hướng 725. Nếu có viễn tú sơn thì chủ vượng đinh võ quí, xuất nữ y quan.

http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/19/19/03/13401074052141634812_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1450720142)

Dương trạch khai môn tại Đinh phương 725 chủ xuất cô quả, tổn đinh, nhiều bệnh, sanh nhiều nữ
Khôn đoài ly có sơn liền một mảng thì có đinh mà nhiều hung họa.
Khôn ly tốn có thủy liền một trì là 7 bật đồng hoàng, chủ nhiều hỏa tai, uống độc dược. Niên tinh 2 9 5 7 đáo cung có động thổ hoặc trước nhà có kiến trúc vật màu hồng, đỏ thì chủ bị hỏa hoạn.
Dương trạch môn tại Thân phương thì phát hoạnh tài. Môn tại Chấn Ất cũng phát tài.

tuhuong
21-06-12, 16:44
Cảm ơn vanhoai
HKLS có dự định mở khóa học về HK nào,xin thông báo để chúng tôi tham gia nhé!
Biết đâu mình về quê tìm 1 miếng nhỏ(theo phúc ấm thôi).
Cũng nằm phía đông nam Huế,bên hồ nhân tạo Thủy Châu!!!!!
Nhớ thông báo giùm nhé

vanhoai
29-06-12, 21:10
7. SỬU SƠN MÙI HƯỚNG HẠ QUẺ

MÙI hướng Chính tuyến 30’
Kỉ Sửu phân kim . quẻ Phệ Hạp

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/29/20/37/13409770282044760186_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1459146026)

TTN chú : Song tinh đáo hướng . Phương Khảm là sinh khí, Phương Ly phạm “ phục ngâm”. Tứ vận “ nhập tù”. Tọa sơn với trung cung cũng là 1-4 đồng cung, đầu hướng có nước, thì phú quý song toàn.
CNM chú giải: Thất vận Sửu sơn Mùi hướng hạ quẻ thích hợp nhất với địa hình bằng phẳng, hướng trên có thương bàn thủy đảo triều( nước ở ruộng từ xa mà tới gần, do từ cao dần dần tới thấp đến bái đường), phía sau với hướng trên phương xa đều có ngọn núi cao đẹp cùng chiếu sáng, đây là hình thế đẹp nhất. Hồi long cố tổ xoay chuyển thành long cách, từ Mùi khởi Tí, qua Bính, Thìn đến Giáp lại khởi tinh phong, tỏa xuống ruộng vườn rồi xuyên vào mạch, đến Sửu thì thay đổi thành nghịch tử, vẫn là mặt đất.
Nếu 3 phương Ly, Khôn, Đoài đều gặp nước , dương trạch có môn lộ tương thông, vẫn là “ Âm thần mãn địa thành quần, hồng phấn trường trung không khoái lạc” thì chủ xuất là kẻ dâm đãng háo sắc, 2-4, 7-4 là sao âm.
Tọa sơn 1-4, lấy bố cục là bình dương, phía sau phương xa mà có nước như là ghế gập, ngọc đối bao quanh, hoặc ao hồ hình tròn sáng như gương, thì tài năng xuất phú quý. (Khoảng cách khoảng 10 trượng)

Sơn | Chủ ứng của cát hung
Khảm | Đau đầu, các bệnh về gân cốt, mất con người
Khôn | Xuất là người nho nhã tú sĩ, thích hợp với những ngọn núi đẹp
Chấn | Bát vận xuất phú quý, con đường công danh kì diệu
Tốn |Cửu vận vượng đỉnh, xuất phú quý, thích hợp với những ngọn núi nhỏ.
Càn |Bị vật nặng đè thương, cuất tăng ni
Đoài |Kiện tụng, tử hình, mẹ con bất hòa, giam cầm
Cấn |Thích hợp với những ngọn núi ở xa, thượng nguyên phát khoa giáp
Ly |Nhân đinh bất khuê, có thì cũng ngu đần, mắc các bệnh về tim, mắt


Thủy | Chủ ứng của cát hung
Khảm | Bát vận xuất phú quý, con đường công danh kì diệu
Khôn | Đương nguyên phát tài, văn hóa nghệ thuật xuất danh nhân
Chấn | Con trai trưởng phá sản, bỏ đi
Tốn |Con trai trưởng phá sản, mắc các bệnh về tim, mắt, lở loét
Càn |Kiện tụng, ngục tù, các bệnh về gan, chân
Đoài |Ung thư, bị vật nặng đè lên, bệnh dạ dày
Cấn |Nếu được ánh sáng của nước chiếu sáng thì phát khoa danh
Ly |Cửu vận phát tài. Thích hợp với những dòng sông nhỏ, ruộng nhỏ

vanhoai
30-06-12, 20:31
TNL chú giải:

Vượng lịnh song tinh đáo hướng, cần tiền diện có thủy, ngoài thấy án sơn. hậu diện có viễn thủy ôm huyệt, chủ vượng đinh tài. Tốt nhất là dùng ở đất bình dương. Tọa thủy kỵ long cách, Khảm cung 638 hướng tinh với vận hợp 3-8, lại là bát bạch Thổ sanh lục bạch. Lục hợp nguyên đán bàn 1- 6 là số sanh thành chủ xuất hiếu tử hiền tôn, 6- 8 phát võ khoa. Song lịnh tinh đáo hướng, tọa sơn hướng là nhập tù, nhất vận là nhập tù, nếu Thìn phương có thủy thì có thể cải được nhất vận nhập tù, không bại tài thì tổn gia trưởng, ngũ hoàng là hung tinh nên cần trồng trúc để giải hung khí. Càn phương 283, Đoài phương 392 kỵ có hình khí sơn thủy, nếu phạm tức là môn ngưu sát, chủ bị quan hình.

http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/06/30/19/58/13410611361634647964_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1459900678)

Đoài phương hướng tinh nhị hợp nguyên đán bàn, 2 - 7 lại là bổn vận thôi quan thủy, có viễn thủy thì phát tài,thấy sơn thì xuất tử tôn hung bạo. Ly cung thấy sơn, Tốn cung thấy thủy. ( Huyền không bí chỉ nói : Gần Đinh tổn thương quan, đinh tài vì vậy mà hao tán). Dương trạch môn nghi tại Mùi cung 747, chủ xuất mỹ nữ phát tài, tại Khảm phương 638 phát võ tài quý vượng đinh.
Tọa Thìn Sơn, sàng vị môn nghi tại Tuất Thìn. Tọa Mùi Sơn môn nghi tại Mùi Thân Thìn. Tọa Tuất Sơn môn nghi tại Thìn Giáp Mùi Nhâm.

vanhoai
05-07-12, 20:48
7. SỬU SƠN MÙI HƯỚNG KHỞI TINH

Kiêm Qúy Ất Sửu phân kim. Quẻ Chấn Tọa Từ 20.5 đến 25.5 độ
Kiêm Cấn Qúy Sửu phân kim. Quẻ Tùy Tọa Từ 34.5 đến 37.5 độ


http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/07/05/20/10/13414938012016838185_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1464069283)

TTN chú: Phương Tốn là đương nguyên vượng thủy. Phương Chấn là sinh khí. Phương Bính có thể dùng “ Thành môn quyết”. Lục vận “ nhập tù”.
CNM chú giải: Phương Tốn hướng tinh 7 ( Đoài là gái út) , 1 ( Khảm là anh thứ 2 ) , 6 ( Càn là cha) ; phương Tốn nếu có thủy phát quang, thì chủ ai ai cũng phát tài, xuất văn võ phú quý. Phương Chấn có nước, cũng phát tài, hơn nữa chịu ảnh hưởng của sơn hướng 9 - 8, vẫn là “ phụ lâm Đinh Bính, vị liệt triều ban”, “bát phùng tử diệu, hôn hỉ trùng lai”, chủ bát vận sẽ xuất phú quý, kết hôn, sinh con, việc vui trùng phùng. Phương Bính vận tinh 2, 2 nhập trung, ải đến Bính là Thất Xích tức phá quân vượng khí đến Bính. Dùng “Thành môn quyết”, phương Bính có thủy triều đến, tuy vượng tài, nhưng Nhị Hắc là sao bệnh tật, khó tránh khỏi bệnh nan y, và cũng xuất quả phụ. Hơn nữa Bính với Mùi không hợp, mà biến thành môn phụ, tên là “ mượn kho”, không thể phú quý được.


Sơn | Chủ ứng của cát hung.
Khảm| Vợ thứ sinh quý tử, thích hợp với những ngọn núi đoan chính.
Khôn | Thích hợp với núi, bên trong núi có hồ nước. Bát vận, cửu vận thì phú quý .
Chấn | Vượng đinh, hôn hỉ cùng đến, thích hợp với ngọn núi đẹp, xuất quý tử .
Tốn |Thúc quan, thúc đinh, thích hợp với những ngọn núi cao đẹp.
Càn |Tổn hại đến con người, bệnh gan, chân. Xuất trộm cướp, bạo ngược.
Đoài |Phụ nữ nắm quyền gia đình, không giữ được trinh tiết.
Cấn |Thiếu con trai, kị với những ngọn núi cao.
Ly |Nếu có núi hiểm trở thì chủ quái dị, tinh thần bất an.


Thủy | Chủ ứng của cát hung
Khảm| Nhất vận phát tài, kị với những dòng nước chảy xiết
Khôn | Có nước mà không có núi, bát vận tổn đinh, cửu vận phát tài
Chấn | Liên tục phát tài, điền viên phú quý thịnh vượng
Tốn |Nhà nhà phát tài, xuất văn nhân, phú quý
Càn |Đánh bạc, tổ chức đánh bạc, nhà cửa tan nát, phá sản, buôn lậu, buôn bán thuốc phiện
Đoài |Nếu là phụ nữ thì đanh đá chua ngoa, không giữ được trinh tiết, mắc các bệnh về gan.
Cấn |Đánh bạc, tổ chức đánh bạc thì nhà cửa tan nát, phá sản, ung thư gan, tàn tật .
Ly |Nếu thủy từ phương Bính thì tuy phát tài nhưng nhiều bệnh tật.

vanhoai
11-07-12, 19:05
TNL chú giải:

http://d.f12.photo.zdn.vn/upload/original/2012/07/11/18/36/1342006607283919539_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1469064626)

Thất xích vượng lịnh tài tinh đáo Tốn cung, Thìn phương 167 cần có thủy, ngoài thủy thấy có tú sơn thì phát tài và xuất nhân đinh mỹ lệ. Nếu chỗ này mà khuynh tà, thủy phản khiếu thì xuất người ham mê tửu sắc mà phát tài. Dương trạch môn tại Thìn phương 167, chủ phòng phòng đều phát tài, văn võ quý.
Vượng lịnh đinh tinh đáo Khảm phương 731 nghi có sơn viên tý, chủ sanh quý tử, sư ca mỹ nữ. Trên sơn có tiểu trì thủy thì phát tài xuất quý. Hướng thủ 849 có tiểu án sơn, thấy thủy 8 gặp tử diệu, chủ hôn sự tốt đẹp
Dương trạch môn tại Giáp phương 958. Âm trạch thấy tú thủy ám hợp nguyên đán bàn 38 chủ gia phát tài quý, là Tả phụ đến Bính Đinh vị phát triều ban (quan lớn), chủ bát vận phát điền trạch tấn tài, kỷ khánh trùng trùng. Bính phương nên làm thành môn, tọa hậu thấy sơn thì ít nhân đinh, bịnh gan, nạn xe, thấy tiểu thủy ở xa hoặc ám thủy chủ phát tài, là biến cách thành môn của thủy.
Dương trạch môn nghi tại Thìn Thân phương, chủ xuất quý vượng tài. Bính phương thì nhiều bịnh.
Tọa Thìn Sơn, sàng vị môn nghi tại vượng tinh nhập tù Thìn Giáp
Tọa Mùi Sơn, môn nghi tại Nhâm Mùi Giáp. Tọa Tuất sơn, môn nghi tại Thìn Giáp Mùi.

vanhoai
13-07-12, 20:01
9.CẤN SƠN KHÔN HƯỚNG HẠ QUẺ


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/07/13/19/09/13421813542142091667_574_0.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/dt/vanhoaibee/apps/photo/album/photo-detail/id/1470759101)

TTN chú : Song tinh đáo tọa. Phương Ly là sinh khí. Phương Mão phạm “phục ngâm”. Phương Càn không thể có thủy. Phương Dậu có thể dùng “ Thành môn quyết”.
CNM chú giải: Bố cục này phía sau là tinh khí của thủy, sơn đương vượng, thích hợp với bình dương địa cục, phía sau có ruộng nước, ngoài ruộng nước ra còn có một ngọn núi nhỏ, như vậy sẽ được phú quí. Con người trên thế gian này đều mong muốn giàu sang phú quý mà dẫn đến phá sản, tử vong, chết người, ngược lại không được sự bình an như dự định, cần được yên ổn, phát triển. Phải biết rằng người được giàu sang như thế là do trời định, không phải được như thế là chỉ dựa vào địa lí, mà điều quan trọng nhất là phải có số tích đức.
Phương Mão này là phương Chấn Tam Bích, sơn bàn ải tinh 3 đến phương này, như vậy chính là “ phục ngâm” sơn tinh phạm “ phục ngâm”, “phản ngâm”, điều đó khó có thể tránh được, nhưng lấy lại sơn hướng là đại kị. Vùng đất thích hợp với “ phục ngâm”, “ phản ngâm” là vùng đất bằng phẳng, rộng rãi, thì mới không phát hung được.

Sơn| Chủ ứng của cát hung
Khảm| Thiếu nhân đinh hoặc xuất người ngu xuẩn, thậm chí có thể tuyệt tự
Khôn |Xuất văn nhân, nếu có núi thấp là tốt nhất, núi nên ở phương xa mà không gần
Chấn | Núi lớn mà gần thì chi trưởng tổn đinh, xuất liệt tử
Tốn |Bệnh tì vị, người trong nhà không hòa thuận, tai nạn xe cộ
Càn |Phương xa có núi cao thì cửu vận xuất nhân đinh.
Đoài | Bát vận vượng đinh, xuất người trung hiếu, hiền lành.
Cấn |Có sơn mà không có thủy thì phá tài, kiện tụng quan trường , thương tàn.
Ly |Nếu phương xa có núi thì thuận hòa, vui vẻ, bình yên.


Thủy | Chủ ứng của cát hung
Khảm | Nếu có dòng nước sâu ở phía xa,nếu có dòng nước gần chảy thẳng vào thì gia chủ bị bệnh về mắt.
Khôn | Văn chương khoa giáp thanh danh, thủy nên nhỏ và có hình tròn.
Chấn | Bệnh tì vị hoặc bị vật nặng đè lên mà bị thương.
Tốn |Kiện cáo, bị chết vì tội tử hình, đau đầu, các bệnh về chân.
Càn |Mù lòa, hỏa hoạn, buôn bán thuốc phiện già bại nhân phong
Đoài | Chi trưởng thoái tài, kiện tụng quan trường, bệnh phổi.
Cấn |Phát tài, nữ nhân tương trợ
Ly |Phát tài, giàu có, xuất người hiền, hiếu thảo.


Kim thủy đa tình. Đam mê tử sắc

Bố cục này nếu phía sau có núi mà núi cao hiểm trở, trước mặt thì có ánh sáng của nước chiếu sáng, thì chủ xuất là kẻ lang thang, du đãng; vì hướng tinh ở đầu hướng 1 – 4 là thủy Khảm, phong Tốn, thủy với phong đều là lưu động cả. Nếu không đương lệnh thì chính là dâm, là đãng. Phía sau chịu ảnh hưởng của 7 - 1 . Đoài 7 là mồm, là thiếu nữ , là kĩ nữ, là tính cách, 7-1 tổ hợp, có ý nghĩa là đam mê tửu sắc. “Huyền không bí quyết” có viết” “ Dậu kết giao với Tí mà nghiêng ngả, thì chủ ắt sẽ lang bạt” lại viết : “ Kim thủy đa tình. Đam mê tử sắc”. Chủ đam mê tửu sắc, phá gia sản, lang thang tha hương. Ngày 19 tháng 6 năm 1984( Dương lịch) ở thành phố Đài Trung nhận lời mời của ông Tạ, đến nghĩa địa dưới núi hỏa diệm Bình Lâm Lí thị trấn Thảo Đồn huyện Nam Đầu kiểm tra mộ phần của vợ ông ta, nơi này núi hình hung thần, là hình liêm trinh hỏa tinh, nghĩa địa xây ở đây là lưu tuyền ( dòng suối chảy), màu đất thì đen, ẩm ướt. Mộ xây tại Cấn hướng, Khôn Tân sửu phân kim. Quẻ Minh Di hào 3, tiên mệnh Bính Tí. Tác giả phán đoán rằng: “ Đất nơi này ác sơn ác thủy không thể kết huyệt được. Kim ông nhập thủy. Xuất là kẻ lang thang bại gia” ông Tạ vừa khóc vừa nói : “Phong thủy này hoàn thành chưa lâu, con trai( con trai cả sinh năm Bính Thân 1956, đã kết hôn sinh được 2 con gái. Đứa con thứ hai sinh năm Mậu Tuất, chưa kết hôn, một đứa thì mê nhảy nhót vũ nữ, một đứa thì đam mê rượu chè, ngoài ra còn cờ bạc rượu chè trai gái, hơn nữa còn lấy trộm sổ phiếu chi của ông ta, để ăn uống chơi bời cờ bạc, rồi trốn khỏi gia đình.

vanhoai
19-07-12, 15:51
TNL chú giải:

Kiêm Sửu ẤtSửu phân kim. Quẻ Tùy
Tọa Từ 37.5 đến 40 độ

Nhất lục nhập cung Trung, khoa giáp công danh toàn vẹn (âm trạch).
Vượng lịnh tài tinh đáo Càn Đoài hướng tinh 7 8 là thiếu nam thiếu nữ chánh phối, có thủy hợp 1 hồ thì chủ phu thê hòa hợp, gia đình an lạc, ngoài thủy có viễn tú sơn, chủ đinh tài lưỡng vượng, phát tài 40 năm, hỷ sự trùng trùng. Nếu thấy sơn ở gần phá hoặc bức áp hoặc phản cung tại Ngọ Cấn thì chủ giang hồ tửu sắc, nam nữ dâm loạn phá tài
Tử Bạch quyết nói : 7 9 hợp triệt thường gặp hồi lộc chí tai, xấu
Niên tinh 2 5 3 9 đáo, Thái tuế đến Càn thì bị hỏa tai. Vượng lịnh đinh tinh đáo tọa sơn 1 79 thì hậu diện cần có Thổ sơn hình vuông để chế hỏa, tốt nhất là thấy gò đất thổ hình, phía ngoài xa lại có trì thủy bao bọc tú sơn, thất vận vượng đinh, xuất sư ca mỹ nữ, cửu vận phát tài
Hai phương Cấn Khảm có hình khí sơn thủy thì chủ bịnh hoạn, xuất cô quả. Khôn phương thấy sơn thủy thì xuất người ngu muội. Ở Chấn thì xuất trộm cướp.
Dương trạch môn tại Càn phương phát hoạnh tài, môn tại Đoài 9 88, bát vận được cự phú, nhiều hỷ sự


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/07/19/15/22/1342686176438110743_574_574.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/vanhoaibee/album/photo-detail/id/401888046)

vanhoai
08-08-12, 06:53
CẤN SƠN KHÔN HƯỚNG KHỞI TINH

TTN chú: Phương Càn là vượng thủy đương nguyên, phương Dậu là sinh khí, hơn nữa có thể dùng “ Thành môn quyết”. Phương Mão phạm “ phục ngâm”. Phương Tốn không nên có thủy, chủ phá tài hoặc bệnh nặng mà chết.


http://d.f11.photo.zdn.vn/upload/original/2012/08/08/06/21/1344381697941622_574_574.jpg (http://me.zing.vn/apps/photo?params=/vanhoaibee/album/photo-detail/id/417857552)

CNMchú giải: Bố cục này phù hợp với có dòng nước ẩn chảy về hướng Dậu Tân rồi tụ thành ao hồ, phương Dậu Tân có nhiều núi ở bên ngoài hồ nước, như vậy chủ Bát vận giàu có nhất vùng, nhân đinh thì đại vượng mà thành một dòng họ lớn. Phương Tốn và phương Khảm đều chịu ảnh hưởng của sao 2 -5 . Theo như “ Tử bạch quyết thì “ hắc hoàng ủ bệnh, kham thương”, “ nhị ngũ cùng đến một cung thì bệnh tật mà tổn chủ” . Phương Tốn có sơn, phương Khảm có thủy, xuất đàn ông góa vợ , đàn bà góa chồng, con nhỏ thì tiều tụy, võ vàng, bệnh tật mà tử vong. Ải tinh của hai phương Chấn, Khôn là 3-4. Theo như “ phi tinh phú” thì “ nếu có hai sao này cùng đến Chấn, Tốn thì tạo nên những việc mờ ám, bất thường”, chủ xuất người không biết đúng sai, không biết tiến lui, thay đổi bất thường. Phương Chấn có, “ thám đầu sơn” thì chủ xuất kẻ trộm cắp, gian tà, bất chính. Phương Khôn có “văn lam sơn” thì chủ xuất kẻ ăn xin, ăn mày.


Sơn |Chủ ứng của cát hung
Khảm| Bệnh tật, tổn nhân khẩu, xuất người hung bạo
Khôn |Xuất văn nhân nhưng nhu nhược, bệnh về đường gan mật, bệnh ở chân tay
Chấn |Xuất người thay đổi bất thường, sợ việc
Tốn |Phá tài, thất bại, bệnh tật, tử vong, làm các chuyện gian ác, xấu xa
Càn |Cửu vận vượng đinh, nếu có sơn thì cũng không được quá gần
Đoài |Bát vận vượng đinh, phù hợp với núi có hình chữ “ thổ”
Cấn |Vượng đinh, núi phải là núi thấp, đỉnh bằng và tròn nhỏ
Ly |Có tiếng tăm về văn chương nhưng thoái đinh tài, nên có sơn thủy tương phù


Thủy| Chủ ứng của cát hung
Khảm |Phá tài, bệnh tật, ung thư, tử vong
Khôn| Xuất người không biết đúng sai, thay đổi bất thường hay sợ việc
Chấn |Xuất tú sĩ, người nhu nhược, ung thư vú
Tốn |Bệnh tật, tổn người, chi trưởng phá tài, thất bại
Càn |Thích hợp nhất là có ám thủy, như vậy đương nguyên phát tài
Đoài |Bát vận phát tài, hôn hỷ trùng lai
Cấn |Tổn đinh, bệnh đường máu, có ám thủy thì cửu vận phát tài
Ly |Xuất khoa giáp, công danh, thủy nên hình tròn và sáng

Thientam
08-08-12, 19:30
Anh vanhoai, ở Ly sao 6-1, la Tử khí ở vận 7, để Nước ở đó là phạm Thuỷ rồi.
Monh anh giải thích thêm

1268
11-08-12, 21:11
Anh vanhoai, ở Ly sao 6-1, la Tử khí ở vận 7, để Nước ở đó là phạm Thuỷ rồi.
Monh anh giải thích thêm

Bạn lưu ý ở đây là cặp số 6-1 nhé, và thủy ở đây có yêu cầu riêng nhé!

vantinh1983
15-08-12, 16:17
xin anh văn hoài và mọi người chỉ giúp tại sao em đọc các phần của huyền không phi tinh thì em thấy phần thướng sơn hạ thuỷ thì lại thấy khu vực khí sinh vượng của hướng tinh cần có nước. nhưng lại thấy phần linh thần và chính thần linh thần cần có nước chính thần không đước có nước. mà thuỷ lấy suy làm vượng thì khu vực hướng tinh vượng khí thành suy khí mà sao lại nói là cần có nước .
mong anh và các ban giải thích giúp.

1268
15-08-12, 17:40
xin anh văn hoài và mọi người chỉ giúp tại sao em đọc các phần của huyền không phi tinh thì em thấy phần thướng sơn hạ thuỷ thì lại thấy khu vực khí sinh vượng của hướng tinh cần có nước. nhưng lại thấy phần linh thần và chính thần linh thần cần có nước chính thần không đước có nước. mà thuỷ lấy suy làm vượng thì khu vực hướng tinh vượng khí thành suy khí mà sao lại nói là cần có nước .
mong anh và các ban giải thích giúp.

Bạn phải tách rời chúng ra, chứ không thể gộp lại như vậy được. Chính thần và linh thần thì linh thần cần thủy, chính thần cần sơn là đúng rồi.

Tuy nhiên, khi an trạch vận thì hướng tinh là sinh vượng khí thì cần có thủy cũng là đúng luôn.

Vậy khi hai cái này chùng nhau thì là tốt nhất, còn khi chúng không chùng nhau thì ta ưu tiên sử dụng cái nào trước và khi nào, cái đó bạn nên để ý.

vantinh1983
16-08-12, 16:10
cảm ơn bạn đã giải đáp
bạn cho mình hỏi huyền không phi tinh khi làm nhà chọn hướng có liên quan gì đến cung phi bản mệnh không?
ở bát trạch thì chia làm đông tứ trạch với tây tứ trách nếu người đông ở bên tây thì không tốt.
ở huyền không phi tinh thì căn cứ vào tạo hướng, hướng vượng để làm như trong vận 8 này
thì đông bắc vượng hướng người có mệnh đông tứ trạch ở vẫn được .
nhưng theo bát trạch lại không được vì người đông tứ trạch sang ở nhà tây tứ trạch là xấu. hai cái trái ngược nhau không biết có ảnh hưởng gì không

annhien
16-08-12, 17:20
cảm ơn bạn đã giải đáp
bạn cho mình hỏi huyền không phi tinh khi làm nhà chọn hướng có liên quan gì đến cung phi bản mệnh không?
ở bát trạch thì chia làm đông tứ trạch với tây tứ trách nếu người đông ở bên tây thì không tốt.
ở huyền không phi tinh thì căn cứ vào tạo hướng, hướng vượng để làm như trong vận 8 này
thì đông bắc vượng hướng người có mệnh đông tứ trạch ở vẫn được .
nhưng theo bát trạch lại không được vì người đông tứ trạch sang ở nhà tây tứ trạch là xấu. hai cái trái ngược nhau không biết có ảnh hưởng gì không

Mình nghĩ Bạn nên sang mục Hành Lang phong thủy huyền không phi tinh (theo link bên dưới) đặt câu hỏi, tránh làm loãng chủ đề của Bác Văn Hoài.

http://huyenkhonglyso.com/showthread.php?t=123&page=33

Thân mến!

Thuandd
14-11-12, 11:54
sao các hình đã post trong bài mấy trang đầu bị mất hết vậy anh Hoài. Có cách nào để các anh em đến sau được học hỏi với. Xin cám ơn!

sontrungg
18-11-12, 12:12
sao các hình đã post trong bài mấy trang đầu bị mất hết vậy anh Hoài. Có cách nào để các anh em đến sau được học hỏi với. Xin cám ơn!
Tôi có sưu tầm được cách lấy lại hình ảnh,Các bạn chịu khó làm như sau sẽ được:
Cách xem lại hình khi đã bị chuyển sang zing me
________________________________________
Từ trước đến giờ nơi cho các mem post ảnh hầu hết qua web photo.zing.vn. Hiện giờ trang web này đã đóng nên gần như tất cả các ảnh đều bị chuyển sang zing me. Chính vì vậy ảnh trong chữ ký,bài viết của các mem đều bị die.
mình xin được chỉ các bạn một cách dể xem lại hình các bạn chịu khó một tí thì sẽ xem được hình thôi.
bước 1:
Di chuyển chuột đến ảnh hiển thị đã bị chuyển sang zing me
bước 2:
nháy phải chuột chọn copy image location
bước 3: mở một tab mới sau đó paste vào ô địa chỉ
chú ý: bạn hãy xóa cụm từ img.photo.zing.vn trong ô địa chỉ sau từ http://... và thay thế cụm từ img.photo.zing.vn bằng cụm từ d.f2.photo.zdn.vn nhé!
mỗi lần chỉ xem được một hình thôi.

nvlongsson
17-05-13, 11:41
thành viên mới xin chào cả nhà .
mong được học hỏi.
cám ơn nhiều

digifellow
09-07-13, 19:40
Cám ơn anh Vanhoai. Ngóng trông phần tiếp theo của anh

vanhoai
09-07-13, 20:15
Cám ơn anh Vanhoai. Ngóng trông phần tiếp theo của anh

Đề mục quá nhiều, anh sẽ cố gắng post tiếp để những người mới học Huyền Không có thêm kiến thức thực nghiệm hầu nâng lên những phần cao hơn.

1268
19-07-13, 15:56
Do anh Văn Hoài quá bận, nên 1268 xin được viết tiếp phần luận giải 48 cục hạ quái và 48 cục khởi tinh (thế quái) cho vận 7 và vận 8, để các bạn đang nghiên cứu Huyền không phi tinh có điều kiện ngâm củ tỏi..hì.hì.


11. MÙI SƠN SỬU HƯỚNG HẠ QUẺ

http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/19/15/47/872072151_1832308043_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/872072151)

Mùi sơn Sửu hướng 27’ đến 33’ quẻ Tỉnh

Chu Nghĩa Minh chú giải:Lệnh tinh hội hợp ở tọa sơn. Phương Giáp là sinh khí. Phương Nhâm là suy khí.
Trong “ Nhập địa nhãn” có viết: Cấn long khởi tổ, từ Hợi đi tới Mùi kết thành huyệt đạo, có phúc lớn, còn vật chất thì bình thường, không phải là thật sự giàu có. Ở đây do khí mạnh không rõ ràng, hơn nữa lại là Hợi nhập vào Long thủ. Trong Cửu vận, ngoài Nhất vận là long sinh vượng của Mùi sơn ra còn lại tất cả đều không thể có được phú quý lớn. Những người ở trong vị thế này, Sửu Long trở mình, phương Giáp có nước, phía sau cũng có nước bao quanh đem lại phú quý vẹn toàn. Nếu ở phía sau chủ sơn cao lại không có nước, chủ yếu xung khắc với vợ, tù đày, thổ huyết, liên quan tới kiện cáo hay gặp phải trộm cướp.

Phương Nhâm là sát khí: Lục Bạch thủy ở phương Nhâm là suy khí, không phải là sát khí. Ở vị trí này chỉ thích hợp với nước xa không nhìn thấy. Nếu nhìn thấy nước lớn chảy xiết thì chủ về không tốt, thường là người thất bại trong việc dùng tiền để tranh cử. (Dân gian vẫn có câu như: Đã ốm còn ra gió), Bát vận tổn hại tới người. Sát khí ở vị trí này là thủy thuộc Ly, Càn, Đoài và sơn thuộc Tốn, Càn, Đoài.

Hướng lên trên 1 - 4 giao hòa với nhau, chủ về văn phong nho nhã, sách thơm còn lưu truyền mãi.


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/19/15/43/872068245_240284999_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/872068245)

Chú ý: Trung cung 1 – 4, hình dáng kiến trúc của gia trạch, phần mộ đẹp, sản sinh ra những người tài giỏi về văn thơ.

Thái Nhất Lương chú giải:

Thất xích song vượng tinh đáo tọa sơn, nghi hậu diện có khởi đất cao, bên ngoài có thủy trì, chủ kinh doanh mà giàu có, chế tạo đồ trang điểm, dụng phẩm hoặc nội y của nữ nhân thì phát đại lợi. Hướng thủ có sơn văn bút tú lệ triều án thì đời đời thư hương bất tuyệt, đổ khoa cử.

Dương trạch kỵ khai môn, nếu phạm thì bịnh thư sanh (thông minh mà vô dụng), dâm phụ đãng tử, trong Dương trạch nên làm thiên tĩnh, chủ xuất sư ca mỹ nữ, tú sĩ. Cuộc này cần hồi long cố tổ thì tốt, Nhâm long nhập thủ thâu Giáp phương thủy lai, hướng thủ có văn bút sơn trùng trùng triều án, hạ mạch xuống bình điền, hình khai oa kiềm, thủy xuất Bính khẩu thì nhất định đại phú quý đinh tài thọ khảo. Chấn phương có thủy, nghi tại Giáp phương là quái khí thanh thuần, thủy tại Mão phương thì có tài lộc mà dễ bị sét đánh là đấu ngưu sát đại hung, Đoài phương có tú sơn thì thôi quý mà không là đất sát.

Hợp 27 có thủy thì quý tử mà bất hiếu. Tọa Sửu Sơn, sàng vị môn nghi tại Mùi Nhâm Bính Cấn. Tọa Thìn Sơn, môn nghi tại Tuất Thìn, Tọa Tuất Sơn, môn nghi tại Thìn Giáp Mùi Khảm.

1268
24-07-13, 14:41
12. MÙI SƠN SỬU HƯỚNG KHỞI TINH


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/24/14/13/877673084_1937850401_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/877673084)

Kiêm Đinh, Nhâm Ngọ phân kim. Quẻ Tốn. Tọa từ 202,5 đến 207 độ
Kiêm Khôn, Đinh Mùi phân kim. Quẻ Cổ. Tọa từ 213 đến 217,5 độ

Chu Nghĩa Minh chú giải:

Phương Nhâm là đương nguyên vượng thủy. Phương Mùi là sinh khí. Nhị vận “nhập ngục”. Nếu phương Nhâm có nước, chủ về tài lộc tấn tới, hơn nữa diện mạo lại đẹp đẽ. Trong “Phi tinh phú” có viết: “ Phá cận văn tham, tú lệ nãi ôn nhu chi bản”.

Trong “ Phi tinh phú” cũng có viết: “ Bích, lục phong ma, tha xử liêm trinh mạc kiến”. Đồng thời cũng có viết: “ Hàn hộ tao ôn, duyên tự tam liêm giáp lục”. Nếu nhìn thấy nước và bị chặn bởi ngọn núi cao và gần, dòng nước chính mang theo mầm bệnh truyền nhiễm, gây ra những tai họa bất ngờ.

Ở vị trí Nhâm thích hợp với những dòng nước ngoằn ngèo, nhưng cũng nên không nên quá gập ghềnh, khúc khuỷu. Tốt nhất là những hồ nước có hình tròn, phía ngoài hồ nước lại có những ngọn núi có hình dáng giống như giá bút hay bút nghiên. Nếu như vậy thì ở hướng này sẽ tài đinh lưỡng toàn, xuất tài tử quí nhân. Nhưng cũng không thể tránh khỏi những người tài tử danh sĩ này lại phong lưu đa tình.

Nhị vận “ nhập ngục” không thể thay đổi, cần phải tìm kiếm một thế cục khác.


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/24/14/08/877668104_1481937314_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/877668104)

Thái Nhất Lương chú giải:

Vượng lịnh tài tinh đáo Khảm Nhâm phương 3 17 có viên trì thủy quang sáng, kim thủy mỹ lệ chủ phát tài và xuất tài tử giai nhân, nếu có viễn tú sơn phối hợp thì càng tốt. Như thấy đất khuynh tà, thủy chảy nhanh tức là kim thủy đa tình thì xuất nam tửu sắc, nữ dâm loạn, bị lưu đày. Vượng lịnh đinh tinh đáo Tốn cung Thìn phương 6 71 nghi có sơn tú lệ, dưới sơn có tiểu thủy chi huyền. Phi Tinh Phú nói : “ Phá cận Văn Tham, tú lệ nãi ôn nhu chi bổn”, chủ xuất sư ca mỹ nữ, cần kiệm mà giàu. Hướng thủ 1 35, sơn tinh với nguyên đán bàn hợp 3 8 là biến cách thành môn của sơn, có viễn tiểu sơn làm án thì bát vận xuất trung lương hiền sĩ, nếu thấy thủy thì bị lây bịnh truyền nhiễm, ngũ hoàng thủy lại dẫn xuất trung cung 2, tức 2 5 giao gia, chủ tật bịnh tử vong, xuất cô quả.

Dương Trạch mà trung cung u ám không có ánh quang thì trong nhà thường thấy nữ quỷ, mê tín.

Tọa Sửu Sơn, sàng vị môn tại Thìn Giáp Mùi Nhâm. Tọa Thìn Sơn, môn nghi tại Tuất 7 trung Giáp Mùi. Tọa Tuất Sơn, môn nghi tại Thìn Giáp Mùi Nhâm Ly.

NhấtLụcTamBát
26-07-13, 22:58
Chào 1286.
Hai tinh bàn trên có sơn tinh bị sắp xếp không đúng, nếu vẽ lại tinh bàn theo sách của Chung Nghĩa Minh đang lưu hành trên thị trường VN thì phần tinh bàn mình nên xem kỹ lại sự sắp xếp các tinh.

1268
27-07-13, 10:09
Chào 1286.
Hai tinh bàn trên có sơn tinh bị sắp xếp không đúng, nếu vẽ lại tinh bàn theo sách của Chung Nghĩa Minh đang lưu hành trên thị trường VN thì phần tinh bàn mình nên xem kỹ lại sự sắp xếp các tinh.

Cám ơn bạn đã phát hiện, do lỗi đánh máy bạn à, sẽ sửa lại!

1268
27-07-13, 10:28
11. MÙI SƠN SỬU HƯỚNG HẠ QUẺ

http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/19/15/47/872072151_1832308043_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/872072151)

Phần ai tinh sửa lại lỗi đánh máy như sau:


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/27/09/46/880669240_1346324450_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/880669240)

1268
27-07-13, 10:29
[QUOTE=1268;48182]
12. MÙI SƠN SỬU HƯỚNG KHỞI TINH


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/24/14/13/877673084_1937850401_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/877673084)

Phần ai tinh sửa lại lỗi đánh máy như sau:


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/27/10/04/880695452_351515320_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/880695452)

1268
27-07-13, 10:37
13. KHÔN SƠN CẤN HƯỚNG HẠ QUẺ


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/27/10/04/880695486_442331984_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/880695486)

Khôn sơn Cấn hướng 42’ đến 48’

Chu Nghĩa Minh chú giải:

Lệnh tinh hội hợp hướng thủ. Phương Dậu là sinh khí. Phương Tý có thể dùng “Thành môn quyết”. Hai phương Cấn và Đoài đều có thủy có thể phát lộc 40 năm.

Trung cung và tọa sơn ở vị trí này đều là 1-4 giao hòa với nhau. Trong “ Huyền cơ phú” có viết: “ Danh dương khoa đệ, tham lang tinh nhập Tốn cung”; “ Khảm nguyên sinh khí, đắc Tốn mộc nhi phụ sủng liên hoan”. Trong “ Tử bạch quyết” cũng có viết: “ Tứ nhất đồng cung, chuẩn phát khoa danh chi hiển”; Tiên mệnh Nhâm Dần. Tọa Khôn Cấn hướng chính tuyến Kỷ Mùi phân kim. Quẻ Thăng Ngũ Hào. Vào giờ Tỵ ngày 15 Nhâm Ngọ tháng 12 Mậu Thìn (năm 1988) tiến kim. Con thứ (sinh vào giờ Sửu, ngày Nhâm Ngọ, tháng 8 năm Giáp Thìn) đã thi đỗ vào lớp tiến sĩ, trường Đại học Đài Bắc vào năm Canh Ngọ (1990).

Căn cứ vào: Năm Canh Ngọ Nhất Bạch nhập Trung, Thất Xích di chuyển tới Khôn, Tứ Lục đến Cấn, 1 -4 -7 ba quẻ Tam ban treo ở 1 - 4 – 7 của Trung cung hướng, sơn cùng 1 -4 phát khoa danh. Nhưng cũng cần phải có long chân huyệt. Phía đối diện có ruộng, có nước cứ hiện ra tầng tầng lớp lớp, thủy ngoại có hình dáng đẹp đẽ của hành văn, ngọc đới, kim đới và cũng có cả những tài, đinh, qúy, thọ.

Hai tướng Tý và Mão tuy có thể dùng “ Thành môn quyết” nhưng Thủy tinh của nó là 3 – 5 là sao xấu của Thất vận vì thế nó thích hợp với ám thủy, không thích hợp với minh thủy tỏa sáng. Ở vị trí Dậu có nước, phát tài Bát vận đặc biệt thịnh vượng. Nếu hình của nước phát sáng một cách tròn đều và đẹp thì chủ về phú quý, con đường tương lai chói sáng. Trong “ Tử bạch quyết” có ghi: “Bát lục văn sĩ tòng quân” hoặc “ tiền đồ rộng mở” hay “Bát phùng tử diệu, hôn hỉ trùng lai”, tức là chủ viết về kết hôn, tăng thêm nhân khẩu.

Trong “Huyền cơ phú” cũng có viết: “Phụ lâm Đinh Bính, vị liệt triều ban”. Ngọ, Đinh tiến tới rồng, chủ về được phú quý đủ đầy.


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/27/10/04/880695481_751891079_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/880695481)

1268
27-07-13, 10:38
Thái Nhất Lương chú giải:

Song lịnh tinh hội hợp tại hướng thủ 1 77 nghi thấy viên trì thủy, phía ngoài thấy viên tú song đài án sơn, chủ đinh tài lưỡng vượng, xuất tài tử giai nhân. Nếu dùng ở cao địa, tiền diện nghiên xuống thấp hãm tức bị lưu đày, phạm hình ngục, nữ dâm loạn, nam háo tửu sắc. Tọa hậu cần thấy văn bút sơn tú.

Tử Bạch quyết nói : “ 4 1 đồng cung chuẩn phát khoa giáp chi vinh”, chủ đời đời thư hương bất tuyệt. Cuộc này sơn ở Ly phương là bát bạch sanh khí, nên Ngọ long nhập thủ thì nhất định phú quý. Càn 8 59, Khảm 3 95, ở Càn thấy viễn thủy viễn sơn, ở Khảm có viễn tú sơn thì phát danh lợi khánh kỷ, trái lại thì đinh tài hao tán, bịnh hoạn, nhiều hung ách. Tốn 6 32, Chấn 5 32 là cung rất xấu, nên cần phải bình tịnh, nếu thấy sơn thủy thì hoạnh họa quan phi tang tóc.

Tọa Cấn Sơn, sàng vị môn nghi tại Cấn Ngọ Tí Khôn Đoài. Tọa Tốn Sơn, môn nghi tại Tốn Càn Đoài Khảm. Tọa Càn Sơn, môn nghi tại Càn Đoài Ngọ Cấn.

1268
29-07-13, 10:39
14. KHÔN SƠN CẤN HƯỚNG KHỞI TINH


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/29/10/06/882855126_937989742_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/882855126)

Kiêm Mùi, Sửu Ất Sửu phân kim. Quẻ Tùy. Tọa từ 217,5 đến 222 độ


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Lệnh tinh đến hướng. Hai phương Tý và Mão có thể dùng “ Thành môn quyết” ở phương Đoài có nước là sinh khí.

Ở vị trí này tọa sơn Ái tinh 3 - 4 , phía sau bị núi cao áp vào huyệt hoặc là cục diện phía sau lưng tựa vào nước. Trong “ Phi tinh phú” có viết : “ Đồng lai chấn tốn, muội sự vô thường”. Xuất hiện người giải quyết công việc không rõ ràng, thỏa đáng, thường xuyên như vậy, sau này sẽ gặp phải việc và không giám giải quyết một vần đề gì được. Ở phía trên lại có Ái tinh 7 – 9, nếu nhìn thấy rãnh nước và mương nước ở bờ ruộng thì là tốt. Nếu là nước lớn và mạnh mẽ, lại nhìn thấy núi thì theo “ Huyền không mật chỉ” có viết: “ Ngọ Dậu phùng nhi giang triều hoa tửu”, “Khai khẩu bút sáp ly phương, tất lạc tôn sơn chi ngoại”. Trong “ Phi tinh phú” cũng có viết: “ Xích Tử hề, nhưỡng tai hửu số”. Trong “ Tử bạch quyết” thì lại viết: “Thất cửu mệnh triết, thường tao hồi lộc chi tai”. Phản chủ háo sắc, hỏa hoạn (Lưu miên Tam Bích, Tứ Lục đáo hướng). Trong “ Huyền không mật chỉ” cũng có viết: “ Hỏa khắc kim kiêm hóa mộc, số kinh hồi lục chi tai”.

Kỵ Long tại Tốn, ở vị trí Tốn nếu thấy sơn thủy rõ ràng thì “ nhị ngũ giao gia” mắc phải bệnh tật mà tổn hại tới gia chủ, phần lớn là mắc các căn bệnh ung thư.


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/29/10/06/882855149_1898361059_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/882855149)

1268
29-07-13, 10:41
Thái Nhất Lương chú giải:
Vượng lịnh đinh tinh đáo hướng 1 97, nghi tiền diện bình tịnh thủy trì, hoặc có tiểu câu thủy (rãnh nước), ngoài thủy có án sơn tú lệ thì tốc phát tài quý, nếu thủy phản khiêu chảy nhanh, hoặc sơn trước mặt có loạn thạch tức Hỏa khắc Kim, chủ tổn thương thiếu nữ và nam nhân, gia tài hao tán. Huyền không bí chỉ nói ”Ngọ Dậu phùng chi giang hồ hoa tửu, nam nữ háo tửu sắc bại gia”. Nếu thấy khai khẩu bút sơn tại Ly cung thì công danh vô vọng. Tọa sơn 4 34 không nên có khí của sơn thủy, nếu có sơn thủy thì xấu ác, có thám đầu sơn thì làm đạo tặc, có thủy phản khiêu hoặc bát tự thủy thì nữ làm gái bán hoa, nhiều bịnh hoạn.

Hai cung Tốn Khảm kỵ có hình sơn thủy, 25 giao gia thì tật bịnh mà tổn sanh, sơn thủy hình ác thì càng ứng nghiệm, chủ xuất cô quả.

Đoài phương có sơn thủy tú phối hợp thì hỷ sự trùng trùng, sanh quý tử.

Dương Trạch môn nghi tại Cấn Đoài Càn.

Tọa Cấn Sơn, sàng vị môn nghi tại Càn Đoài Cấn Ly. Tọa Tốn Sơn, môn nghi tại 7 trung Càn Đoài Khảm. Tọa Càn Sơn, môn nghi tại Càn Đoài Cấn Ly.

1268
30-07-13, 10:41
15. THÂN SƠN DẦN HƯỚNG HẠ QUẺ

http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/30/10/06/883952881_1403266085_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/883952881)

Thân sơn Dần hướng hạ quẻ từ 57’ đến 63’

Chu Nghĩa Minh chú giải: Giống như Khôn Cấn hạ quẻ

Tọa sơn 1 – 4, có ngọn núi cao và đẹp, chủ về vượng nhân đinh, xuất người thông minh, tuấn tú. Nếu Nhìn thấy hang núi sâu hoặc động thì ngược lại đời sau sẽ bị suy tàn, lụi bại.

Phương Tân Dậu có tú thủy, chủ về văn võ toàn tài, xây dựng sự nghiệp chấn hưng gia đình, cha mẹ hiền từ lương thiện, con cháu hiếu thảo, lễ nghĩa.
Phương Đinh Ngọ có đoạn tú lai long tinh. Hai cung này nếu nhìn thấy sơn thủy tương phản thì xuất người cô quả, suy tài, suy đinh.

Hai cung Tốn và Chấn, Ái tinh 3 – 2, là sát khí, nếu nhìn thấy sơn thấy thủy thì về gặp họa, chịu cảnh ngục tù, bị chết bất ngờ.

Cung Càn thích hợp nhìn thấy thủy ở xa, cung Khảm thích hợp nhìn thấy sơn ở xa. Cung Càn kỵ nhìn thấy núi lớn, chủ về gặp hỏa hoạn, bệnh về mắt, bệnh về máu.

Chu Văn ở huyện Đài Trung sinh năm Kỷ Mão 1939, năm Nhâm Tuất 1982 đã bị chết bởi căn bệnh ung thư. Mộ của nười này là Thân sơn Dần hướng kiêm Khốn Cấn, tọa là Bính Thân phân kim hỏa thủy quẻ Mùi tế ngũ Hào. Vào 2 giờ 20 phút 14 giây chiều ngày 13 tháng 11 năm Nhâm tuất (giờ Nhâm Thân ngày Giáp Thân tháng Nhâm Tý năm Nhâm Tuất đã hạ huyệt mai táng, dùng thiên tinh để tạo mệnh, thủ kim, thủy tinh sẽ từ thái dương tới sơn, tam hợp thái âm. Mà người vợ góa của ông ta (mệnh Kỷ Mão) sau này lại phát tài, mua được rất nhiều đất đai, nhà cửa. Sách cổ cũng đã cho biết: “ Người vợ khuất bóng bởi người chồng, người chồng khất bóng bởi người vợ, trẻ nhỏ ba tuổi khuất bóng bởi bố mẹ”. Và ở bố cục này cũng chính là một trong những trường hợp người vợ bị khuất bóng bởi người chồng.


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/30/10/06/883952876_679111102_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/883952876)

1268
30-07-13, 10:42
Thái Nhất Lương chú giải:

Song lịnh tinh hội hợp ở hướng, nghi tiền diện có tiểu khê ( khe) thủy, ngoài lại có án sơn là kim thủy mỹ lệ, chủ phát tài và xuất sư ca mỹ nữ. Hậu diện mà có văn bút sơn hoặc bút giá sơn thì vượng đinh, xuất khôi nguyên văn chương, Mộc nhập Trung cung phượng trì thân quý, ở Dương trạch thì tại cung này nên an trí thư án, chủ công danh thăng tiến, đặt thư án ở trung cung hoặc làm thiên tĩnh thông khí thì xuất tài tử giai nhân, văn thư phát tài.

Chấn Tốn 5 23 và 6 32 có hình khí sơn thủy thì xuất nghịch tử, phạm quan hình lao ngục, nạn xe. Trúc Tiết Phú nói: Tốn Chấn phối Khôn Cấn, lão mẫu thiếu nam phạm tang gia. Nghi Đinh long nhập thủ thì phú quý, thủy khẩu cần tại Tân phương chủ văn võ lưỡng quý, hôn sự trùng trùng.

Ba cung Cấn Khảm Càn sơn tinh 7 9 5, thủy tinh 7 5 9 có sơn thủy thì đều phát đinh tài mà nhiều hung tai.

Tọa Dần Sơn, Sàng vị môn nghi tại Dần Đinh Qúy Khôn Đoài. Tọa Tị Sơn, môn nghi tại Tị 8 trung Hợi Đoài Cấn. Tọa Hợi Sơn, môn nghi tại Hợi Tân Dần Ly.

1268
31-07-13, 09:58
16. THÂN SƠN DẦN HƯỚNG KHỞI TINH


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/31/09/24/884966954_11714483_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/884966954)

Kiêm Canh, Giáp Giáp Dần phân kim. Quẻ Gia nhân. Tọa từ 244 đến 247.5 độ.

Chu Nghĩa Minh chú giải: Cũng giống như Khôn Cấn khởi tinh

Lệnh tinh đến hướng, sao xấu 7- 9 kết họp với nhau, thích hợp với nước ở xa, nước nhỏ, điền thủy, tĩnh thủy và núi ở xa hoặc án sơn nhỏ cân đối (nhất tự văn tinh là tốt nhất). Nếu như vậy thì ở phương này tiền tài và con người đều vượng. Nếu là nước lớn phơi bày ra trước mắt, là ngọn núi có đỉnh bị bức bách, thì trái lại chủ về hao tổn nhân đinh và tài sản. Nếu là ứng của loan đầu lý khí, một là cát, một là hung, điều đó là hoàn toàn phụ thuộc vào con mắt quan sát kỹ lưỡng của mỗi người, điều này là không thể không biết.

Ở phần Khôn sơn Cấn hướng khởi tinh của nguyên chú đã viết: “ Hai phương Tý, Mão có thể dùng Thành môn quyết”. Điều này là không đáng tin cậy. Quý Tý, Ất Mão nhìn thấy nước, thì chủ tài sản bị phân tán, nhất quyết không được sự dụng. (Dương trạch kỵ với cửa, đường, cửa cầu thang).

Ở phương Đoài song Bát hội hợp, sơn thủy đều là sinh khí, thích hợp với vị trí đều nhìn thấy sơn thủy, phát thiếu nam.

Phương Đinh Ngọ Ái tinh 1 – 6, nhìn thấy tú phong tú thủy, chủ về thi cử đắc lợi, công danh hiển đạt, tiếng thơm còn lưu truyền mãi. Trung cung có 1 – 6 hội hợp, kiến trúc hình dáng ngôi mộ thích hợp với cao lớn và tôn nghiêm. “ Huyền không mật chỉ” viết: “Hư liên khuê bích, khải bát đại chi văn xương”, chủ về xuất văn chương, nhà tư tưởng.


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/07/31/09/24/884966930_19365755_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/884966930)

1268
31-07-13, 10:02
Thái Nhất Lương chú giải:

Vượng lịnh tài tinh đáo hướng thủ 1 97, nghi tiền diện có tiểu thủy lưu hoặc tịnh thủy, ngoài thủy có Nga my tiểu án Sơn thì phát tài mà lại có danh. 9 7 là hung tinh đương lịnh hợp hình khí, chủ tốc phát tài, đắc thời lịnh hình khí hiểm ác thì đắc đinh tài mà phát đại hung cũng nhanh. Thấy đại sơn áp bức gần hoặc thủy chảy mạnh thì có thể đắc tài nhưng bị cháy nhà thiêu rụi. 9 7 xuyên đồ thường bị nạn hồi lộc, nặng thì toàn gia diệt vong.

Chấn phương là ngũ hoàng không nên làm thành môn, lại là phục ngâm nên cần phải bình tịnh, nếu có cao địa liên tiếp ở hướng thủ là sơn tinh hợp, 4 9 là tốt vì có thể thôi quan, vượng lịnh đinh tinnh đáo

Càn phương với vận tinh chánh phối, 8 79 nghi có thiên mã tú phong thì xuất luật sự pháp quan nỗi tiếng. Dưới sơn có tiểu thủy hoặc tú thủy trì thì cửu vận đắc tài nhiều hỷ sự. Tốn 6 52, Khảm 35.

Tốn phương kỵ gặp hình khí sơn thủy, truyền nhiễm tử vong, xuất cô quả. Khảm phương thành môn có thủy thì phát tài phú nhưng đa bịnh, cần trồng trúc để chận thủy quang hung xấu và được thông khí cát tường. Đoài sơn có thủy sơn phối hợp chủ xuất quý.

Tọa Dần Sơn, sàng vị môn nghi tại Hợi Tân Dần Ly. Tọa Tị Sơn, môn nghi tại Ất Thìn Hợi Khảm Đoài. Tọa Hợi Sơn, môn nghi tại Hợi Tân Dần Ly.

1268
01-08-13, 09:06
17. CANH SƠN GIÁP HƯỚNG HẠ QUẺ

http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/08/01/08/33/885995404_546705695_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/885995404)


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Phạm thượng sơn hạ thủy. Phương Thìn có thể dùng “Thành môn quyết”. Phương Cấn là sinh khí, thủy bao quanh huyền vũ, đương nguyên tiến tài, tuy phạm phải “ Phục ngâm” thì cũng không vấn đề gì. Nếu phương Thìn có tú phong, thì vận tiếp theo vào năm Nhâm Dần, Ngũ Hoàng sẽ nhập trung, Phi Tứ Lục đến Tốn, có thể nhập Phán.

Nếu sau tọa sơn có núi, phía trước lại có nước là phạm vào “ Phản ngâm” và “Phục ngâm”, chủ về tài và đinh đều lụi, gặp phải tai họa bất ngờ. Hơn nữa chủ lại mắc phải một số căn bệnh như dạ dày, bệnh gan, hỏa hoạn (bởi vì tọa sơn 2-7-9; 2-7 là tiên thiên hỏa số, 9 là hậu thiên hỏa số). Nếu đỉnh núi ở phía sau tọa sơn cân đối, bởi vì 2-7-9 là âm tinh (mẹ, thiếu nữ, trung nữ) thì chủ về phong thanh sửu văn. Trong quyết từng viết: “âm thần mãn địa thành quần” tạo ra một không khí lạc quan vui vẻ. Nếu hướng lên trên có thủy, chủ về tài sản hay bị trộm cướp, bệnh tật và còn bị dính dáng tới kiện tụng, nếu đường đi của nước nghiêng và dốc thì lại càng hung, đây chính là “Xuyên tâm sát”, chủ về bị đột tử.

Đã từng khảo nghiệm: có năm Kỷ Tỵ (1989) tạo nên phần mộ Canh sơn Giáp hướng, đến năm Tân Mùi (1991) từ tháng 10 đến tháng 11 chủ sự và con dâu liên tiếp gặp phải chuyện tang thương. (vào năm này 2 đến sơn, 7 đến hướng).


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/08/01/08/33/885995433_245314740_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/885995433)

1268
01-08-13, 09:07
Thái Nhất Lương chú giải:

Toàn bàn thượng sơn hạ thủy, thủy tinh lại toàn là phục ngâm, cần ở hậu diện có thủy, đương nguyên phục ngâm là chánh thần thủy, chủ phát y bốc nhân viên, tiền diện nghi có án sơn đẹp, tức đúng cách Canh Chấn hội cuộc văn thần võ tướng chi quyền.

Nếu dùng ở sơn địa bối sơn diện thủy, tức sơn thượng long thần hạ thủy, thủy lý long thần thượng sơn, chủ đinh tài đều bại, hướng thủ là xuyên tâm sát, chủ có tài mà thường bị cướp, buồn rầu sanh bịnh, hết bịnh thì càng xấu, chủ bị hoạnh tử. Hậu diện có sơn bức áp gần, 2 7 hóa Hỏa, thất (mất) thời lịnh thấy hung sơn hung thủy thì bị hỏa tai, thổ huyết, tử vong, toàn cung lại là âm thần nên nhiều nữ ít nam, về sau thì tuyệt tự, nam háo sắc tửu, nữ dâm loạn. Cuộc này trong Bảo chiếu kinh nói: Bổn sơn lai lâm long lập bổn hướng là phản ngâm phục ngâm đại học, tự vẫn, ly hương, hổ rắn cắn, làm giặc, tử hình.

Lai long từ Càn hướng Khôn ngang qua là hoành long cuộc kết bình địa huyệt, Càn cung Sơn tinh hợp 1 6 long nhập thủ rất tốt, Thìn phương nên làm thành môn, cấn Chấn thủy hợp 3 8, Ly Tốn thủy hợp 4 9 là thủy liên thành, chủ cát.

Tọa Nhâm Sơn, sàng vị môn nghi tại Bính Sửu Canh Khôn Tốn, Tọa Giáp Sơn, môn nghi tại Giáp Thìn Tuất Khôn. Tọa Bính Sơn, môn nghi tại Bính Nhâm Mùi Khảm Càn.

1268
02-08-13, 09:33
18. CANH SƠN GIÁP HƯỚNG KHỞI TINH


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/08/02/09/00/887113163_1256281455_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/887113163)

Kiêm Thân, Dần Bính Dần phân kim. Quẻ Phong. Tọa từ 247,7 đến 252 độ
Kiêm Dậu, Mão Giáp Dần phân kim. Quẻ Cách. Tọa từ 258 đến 262,5 độ


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Lệnh tinh đến tọa sơn, Đinh tinh “nhập ngục”. Phương Thìn có thể dùng “Thành môn quyết”. Mãn bàn phạm “Phục ngâm”, bố cục địa hình không bằng phẳng, đằng sau có nước, nhất thiết không thể dùng.

Vận tinh cửu đến sơn, địa nguyên của 9 chính là Bính, mà Ái tinh của Bính lại là Phá Quân, khi lấy 7 nhập trung theo chiều thuận, sơn quản nhân đinh. Sách cổ có viết: “Đinh tinh nhập ngục”. Điều này thể hiện muốn xuất nam đinh là vấn đề rất khó khăn, trừ phi có gia trạch hay phần mộ vượng đinh, nếu không thì nhân đinh sẽ rất ít ỏi.

Phượng Thìn Tứ Lục thủy là tử khí, không nên dùng. Ở cung này ái tinh 4 (Tốn) 6 (Càn). Trong “Huyền không mật chỉ” có viết: nước ở cung Tốn bao vây lấy Càn, chủ về treo cổ tự tử. Nếu nhìn thấy đoạn đầu sơn, hoặc đường của thủy như dây thừng thì chủ về tự sát, điều này tác giả cũng đã từng khảo nghiệm và đã có kết quả đúng như vậy. Đường đi của nước, nếu không sáng thì rõ ràng là dòng nước chảy xiết (khi có mưa mới có đường đi của nước) thì càng linh nghiệm.

Tinh khí của bố cục này, trong 9 Trung cung thì có tới 7 là không cát, nếu vậy thì tốt nhất là không nên sử dụng.


http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/08/02/09/00/887113186_49712548_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/887113186)

1268
02-08-13, 09:34
Thái Nhất Lương chú giải:

Vượng lịnh tài tinh đáo tọa sơn 9 97, nghi có viên trì tú thủy, ngoài thủy có thổ hình sơn. Là chế hóa 2 Hỏa khí hung đa cát thiểu, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim nên có thể đắc đinh tài, xuất danh nhân, đinh tinh nhập trung là nhập tù, cuộc này nhà ít đinh thì kỵ dùng, hướng tinh toàn cuộc lại là phục ngâm, trong cửu cung mà quái hung thì chiếm 5 6, nếu địa hình không tốt thì hung ra cát thiểu, không dùng, như dùng thì toàn gia diệt vong Tốn phương hướng tinh với vận sơn tinh 6 4 hợp thập có thể làm thành môn, thủy lộ kỵ như dây vòng cổ, chủ có tài dễ sanh treo cổ tự vẫn, phương này cũng kỵ thấy đoạn đầu sơn hoặc có đường lên núi, có hình như chữ U cũng bị họa treo cổ.

Hướng tinh 5 53 nghi bình địa, nếu thấy có hình sơn thủy là ngã khắc bỉ mà trở lại bị nhục, vì tài bạch mà họa táng thân, tàn tật, nạn xe, trong nhà thường phát sanh quái dị. Càn phương Tuất long nhập thủ xuất văn võ toàn tài, trung hiếu hiền lương.

Dương Trạch môn nghi tại Đoài Cấn Khảm tốt Tọa Nhâm Sơn, môn nghi tại Bính Sửu Cấn Tuất Khôn Tốn. Tọa Giáp Sơn, môn nghi tại 7 nhập trung Tuất Canh Cấn Khôn. Tọa Bính Sơn, môn nghi Khôn Giáp Thìn, thành môn Tuất

1268
02-08-13, 16:42
19. DẬU SƠN MÃO HƯỚNG HẠ QUẺ

http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/08/02/16/10/887644489_673523467_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/887644489)

Dậu sơn Mão hướng hạ quẻ từ 87’ đến 93’


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Lệnh tinh đến sơn đến hướng. Phương Cấn có thể dùng “ Thành môn quyết”, phương Khôn là sinh khí. Hai phương Khôn và Đoài phạm “Phục ngâm”.
Ngũ sơn Cấn Bính Tân Dậu Sửu vẫn Phá Quân tinh trực lệnh Thất vận đương vượng chi sơn.

Dậu sơn Mão hướng, nếu sau tọa có ngọn núi đoan chính, phía trước có thủy sáng, đẹp, vẫn hợp với bố cục của Thất vận chân chính thần và chân linh thần. Lai long và thủy pháp đều hợp, không có một chút gì sai lệch, là cách thứ nhất của Thất vận, phú quý vô cùng. Sơn long kết hợp với Càn long hoặc Tý long nhập thủ, thu nhân Tốn thủy là tiên hậu thiên thủy triều đường. Bình dương thủy long thích hợp thu nhận Khôn long.

Phương Đoài tuy phạm “Phục ngâm” nhưng vì đương lệnh nên không có vấn đề gì, duy chỉ có chủ về kỵ núi cao, bức bách. Phương Khôn phạm Phản ngâm, phương này nếu có nước hoặc nhìn thấy đường rộng thênh thang, không những không kỵ mà giao nhập với Bát vận chủ về phát đạt, nổi danh, sinh con cháu thông minh, hiền hậu. Nếu lai thủy từ phương Khôn đến, đi qua Ly, Tốn, bái đường, sau đó lại tan biến từ phương Ất hoặc phương Cấn, phương Càn, chủ về nhà nhà phát phú quý.



http://d.f21.photo.zdn.vn/upload/original/2013/08/02/16/10/887644517_2107768516_574_574.jpg (http://me.zing.vn/jpt/photodetail/1268hoang/887644517)

1268
02-08-13, 16:43
Thái Nhất Lương chú giải:

Đắc vượng sơn vượng hướng, hợp chánh linh thần tiền diện có bình thủy quang sáng không xung khích thì có thể phát đại tài phú quý, nếu có hồ lô trì thì xuất nhân tài y bốc mà giàu, cũng có thể xuất luật sư, pháp quan.

Tọa hậu cần có viên tú (tròn đẹp) sơn, chủ vượng đinh, xuất người văn võ toàn tài, vợ chồng hòa hiệp, nếu tiền diện có sơn áp bức gần, hậu diện sơn hình hiểm ác, trung cung cao đại, khí không thông thì đến năm Tí xung phương Ngọ Ly phát hỏa tai tổn nhân mạng.

Ngày trước tại Đài Bắc có công ty Mai Lâm cũng thuộc hình cuộc này, có 1 vị địa lý sư đến bày bố cuộc, toàn bộ mặt trước dán pha lê môn mở ở Tốn cung, trung cung làm 1 huyền quan (cửa vòm tròn), bảo rằng như vậy thì đại phát lợi. Do đó mà biết vị địa sư này cũng là hạng giang hồ thuật sĩ, không hiểu lý khí. Cuộc này nếu khai trung môn, thông đến sau trung cung, cửa lại mở tại Khôn phương thì có thể phát đến 60 năm vậy.

Công ty Mai Lâm cửa ở 5 27 khí không thông đại hung, đến năm Bính Tí xung Nam Ngũ hoàng phương thì phát hỏa tai làm 4 người chết, 11 người bị thương, thật đáng thương.

Cuộc này thủy nghi ở Khôn, chảy bao đến minh đường Cấn, hoặc khứ ở Tí phương thì tam nguyên bất bại, long nghi nhập thủ Tí Càn là đại quý địa.

Dương Trạch nghi tại Mão phương 5 27 vượng tài quý, môn tại Khôn phương thì danh lợi tài lộc, môn tại Tí 3 49 xuất đinh, thành môn Cấn 1 62 phát tài, Văn xương vị Tốn Cấn tú quý, táo môn nghi hướng Khôn Ly, đặt tại Chấn thì lợi mà khẩu thiệt. Tọa Tí Sơn, sàng vị môn nghi tại Tí Khôn Mão. Tọa Mão Sơn, môn nghi tại Dậu Càn Tốn. Tọa Ngọ Sơn, môn nghi tại Tí Ngọ Cấn Dậu.

Khởi tinh tọa Tí Sơn, sàng vị môn nghi tại Tí Khôn Mão Tốn. Tọa Mão Sơn, môn nghi tại Dậu Càn Tốn. Tọa Ngọ Sơn, môn nghi tại Ngọ Cấn Đoài Càn.

1268
05-08-13, 09:50
20. DẬU SƠN MÃO HƯỚNG KHỞI TINH

http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=776&stc=1&d=1375670936

Kiêm Giáp, Canh Đinh Mão phân kim. Quẻ Cách. Tọa từ 274 đến 277,5 độ


Chu Nghĩa Minh chú giải:Vô “Thế” khả tìm

Bố cục này tương đồng với đoạn pháp và hạ quẻ, rất không thích hợp với Tân Dậu bình kiêm. Nếu sau tọa Tân Dậu thủy cùng đến, gọi là “nhị nữ đồng sàng”, chủ về không thể mang thai, người bị nặng thì tuyệt tự. Phương Cấn ái tinh 1-6-2, 1-6 cùng tông; 2-6 cũng vẫn chính là chính gốc của Càn Khôn, của âm dương và của mạnh và yếu. Nếu ở phương này nhìn thấy núi đẹp (núi cần phải xa và không bị bức bách), chủ về cha con, anh em đều có được thành công.

Dậu kiêm Canh, 3 8 túc kim tọa gọi là hướng thị. Cái gọi là Túc tam tinh là nơi cất giữ của thiên, là cái kho của ngũ cốc, hay còn gọi là “thái lương”. Thị Túc tứ tinh có hình dạng giống như cái đấu, là đường ở giữa ngũ tinh ngày và đêm, là con đường của thiên tử, minh tắc đại thần, hậu kỷ hiền lang và còn gọi là “Thiên nho tinh”, chủ về kết giao bạn bè rộng rãi, chân thành, tính tình lương thiện.

Bố cục vô “thế” khả tìm, nếu tọa Dậu kiêm Canh hướng Mão kiêm Giáp, hoặc tọa Dậu Canh hướng Mão Giáp trung tuyến, thì cần phải lấy 9-5 nhập trung theo chiều thuận, ngoài ra còn có Phi Nhất bàn, hợp với lưỡng bàn để quan sát. Sơn hướng ở đây, không quan tâm tới là dùng với mảnh đất sơn long hay địa hình bằng phẳng, thì chủ về đều tài sản suy giảm, hao tổn nhân đinh, thổ quyết, hỏa hoạn, khó sinh, tai nạn bất ngờ, trai thì trộm cướp gái thì gian dâm, bị kiện tụng v.v…, không thích hợp để mai táng, mà cần tránh là tốt nhất.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=777&stc=1&d=1375669112

1268
06-08-13, 09:55
21. TÂN SƠN ẤT HƯỚNG HẠ QUẺ

http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=780&stc=1&d=1375757643

Tân sơn Ất hướng hạ quẻ từ 102’ đến 108’


Chu Nghĩa Minh chú giải: Cũng giống như Dậu Mão hạ quẻ, phương Khôn và Đoài phạm “Phục ngâm”.

Hướng lên trên Thất kim tinh có Nhị Thổ tương sinh, hơn nữa lại kết hợp với đồng đạo 2- 7 của “Hà Đồ”. Nếu phía trước có kim thành thủy bao bọc, lại có ngọc đới án triều, thì xuất danh y, quan tòa , luật sư.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=781&stc=1&d=1375755808

1268
06-08-13, 09:56
Thái Nhất Lương chú giải:
Đắc vượng sơn vượng hướng mà không có thế tinh để tìm, lại đồng luận với Dậu sơn, hướng thượng có Ngọc đới thủy ôm minh đường lại có án Kim đới bao 2 là thôi quan của thất vận, chủ đinh tài lưỡng vượng, xuất danh y, luật sư, được nữ nhân trợ giúp sản xuất dụng phẩm phụ nữ đắc tài.

Hậu diện nghi có viên tú sơn, chủ vượng nhân đinh, xuất người văn võ toàn tài, văn quan võ tướng oai quyền.

Tân Sơn kiêm Dậu hợp long pháp, đắc thời lịnh thì làm quan đại phú, thăng tiến chức vụ, tính chất khẳng khái. Nếu hình khí long không hợp thì tuy độ số cát mà sơn hung cũng không phát phước.

Tân Sơn kiêm Tuất là đồng âm mà bất đồng quái khí nên gia nghiệp thối tán, tổn nữ nhân, quan tai ác tật, bị nhiều tiếng xấu. Tọa Tân Tuất trung tuyến thì rất xấu, phu thê ly tán, lao phổi, bịnh huyết.

Thân phương tuy phạm phản ngâm nhưng nếu có thủy lộ hoặc môn lộ thông thoáng thì không những vô hại mà đến giao nhập bát vận sẽ được phát đạt, xuất nhân tài hiền lương.

Thủy từ Khôn lai nhiễu đáo hướng xuất ở Ất hoặc Càn Cấn thì đại phát. Hạ quái tọa Qúy Sơn, sàng vị môn tại Qúy Thân Ất Tị. Tọa Ất Sơn, môn nghi tại Tân Hợi Thìn. Tọa Ngọ Sơn, môn nghi tại Tí Đinh Tân.

Khởi tinh cuộc tọa Qúy Sơn, sàng vị môn nghi tại Thân Ất Tị. Tọa Ất Sơn, môn nghi tại Tân Hợi Thìn. Tọa Ngọ Sơn, môn nghi tại Ngọ Dần Tân Hợi.

1268
07-08-13, 09:24
22. TÂN SƠN ẤT HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=806&stc=1&d=1375842160

Kiêm Dậu, Mão Đinh Mão phân kim. Quẻ Tổn.Tọa từ 275,5’ đến 282 độ
Kiêm Tuất, Thìn Ất Mão phân kim. Quẻ Trung phu.Tọa từ 288’ đến 292,5 độ


Chu Nghĩa Minh chú giải: Vô “thế” khả tìm

Vận bàn 5 đến hướng, vẫn lấy 5 nhập Trung theo chiều nghịch (5 đối Ất, là âm tinh); 9 đến sơn, 9 của Nhân Nguyên là Đinh , số của sao Hữu Bật là 9. 5-9 không thay đổi, giống như hạ quẻ.

Trong nguyên chú nói là “Vô thế khả tìm”, tức là không nhất định lấy sao để thay thế cho quẻ. Tuy nhiên giống với hạ quẻ là “ vượng sơn vượng hướng”, thích hợp với bố cục Long Sơn của núi tọa trước mặt có dòng nước, nhưng Tân có thể kiêm Dậu, không thể kiêm Tuất. Theo kinh nghiệm của tác giả Tân sơn kiêm Tuất, thường bại nhà út, cũng có bại nhà trưởng.

Mật Quyết nói: “Tân Tuất giao nghịch, tổn thương người”, “chủ nghèo, tổn thương con trai, vợ chết, bệnh máu”. Cũng có ứng anh em bất hòa, vợ chồng li dị, bị lao phổi, ung thư phổi.

Tọa sơn Cửu Tử Hỏa khắc với Thất Xích Kim, Thất Xích Kim khắc với Tam Bích Mộc, ngũ hành khắc xuất, khắc nhân, núi sau tọa không thể quá cao to, đặc biệt kỵ búc ép, không sinh thảo mộc, không vượng người, xuất nguyên thất lệnh, sau có họa tuyệt tự.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=807&stc=1&d=1375842160

1268
08-08-13, 11:35
23. TUẤT SƠN THÌN HƯỚNG HẠ QUẺ


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=814&stc=1&d=1375936401


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Hợp với “ vượng sơn vượng hướng”, hướng Giáp là sinh khí, hướng Bính có thể dùng “ Thành môn quyết”. Nếu hướng Cấn có dòng nước chủ xuất con bị thọt, vì sơn hướng phi tinh là 5-3, 5 gửi Đoài, Chấn 3 thuộc chân, Mộc bị Kim khắc, chủ bị bệnh ở chân. Đầu hướng “ Ngọ Dậu tương phùng”, thất lệnh chủ giang hồ tửu sắc.

Cục của “ vượng sơn vượng hướng”, sau lưng phải có núi, trước mặt phải có dòng nước, hợp với hình cục của khẩu vị đại chúng, cũng phải kiểm tra kỹ. Vì hướng lên là sao 7 – 9, là số của Tiên Thiên và Hậu Thiên. Nếu gặp núi có hình nhọn hoặc miếu màu đỏ, thì chủ hỏa hoạn. Trong “Tử bạch quyết” nói: “ 7- 9 xuyên qua, thường bị hỏa của hồi lục”.

Nguyên chú gọi là “ Ngọ Dậu tương phùng”, cục này không nên dùng. Hướng Cấn có dòng nước nhưng không có núi thì xuất con bị thọt. 5 của hướng Cấn không gửi Đoài 7, mà là Cấn 8 của Trung cung. Tiên Thiên của Cấn là Chấn, thuộc chân, Bát Bạch Thổ bị Tam Bích Mộc khắc, hơn nữa dòng nước của hướng này phải đi, hình dáng như chân mới ứng ở Bát vận.

Năm Giáp Tý (1984) tác giả dời mộ Lưu Thị, giờ Thân (15 giờ) ngày 4 (Ất Sửu) tháng 9 âm lịch tiến Kim, mệnh Nhâm Tý. “ Núi phía dưới có hình rắn”, Bích Long kết, lập núi Tuất hường thìn, Bính Tuất phân kim, trước mộ là ruộng, từ Bính hướng về Giáp, từ cao xuống thấp (gọi là đường nước). Chủ sự (mệnh Giáp Tuất) ngày 15 tháng 4 dương lịch năm Bính Dần (1986) trúng số 50 vạn đồng (số là 551004). Đường nước ở hướng Bính (Thành Môn) là sao số 2, giống 7 của hướng trên.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=815&stc=1&d=1375936401

1268
08-08-13, 11:37
Thái Nhất Lương chú giải:

Đắc vượng sơn vượng hướng 6 97 nghi có tịnh thủy, ngoài thấy viễn tú sơn thổ hình làm triều án, chủ phát tài rất nhanh.

Tại huyện Tân Trúc thuộc Trung Hoa có 1 nhà ở cuộc này, tiền môn tại Mão phương, tuy là sanh khí bát bạch tinh nhưng lại ở phương Thiên kiếp vì sanh khí tinh chẳng phải là chủ lịnh tinh nên không thể chống lại sát, cuối cùng sau 2 lần đổi chủ cũng vẫn bế tắc. Mời ta đến giám định, ta dùng la bàn định phương hướng, nhà này phải cải chánh môn làm chỗ học tập, tiền diện khai trung môn, 3 phương Ly Tốn Chấn làm 1 đường thông đến Cấn Khảm.

Văn Xương đế quân vốn là phải đặt tại trung cung, nay cải đặt tại hậu diện 8 75 là Thổ tọa Kim, chủ đại lợi. Đường thông động tuyến từ đại môn đến Chấn 3 8, Cấn 3 8, đến Khảm hậu diện thần vị, lại từ Khảm phương thông trung cung đến Khôn đặt cầu thang lên tầng 2, 3. Đây là cuộc tam nguyên bất bại, từ khi cải đổi về sau khai nghiệp hưng thạnh.

Dương Trạch rất quan trọng khí khẩu, nếu đắc hướng tinh đương lịnh, nơi khai môn động tuyến đặt tại tam dương tam cát phương làm 1 tuyến thì nhất định phát.

Tọa Sửu Sơn, sàng vị môn nghi tại Mùi Nhâm Bính Sửu. Tọa Thìn Sơn, môn nghi tại Tuất Giáp. Tọa Mùi Sơn, môn nghi tại Mùi Giáp Thìn.

1268
09-08-13, 09:35
24. TUẤT SƠN THÌN HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=816&stc=1&d=1376015376

Kiêm Tân, Ất Mậu Thìn phân kim. Quẻ Quy muội.Hướng từ 112,5’ đến 117’.

Kiêm Càn, Tốn Bính Thìn phân kim. Quẻ Đoài.Hướng từ 124’ đến 127,5 độ.


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Sao Tài đến hướng, sao Đinh “nhập ngục”, vượng tiền của nhưng tổn hại đến con người. Hướng Bính có thể dùng “Thành môn quyết”, nhà này không thể dùng. Đầu hướng hợp với “Huyền cơ phú” có viết: “Kim ở vị trí Cấn, điểu phủ cầu danh.

“Điểu phủ” trong “Sử kí. Thiên quan thư” có viết: “tụ 15 sao là lang vị”. “Tinh kinh” gọi là “y điểu”; là sao Lang vị.

Kim ở vị trí Cấn, là sao 6-8. Vị trí này 6-7-8 hội ở đầu hướng, hợp với “Huyền không mật chỉ” nói: “Vị nhập đấu ngưu, tích ngọc nghìn hòm”. Thời Tống vị sĩ ở Dậu Tân (Thất Xích Đoài), Đấu Mộc Giải, Kim Ngưu ở Sửu Cấn (Bát Bạch Cấn).

Hướng lên trên nếu có dòng nước, bên ngoài dòng nước còn có núi, chủ về giàu có, 7 là thiếu nữ, 8 là thiếu nam, là nam nữ chính phối, quẻ Hằng được chọn núi Hàm, chủ xuất người hiền, trai tài gái sắc.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=817&stc=1&d=1376015376

1268
09-08-13, 09:37
• Thái Nhất Lương chú giải:

Vượng lịnh tài tinh đáo hướng thủ 6 87, Thiên địa quái chuyển Trạch Sơn Càn quái, là thiếu nam thiếu nữ chánh phối, hợp số 15 tức là thông khí thiên địa, có tú thủy, ngoài thủy lại có Nga my án sơn hoặc có phong mãn sơn làm triều án thì đại phát đinh tài.

Huyền cơ Phú nói : “Kim cư Cấn vị, ô phủ cầu danh, “8 6 là chánh 87 có thể thông dụng vì đều là Kim, chỉ âm dương bất đồng mà thôi, hướng thủ 6 87, do Vận bàn là 6 nên có cái nghĩa Ất gặp Giáp, mệnh lý có thể là Thu, có thể là Đông nên đều dùng được bàng thành tá khí vậy. Chính là hợp ý nghĩa của Huyền không bí chỉ (Vị nhập đẩu ngưu, tích thiên kim chi lập bạch). Hợp hình khí thì xuất tuấn nam mỹ nữ trung lương, phú quý mỹ mãn.

Cuộc này đinh tinh nhập tù nên nhà ít đinh thì không dùng, nếu Đoài phương có tú sơn, Sơn tinh ngũ hoàng có thông khí trung cung thì có thể hóa giải, nhưng ngũ hoàng là hung tinh nên hướng thủ cần có bát bạch thì mới phát tốt, Bính phương làm thành môn tốt, hợp thành quan phát đại tài quý. Dương Trạch môn nghi tại Thìn phương phát quý, tại Cấn Khôn Bính phát tài.

Tọa Sửu Sơn, sàng vị môn nghi tại Thìn Giáp Mùi Bính. Tọa Thìn Sơn, môn nghi tại 7 nhập trung Thìn Giáp. Tọa Mùi Sơn, môn nghi tại Nhâm Mùi Giáp Thìn.

songque
09-08-13, 10:29
24. TUẤT SƠN THÌN HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=816&stc=1&d=1376015376

Kiêm Tân, Ất Mậu Thìn phân kim. Quẻ Quy muội.Hướng từ 112,5’ đến 117’.

Kiêm Càn, Tốn Bính Thìn phân kim. Quẻ Đoài.Hướng từ 124’ đến 127,5 độ.


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Sao Tài đến hướng, sao Đinh “nhập ngục”, vượng tiền của nhưng tổn hại đến con người. Hướng Bính có thể dùng “Thành môn quyết”, nhà này không thể dùng. Đầu hướng hợp với “Huyền cơ phú” có viết: “Kim ở vị trí Cấn, điểu phủ cầu danh.

“Điểu phủ” trong “Sử kí. Thiên quan thư” có viết: “tụ 15 sao là lang vị”. “Tinh kinh” gọi là “y điểu”; là sao Lang vị.

Kim ở vị trí Cấn, là sao 6-8. Vị trí này 6-7-8 hội ở đầu hướng, hợp với “Huyền không mật chỉ” nói: “Vị nhập đấu ngưu, tích ngọc nghìn hòm”. Thời Tống vị sĩ ở Dậu Tân (Thất Xích Đoài), Đấu Mộc Giải, Kim Ngưu ở Sửu Cấn (Bát Bạch Cấn).

Hướng lên trên nếu có dòng nước, bên ngoài dòng nước còn có núi, chủ về giàu có, 7 là thiếu nữ, 8 là thiếu nam, là nam nữ chính phối, quẻ Hằng được chọn núi Hàm, chủ xuất người hiền, trai tài gái sắc.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=817&stc=1&d=1376015376
Anh 1268 ơi hình như bài bị thiếu hình đúng không ạ? Cảm ơn anh.

1268
09-08-13, 11:19
......................................

1268
09-08-13, 11:23
Anh 1268 ơi hình như bài bị thiếu hình đúng không ạ? Cảm ơn anh.

Ý em muốn nói là thiếu hình gì, anh chưa hiểu!

songque
09-08-13, 11:43
Phần trên và phần dưới bài Tuất sơn Thìn hướng khởi tinh của anh đều có hình trang sách màu xanh,em cop vào bài này để anh nhìn nhưng không cop được.,Các bài khác em đều thấy sơ đồ ai tinh.

Em nghĩ là anh attach bị thiếu thôi

1268
09-08-13, 12:30
Phần trên và phần dưới bài Tuất sơn Thìn hướng khởi tinh của anh đều có hình trang sách màu xanh,em cop vào bài này để anh nhìn nhưng không cop được.,Các bài khác em đều thấy sơ đồ ai tinh.

Em nghĩ là anh attach bị thiếu thôi

À, đấy là anh dùng cách đưa hình trực tiếp nó thế em à. Hai hình dod em ko cần copy đâu, nó chính là hai hình trên!

Thân.

1268
12-08-13, 13:56
45. CÀN SƠN TỐN HƯỚNG HẠ QUẺ


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=833&stc=1&d=1376290503

Càn sơn Tốn hướng hạ quẻ từ 132’ đến 138’


Chu Nghĩa Minh chú giải: Toàn cục hợp với “quẻ liên châu tam ban”, duy chỉ có sao lệnh toàn cục nghiêng, phía sau tọa không có dòng nước không thể dùng.

Đàm Dưỡng Ngũ nói: sơn hướng này Thất Xích lệnh tinh chấn đáo. Hướng hội không triều mãn giữ thái bình, không thì suy thoái người, ít tiền, chết, hồi lục, không thể tránh, khi lập huyệt nên chú ý! Cung Đoài sẽ hợp với cát thần, có dòng nước thì vượng tiền của, có núi có thể vượng người, nếu cao chèn ép thì không có sinh khí.

Cung Ly có ba nhánh sông, sân rộng thì đại cát, có núi cao, nhà tất bị trộm cướp, cung Khôn có núi thì cũng như vậy. Hai cung Khảm và Cấn thích hợp với tĩnh không thích hợp với động. Cung Chấn, Văn Khúc, Võ Khúc, duy chỉ ở vận này thì không ứng. Số tử vi thêm người, lấy năm Ngọ Dậu là vượng, năm Tuất Hợi cũng cát, năm Tý, Mùi, Thân thì đại hung.

Ở bố cục này nếu phía sau tọa có dòng nước, không thể nhìn thấy núi cao, vì dòng nước là Thất Xích Kim, núi là Cửu Tử Hỏa. Núi khắc với dòng nước, nếu hình dáng núi xấu, chủ bị hỏa hoạn, bệnh máu, số tử vi Ngũ Hoàng di chuyển đến, chủ uống thuốc độc, trúng độc, hút thuốc phiện.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=834&stc=1&d=1376290503

1268
12-08-13, 14:03
Thái Nhất Lương chú giải:

Lịnh tinh điên đảo là khuyết điểm, mà toàn bàn hợp liên châu quái là rất cát lợi, cần ở hậu diện có thủy triền huyền vũ thì phát tài rất nhanh.

Trong Huyền không địa lý học, bất luận là cuộc thượng sơn hạ thủy, hoặc song lịnh tinh đáo tiền hay hậu thì không những phải cầu vượng sơn vượng hướng cuộc, mà còn phải cầu hợp thời lịnh và dụng đúng pháp hình khí, lúc ấy cầu tài được tài, cầu con được con, nhất định ứng nghiệm.

Cuộc này có chứng thật là tại chợ Vĩnh Hòa có trạch Càn Sơn Tốn hướng, giống với vận này mà hậu diện có nhà áp bức ở gần nên phát sanh đại hỏa thiêu rụi. Đây là đồng sơn hướng mà hình khí bất đồng, thiên địa phân biệt mà học phước khác nhau vậy.

Tọa Cấn Sơn, sàng vị môn nghi tại Cấn Bính Nhâm Đoài Khôn. Tọa Tốn sơn, môn nghi tại Tốn Càn Đoài Khảm. Tọa Khôn Sơn, môn nghi tại Cấn Đoài Càn Khảm.

thangngan
12-08-13, 15:14
- Cám ơn ban 1268 đã chia xẻ tài liệu hay.
- Xin bạn cho hỏi: tại sao đang cục thứ 24 lại tới cục 45?
- Như anh Văn Hoài Luận 48 cục cho vận 7 và vận 8. Sao không thấy vận 8 hay là chưa tới?
- Xin cám ơn bạn!

1268
13-08-13, 08:57
- Cám ơn ban 1268 đã chia xẻ tài liệu hay.
- Xin bạn cho hỏi: tại sao đang cục thứ 24 lại tới cục 45?
- Như anh Văn Hoài Luận 48 cục cho vận 7 và vận 8. Sao không thấy vận 8 hay là chưa tới?
- Xin cám ơn bạn!

Sorry em, 1268 đánh nhầm, chứ đó là cục thứ 25 chứ không phải là 45. Viết hết các cục vận 7 anh sẽ viết tiếp các cục vận 8, bạn chịu khó đợi chút nhé..hihii.

1268
13-08-13, 09:43
26. CÀN SƠN TỐN HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=835&stc=1&d=1376361686

Kiêm Thìn, Tuất Mậu Thìn phân kim. Quẻ Đoài. Tọa từ 127,5 đến 132 độ.


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Lệnh tinh đến núi Tọa, sao Đinh “nhập ngục”. nếu sau tọa có dòng nước, có thể dùng. Nếu hướng Ly có dòng nước, chủ trướng bụng, viêm đường ruột. Trong “Huyền không mật chỉ” nói: “Bụng nhiều nước nên trướng bụng”.

Hướng Ly dòng nước Nhất Bạch là khí của Phụ Tả Hạ Nguyên không phát hung. Có núi, phạm phải sát khí của Nhị Hắc, chủ bị bệnh ở bụng. Hướng này nếu có góc nhọn xiên, chủ xuất người bị thiểu năng trí tuệ. Nếu có dòng nước và có núi, trong “Huyền cơ phú” nói: “Khảm chảy ở vị trí Khôn, mại thần thường tạo phụ tặc”. Chủ xuất phụ nữ bị mất khả năng sinh hoạt tình dục, không thể mang thai, còn chủ di tinh, tiểu đường, bệnh phù thũng, tổn hại đến nhân đinh, sảy thai, xuất huyết dạ dày, u tử cung, viêm buồng trứng, kết hạch, ung thư, chức năng của tim phải không hoàn thiện, xơ cứng gan, suy yếu chức năng của thận, v.v…

Ba cung Dậu Tân, Càn Hợi, Cấn Dần đều phải có dòng nước, bên ngoài dòng nước còn có núi, hình cục đẹp, tiền và người đều thịnh, đại phát phú quý 60 năm.

Bố cục này kỵ nhất hướng trên gặp dòng nước lớn, chủ phá gia chết người, nhất định không bàn, phúc ứng ở họ khác.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=836&stc=1&d=1376361686

Chú ý: Sao Đinh “nhập ngục”, nhà có mệnh Thất Xích và ít người, không nên chọn dùng.

1268
13-08-13, 09:44
*. Thái Nhất Lương chú giải:
Vượng lịnh tài tinh đáo tọa sơn, nghi hậu diện có thủy, ngoài thủy có sơn là thiếu nam thiếu nữ chánh phối. Hợp với Huyền không bí chủ nói : “ Vị nhập Đẩu Ngưu tích thiên sương chi ngọc bạch”, Kim gặp Thổ chủ phú địch quốc, lại xuất hiền lương nhân tài, tài tử giai nhân, gia đình hạnh phúc.

Hướng thủ 6 65 kỵ thấy sơn thủy, nếu phạm thì gia bại nhân vong, trung cung lại là giao kiếm sát. Huyền không bí chỉ nói: Nhà không có người già lão là vì hào phụ mẫu bị phá, chủ bịnh phổi, trúng phong, ngu si.

Đinh tinh nhập tù, Càn phương bổn vị có sơn mà ở Đoài lại có viễn sơn thì không bại mà lại được xuất đinh quý. Càn Đoài sơn tinh 9 8 Phụ (Tả phụ) phùng tử diệu hỷ sự trùng trùng, tử tôn phồn diễn. Ly phương cần thấy viễn tú sơn, chủ gian khổ mà đắc tài, về sau thì phú.

Nếu thấy đại sơn thủy mạnh, Huyền Cơ phú nói: Khảm lưu Khôn vị, chủ xuất ác phụ mắng chồng, bịnh về đường tiểu, vô sinh, nếu thấy ốc tích tà xung thì chủ con thành tài yểu vong. Chấn phương cần phải bình tịnh, như cao đại thì xuất bịnh hoạn.

Tọa Cấn Sơn, sàng vị môn nghi tại Càn Đoài Cấn Ly. Tọa Tốn Sơn, môn nghi tại 7 trung Càn Đoài Cấn Khảm. Tọa Khôn sơn, môn nghi tại Cấn Đoài Càn Khảm.

1268
14-08-13, 11:36
27. HỢI SƠN TỴ HƯỚNG HẠ QUẺ


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=856&stc=1&d=1376454949

Hợi sơn Tỵ hướng hạ quẻ từ 147’ đến 153’


Chu Nghĩa Minh chú giải: Giống với Càn Tốn hạ quẻ

Ở bố cục này nếu hướng lên trên có dòng nước, phía sau tọa có núi là chiều theo quan niệm phong thủy “núi tọa có dòng nước” của người bình thường để làm, khí sao vô hình lại là cục diện của “núi nghiêng dòng nước lệch”, chủ cả người và tiền đều bại, thường gặp họa trộm cướp, tai nạn bất ngờ. Thích hợp nhất với trước mặt có núi, phía sau có dòng nước, mới có thể tiền và người vẹn toàn, nhưng hình dáng núi phải đẹp, hình dáng dòng nước phải đoan chính, cân đối, ngưng tụ mới tốt. Nếu dưới núi có dòng nước xấu, dòng nước tràn lan, thì xuất hung bạo không theo pháp luật, tham tiền của và háo sắc, con cháu giàu có nhưng vô lễ.

Hướng lên trên kỵ nhất gặp dòng nước lớn, lập tuyến không thể kiêm Nhâm Bính, không thì khí quẻ tạp loạn, sao Thìn đổi ngôi, chủ tuyệt. Khi kiêm Nhâm Bính, nếu trước mặt hướng về hồ, tất kiêm thu khí của 5-1. Nhất Bạch chịu khắc khí độc của Ngũ Hoàng, chủ bị bệnh không thể mang thai, sảy thai, khó sinh, thậm chí tuyệt tự.

Trong “Nhị trạch thực nghiệm” ghi chép về mộ cha mẹ của Bính An: “Lai Long Nhâm Hợi, Tốn Tị thái hồ, bên ngoài có núi xa là án, bao quanh, hình thế đẹp. Thất vận núi Hợi hướng Tị kiêm Nhâm Bính tam phân, huyền không ngũ hành, lên núi xuống nước, sao Thìn lệch, sau khi táng cả tiền và người đều bại, cuối cùng dẫn đến tuyệt tự”. Mộ này nếu không kiêm Nhâm, long đến là Bát Sát Long, nhập thủ thì chủ chết, quan hình. Mật Quyết nói: “Hợi Nhâm nếu gặp người nôn ra máu, trong Tị Bính nhất định phải chịu cảnh ngục tù”. Tác giả viết: “Tọa sơn, lai long phạm phải Hợi Nhâm, Nhâm Hợi thì chủ về dâm đãng, gia sản lụi bại, câm điếc, chết đột ngột, bị gãy chân, nữ giới treo cổ tự tử, xuất quả phụ”. Do Hợi Sơn là Nhân nguyên long, địa nguyên long của kiêm Nhâm, phạm vào “xuất quẻ”, nếu mà thất lệnh thì lại càng hung.

Đàm Dưỡng Ngũ trong “Đại huyền không lộ thấu” có viết: Đối với sơn hướng ở đây, Thất Xích Lệnh tinh đảo ngược lại, phương tọa không triều mãn thích hợp với những vùng đất bằng phẳng, nếu không thì đinh suy, tài mỏng, chết chóc, hồi lục. Có một số điều không thể tránh khỏi thì mọi người cần phải tăng cường chú ý hơn. Cung Đoài có thể hội hợp với cát thần, có thủy thì vượng tài. Nếu là đỉnh núi cao bị chèn ép thì bố cục này sẽ không sinh khí, tức là xuất trọng thính nhân. Cung Ly có Tam giao, minh đường đại cát. (Chú ý: Tam giao là nơi mà hai dòng nước phối hợp với nhau, minh đường là khoảng đất trống, rộng rãi và bằng phẳng). Có ngọn núi cao, có người thì sẽ xuất người trộm cướp. Cung Khôn có “Tham đầu” thì cũng như vậy. Hai cung Khảm và Chấn thích hợp với tĩnh, không thích hợp với động. Cung Chấn “Văn Khúc”, “Võ Khúc”, chủ về văn võ song toàn, duy chỉ có ở vận này thì lại không ứng.



http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=857&stc=1&d=1376454949

athaiathai
14-08-13, 16:02
chào anh 1268! Mấy cục sau này có hình tinh bàn(lakinh), giống như mấy cục đầu trang 18 của Anh VanHoai hong anh?
cảm ơn!

1268
16-08-13, 10:45
chào anh 1268! Mấy cục sau này có hình tinh bàn(lakinh), giống như mấy cục đầu trang 18 của Anh VanHoai hong anh?
cảm ơn!

Chào bạn mấy cục đầu đó anh Văn Hoài tự vẽ mấy ví dụ cho các bạn dễ hiểu thôi. Các bạn đến trình độ này rồi chắc lập tinh bàn đã thành thạo rồi. Do thời gian hạn chế việc đánh máy đã mất nhiều thời gian nên, mình không vẽ hình nữa.

Thân.

1268
19-08-13, 12:27
28. HỢI SƠN TỴ HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=866&stc=1&d=1376888045

Kiêm Nhâm, Bính Đinh Tỵ phân kim. Quẻ Tiểu súc. Tọa từ 334 đến 292,5 độ.


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Lệnh tinh đến Tọa sơn, đầu hướng phạm phải duy khí, hướng Tân là sinh khí, có dòng nước thì thứ vận tiến tài.

Cục này 8 của vận sao đến tọa sơn, nhân nguyên của 8 là Dần, Dần là sao Hữu Bật, lấy 9 nhập Trung, thuận. Lệnh tinh là sao hướng của đương vượng; đến tọa sơn gọi là Long Thủy lên núi, nếu sau Tọa có núi không có dòng nước, chủ về gia sản khánh kiệt, vợ bị thương. Bố cục bình dương sau tọa không có đỉnh chính, có ruộng nước, ứng của nó bình thường. Bát Bạch của Sơn tinh đến hướng, nếu hướng lên trên có núi, Bát vận vượng người. Nếu có dòng nước mà không có núi, không những suy bại tiền của, hơn nữa không có con.

Hướng Tân là hướng sinh khí của dòng nước, nên có dòng nước giao hội, hội tụ thành hồ, chủ đại phát tiền của; dòng nước sinh khí là thiên về tiền của, không cần đạt đến bát vận mới phát.

Bố cục này thích hợp nhất với bố cục bằng phẳng, dòng nước quẩn huyền vũ, duy chỉ không nên kiêm Nhâm; kiêm Nhâm thì con thứ không có con.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=867&stc=1&d=1376889886

Chú ý: Hướng Nam quẻ Ly là sao 1-4. Trong “Huyền cơ phú” viết: “Mộc nhập Khảm cung, phụng trì thân quý”.

1268
20-08-13, 10:08
29. DẦN SƠN THÂN HƯỚNG HẠ QUẺ

http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=868&stc=1&d=1376968006

Dần sơn Thân hướng hạ quẻ, hướng từ 237 độ đến 243 độ.


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Lệnh, tinh hội hợp ở tọa sơn, phương Ly là sinh khí, phương Tân có thể sử dụng “ Thành môn quyết”, phương Ất phạm “ phục ngâm”.

Bố cục này nếu sau tọa sơn có sơn hình ác, phía trước có minh thủy chiếu diện thì chủ xuất người lãng tử, phiêu bạt. Nếu sau sơn có núi cao, thì xuất người tao nhã lịch sự, diện mạo sáng ngời, Trong cuốn “ Phi tinh phú” có viết “ phá cận văn tham, tú lệ và ôn nhã chi bão”.

Thủy của cung Tốn chảy thẳng đến hoặc sơn của cung Chấn cao án ngưỡng, chịu ảnh hưởng của sao 3-2. “ Huyền không mật chỉ” cho rằng : “lôi xuất địa nhi tương xung, nhất định gây nên sự gông cùm, xiềng xích. Trong “ Phi tinh phú” nói : “dự, mô phỏng của sự ngừng thực”, chủ về kiện tụng, chết vì bị tội tử hình, bệnh tì vị, chân bị tàn tật.

Cuốn “Đại huyền không lộ thấu” của Đàm Dưỡng Ngô có viết rằng “Bố cục sơn hướng này, lệnh tinh Thất xích hội hợp tọa sơn, tọa không, tọa thực, đều có thể triệu cát (mời gọi sự cát tường); tốt đẹp nhất nhất tinh đầu hướng là một tinh khiêm thủ thượng nguyên lâu dài nhất, đồng thời có thể hội hợp văn xương. Nếu sát thủy nhất quẻ thanh thuần thì đến lúc danh vang tứ hải, phú tích thiên tương.

Cung Ly là vượng khí của thứ vận, có sân rộng, có 3 nhánh thì ắt sẽ phát. Cung Đoài và quẻ Ly giao hội, phía trước đều có thể lần lượt dùng sơn dùng thủy là tốt. Phần giải thích cụ thể sẽ được thể hiện ở bảng dưới đây:


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=869&stc=1&d=1376968006

1268
20-08-13, 10:13
*. Thái Nhất Lương chú giải:

Thất xích song vượng tinh hộp hợp tại tọa sơn, nghi hậu diện có gò đất nhỏ, ngoài thấy thủy trì hình vuông hoặc hồ nước, lại có thấy sơn tú thì chủ vượng tài xuất đinh sư ca mỹ nữ. Tiền diện nghi có viễn thủy, ánh chiếu của thủy không đến mộ bia thì phát văn tú khoa bảng, gian khổ mà được tài lộc.

Hạ nguyên kiêm dùng Tham lang thì phát đinh tài bền vững. Nếu tọa hậu sơn có hình thế hiểm ác, tiền diện lại có ánh thủy chiếu thì phụ nữ loạn gia bất an, tử tôn điên cuồng, bại sản tuyệt tự.

Trung cung mộ quy viên tú cao đại là phá gần Văn Tham 7 14 tú lệ, chủ xuất tuấn nam mỹ nữ. Tốn 6 23, Chấn 5 32 là qua thời hướng sơn tinh có hình khí.

Huyền không bí chỉ nói: Lôi xuất địa diện mà tương xung thì bị xiềng xích gong cùm, phạm quan tụng hình sát, lão mẫu bị sét đánh hoặc bịnh tì vị, trưởng nam nghịch tử, tàn tật.

Ly cung 2 68 sơn nếu phối hợp đắc quái nội, bất xuất quái thì được danh lợi kiêm thâu, công danh hiển đạt.

Đoài phương viễn thủy, hướng thủ thấy viễn thủy, ly phương có thủy sáng chiếu tam xoa thủy khẩu tam nguyên bại.

Dương trạch môn nghi Dần Đinh. Tọa Tị Sơn, sàng vị môn nghi tại Tị Hợi Khảm Đoài.
Tọa Thân Sơn, môn nghi tại Dần Tân Tuất Khảm Tọa Hợi Sơn, môn nghi tại Hợi Tân Dần.

1268
21-08-13, 08:56
30. DẦN SƠN THÂN HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=914&stc=1&d=1377050067

Kiêm Giáp, Canh Canh Thân phân kim. Quẻ Giải. Tọa từ 244 đến 247,5 độ.


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Phương Hợi là vượng thủy đương nguyên. Phương Tân có thể dùng “Thành môn quyết” . Phương Ất phạm “phục ngâm”.

Phương Tân nên có 3 nhánh hợp thủy, phía cửa thủy lại có các đỉnh núi chấn tự, như vậy chủ Bát vận tài đinh phú quý.

Phương Giáp Mão Ất nên là một vùng rộng rãi thoáng đãng, nếu gặp thám đầu sơn thì chủ xuất kẻ trộm cướp; nếu sơn ở quá gần, án ngưỡng thì chủ gây sự chết chóc, tử hình, đột tử, hỏa hoạn, cơ thể bị thương tàn, viêm phổi, ung thư máu.

Cung Khảm chịu ảnh hưởng của 2 - 5 , không được có núi cao, gần, đè áp hoặc có dòng nước chảy thẳng tới, vì như vậy, trong “ Tủ bạch quyết” có nói: “ 2 và 5 giao gia, vừa gây tử vong lại vừa sinh bệnh tật”. “ Tử bạch quyết” lại viết rằng: “ 5 là chủ phụ nữ có thai bị gặp tai họa, khi hoàng gặp hoắc thì sẽ xuất người cô quả, 2 là chủ trạch mẫu đa hối, hắc phong hoàng chí chủ xuất người góa vợ”. Cung Tốn gặp núi cao hoặc dòng nước lớn thì cũng tương tự như vậy.

Dần sơn không được kiêm Giáp, càng kị Dần Giáp cùng kiêm vì đó là chủ tuyệt tự.

Phương Hợi tuy là vượng thủy đương nguyên, nhưng thất cử giao hội lại là hung tính, chỉ phù hợp có dòng nước nhỏ mà thôi, kị dòng nước lớn, nước chảy mạnh.



http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=915&stc=1&d=1377050067

1268
21-08-13, 08:56
*. Thái Nhất Lương chú giải:

Vượng lịnh thất xích tài tinh đáo Hợi phương 8 97, nghi bình tịnh thủy, ngoài thủy thấy có viễn sơn tú phong thì tốc phát tài, đến cửu vận vượng đinh, đây là sơn thủy phối hợp, nếu thấy hình sơn xấu ác hoặc có thạch nham thì bị mù mắt. Phương này thấy có kiến trúc vật đỏ nhọn hoặc chùa miếu thì chủ hỏa tai, bịnh phổi. Hỏa khắc kim chủ tổn thương ấu phụ, thứ đến táng nam. Cách quái quan tai hoạnh sự.

Vượng lịnh đinh tinh đáo sơn 1 79 cần thấy tú sơn ở xa có hình thổ, bên ngoài có tiểu thủy trì hình vuông thì vượng đinh xuất tú sĩ, cửu vận bất bại tài. Hình thế hung họa, phương vị đồng với Cấn Sơn khởi tinh luận.

Chấn quái 5 34 nghi bình địa, nếu thấy thám đầu Sơn chủ xuất đạo tặc, lại nếu sơn ở gần bức bách thì chủ nam tửu sắc, nữ làm lò mổ thịt, gặp hình sát, nạn xe, hoạnh tử, chi thể tàn tật, bịnh gan mật.

Khảm cung 3 52 kỵ thủy trực xung xạ hiếp. Tốn phương cũng như vậy, chủ xuất cô quả.

Tọa Tị Sơn, sàng vị môn nghi tại Ất Tị Càn Đoài Khảm. Tọa Thân Sơn môn nghi tại Dần Tân Hợi. Tọa Hợi Sơn môn nghi tại Hợi Tân Dần Ly.

1268
22-08-13, 10:36
31. GIÁP SƠN CANH HƯỚNG HẠ QUẺ

http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=916&stc=1&d=1377142477

Giáp sơn Canh hướng hạ quẻ, hướng từ 252 độ đến 258 độ.


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Toàn bàn phạm “phục ngâm”, lại phạm “ thượng sơn hạ thủy”. Phương Thìn là sinh khí. Phương Mùi và phương Tuất có thể sử dụng “Thành môn quyết”, Cửu vận “nhập ngục”.

“Đô thiên bảo chiếu kinh” có viết rằng: “bản sơn lai long lập bản hướng, “phản ngâm”, “phục ngâm” họa khó tránh, tự vẫn tha hương rắn cắn hổ vồ, làm kẻ trộm cắp thì bị quân bắt và đưa ra pháp trường. May thay, được hướng tam tinh ngũ cát đã chuyển họa thành phúc, thành sự tốt lành”.

Tưởng Đại Hồng đã dùng thiên cơ không thể tiết lộ, có ý viết như sau: “bản sơn bản hướng không phải là Tý long Tý hướng, mà là Sửu long sửu hướng, đó giống như sự ngã ngựa vậy, nếu dùng bát quẻ nạp giáp mà nói, sơn long có nạp giáp, hướng pháp của quẻ này đều tịnh âm tịnh dương. Điều này ở hướng pháp bình dương, phản bất câu tịnh âm tịnh dương, mà dùng can chi nạp giáp của quẻ này, thì vị nào cũng phản ngâm, phục ngâm, đều là hung dữ cả. Tam tinh và ngũ cát không giống nhau, tam tinh nói về long thể, còn ngũ cát là nói về quẻ khí, sự tiêu tường long thể trong quẻ khí là hướng pháp thiên nhiên, có thể sẽ không phạm cung này, hơn nữa tai họa sẽ tự biến thành cát tường, yên bình’. Qua đó có thể biết được Tưởng Đại Hồng đã nói đến “phản ngâm”, và “phục ngâm” thực chất chỉ là quẻ khí của Ái tinh đã tương phạm với “bản cung” của các quẻ Khảm, Khôn, Chấn , Tốn, Trung, Càn, Đoài, Cấn, Ly, do đó mới gọi là “ toàn bàn phục ngâm”.

Vượng khí của sơn đến hướng, vượng khí của hướng đến sơn, do đó gọi là “thượng sơn hạ thủy”, nếu nhà ở hoặc mộ phần ở vị trí phía sau là núi, phía trước mặt là nước thì chính là thế sơn long lạc thủy vô hình, thủy long thượng sơn vô hình, như thế tự nhiên đã tạo nên sự giao chiến giữa long và thủy, tất sẽ sinh ra sự thương đau, tổn đinh, phát tài, gây nên muôn vàn bệnh tật.

Trong “Đô thiên bảo chiếu kinh” có viết: “người đời chỉ yêu thích thu được xung quanh mà không biết đến sự chấn đáo của sơn thủy” . Tưởng Đại Hồng chú viết: “đại đạo thì không nhiều, chỉ tranh “na na tử”, người hiện nay chỉ thích xung quanh đều tốt, mà không biết đến “ta tử”. “Ta tử” hợp được thiên cơ, xung quanh không tốt cũng thành tốt, nếu “ta tử” không hợp với thiên cơ thì sự việc xung quanh nếu tốt thì cũng vô dụng cả thôi, Âm sơn dương sơn, âm thủy dương thủy đều biểu hiện thành danh sắc, nơi nơi đều là chết, duy chỉ có “ na na tử” là còn tồn tại. “ Na na tử” mà biết mất thì âm không phải là âm, âm không phải là dương, dương không thể làm âm. Do đó mới nói là : “nhận thức được chấn đảo chấn của ngũ hành, thì chính là đại la tiên. Như vậy “ta tự” là khí vô hình mà “khí” thì không thể dùng mắt thường nhìn thấy được mà cần phải dùng “tâm nhãn” của Ái tinh huyền không để giải ngộ.

Phương Ly nếu có thủy, hoặc đường đi tiến thẳng đến thì chủ mẹ chồng nàng dâu bất hòa. Bởi vì Ái tinh của phương này, thiên quẻ Tứ lục Tốn là phong, là vận bàn Nhị Hắc Khôn. Trong “Huyền không mật chỉ” viết: “ Gió thổi trên mặt đất, quyết định thương bia”. Trong “Trúc tiết phú” cũng viết rằng: “Tốn Chấn phối hợp với Khôn Cấn, như vậy chủ thiếu nam (trai trẻ), lão mẫu (mẹ già) tang thương”. Đó là chủ bệnh tì vị, lão phụ thụ khắc.

Bố cục này tọa sơn Ái tinh tam ngũ thất, hung tinh hội tụ, nếu sau tọa sơn có núi hình ác tương ứng thì qua khảo nghiệm, thì con gái chi trưởng bị các phần tử hắc đạo giết chết (giết người diệt khẩu). Phía trước nếu có thủy, bởi vì thiên quẻ Ái tinh là Nhị Hắc, sát khí của Thất vận, là bệnh phủ, hối khí; Nhị Hắc là quẻ Khôn, là tì vị, dị tạng, các chứng bệnh do nhiệt, phụ nữ ở chi thứ hai dễ có các bệnh kể trên.

Phương Mùi có thủy thì chi trưởng phát tài, nhưng đường thủy không được vòng co quấn bện như đường dây thừng (hoặc càn lưu), nếu không thì trưởng nữ, con dâu tự vẫn, hoặc chết thảm. Phương Sửu có núi hình thổ, kim, giao bát vận, thì chi thứ ba xuất người thông minh, kì tài trung tín.

Phương Tuất có thủy , chủ chi thứ ba đại phát tài; chi trưởng và chi thứ đều có công danh cả nhưng chức quan không lớn lắm hoặc đôi khi chỉ là hư danh mà thôi.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=917&stc=1&d=1377142477

1268
22-08-13, 10:36
*. Thái Nhất Lương chú giải:

Trên sơn dưới thủy, sơn tinh toàn bàn phản cung là phục ngâm, nghi hậu diện có viễn tú thủy bao huyệt, tiền diện có tiểu án sơn thì đinh tài lưỡng vượng xuất văn võ quý.

2 phương Càn Khôn có thể làm thành môn, Khôn phương thủy tinh, Càn Khôn chánh phối có thủy thì phát tài tất cả phòng. Càn phương hợp nguyên đán bàn 1 6, biến cách thành môn của thủy xuất phú quý đại phát. 8 cát tinh quy tập 1 cung là bát quốc thành môn tỏa chánh khí, nhất khí thông huyệt, chủ phú quý trường cửu. Nếu dùng ở nơi, bối sơn diện thủy thì “Đô thiên Bảo chiếu” nói: Bổn sơn lai long lập bổn hướng, phục ngâm phản ngâm họa nan đương, tự vẫn ly hương xà hổ thương, minh đắc tam tinh ngũ cát hướng, chuyển họa vi tường đại cát xương. Đoạn này nói rõ về pháp lập hướng cần phải hợp hình khí, biết được sơn hướng sanh tử của phi tinh thì họa phước nằm trong tay vậy.

Tọa hậu thiên 5 37 là chấn canh hội cuộc, có tú thủy chủ xuất người văn võ toàn tài, nếu có sơn 7 3 tức bị khắc chế, chủ xuất nam đạo tặc, nữ giang hồ, hoạnh tử, nạn xe.

Sàng vị tọa sơn môn nghi tại Bính Nhâm Mùi Càn. Tọa Canh Sơn môn nghi tại Canh Sửu Bính Tốn Khảm. Tọa NHâm Sơn môn nghi tại Bính Sửu Canh Càn Tốn.

1268
23-08-13, 15:02
32. GIÁP SƠN CANH HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=918&stc=1&d=1377244882

Chu Nghĩa Minh chú giải:

Hướng tinh “nhập ngục”, toàn bàn phạm phục ngâm. Phương Mùi và phương Tuất đều có thể sử dụng “Thành môn quyết”, nhưng vị trí ở đầu hướng không có thủy thì không được dùng ban này .

Hướng tinh “nhập ngục”, cửu của vận tinh được đẩy lên trên hướng, cửu của địa nguyên là Bính, khởi tinh thế quẻ, Bính phối hợp với phá quân tinh, số là 7. Nhập trung mà tù có nghĩa là ngay sau khi an táng thì không có địa vận, như lạc không vong vậy, tất sẽ chủ phá sản khuynh gia. Bố cục này tốt nhất nên tránh, không nên dùng, vạn bất đắc dĩ phải dùng thì phải dùng ở nơi có địa thế bốn phương bằng phẳng, không có núi hoặc gò đồi gì cả, trên hướng phải có thủy, hơn nữa trước thủy phải có tre trúc che bởi ánh sáng của nước, như vậy mới có thể bình yên được. Hoặc có thể là dòng thủy nhỏ như các kênh rạch thì chủ có thể cần kiệm, tích tiểu thành đại mà trở nên giàu có. Nếu dòng thủy lớn, nước chảy mạnh thì tất chủ sẽ bị các bệnh về máu, tổn hao nhân đinh. Phương Tuất có dòng thủy tách ba hoặc dòng thủy thành đầm, giao Bát vận, chủ chi thứ ba võ phú, võ quý, bỏ đường công danh, chi trưởng cũng được hưởng phú quý nhưng phú quý không lớn lắm hoặc cũng chỉ là hư danh mà thôi, sau nơi tọa có núi cao chấn áp thì chủ tài đinh lưỡng bại, tai họa liên miên.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=919&stc=1&d=1377244882

Chú ý: Ngũ thất của cung Trung là hung tinh, bị trộm cướp nhiều mà hao tổn, phá sản và tai họ, nghiện hút, không quan chức gì.

1268
23-08-13, 15:04
*. Thái Nhất Lương chú giải:

Thất xích vượng lịnh tài tinh nhập trung cung là nhập tù, nếu hướng thủ không có thủy thì nhất định không dùng, nếu dùng thì đinh tài đều bại, tổn gia trưởng. Nếu tọa hậu có ám thủy 5 phương thông trung cung khí, thì không đến nỗi bại tài tổn gia trưởng, nhưng ngũ hoàng là hung tinh nên có tài lộc mà lại nhiều hung họa, cần phải chọn ngày tốt để chế ngũ hoàng hung ác mới được cát tường.

Càn Khôn phương có thể làm thành môn, Càn phương sanh khí thủy, lại là tam xoa thủy khẩu nên phát công danh, cự phú, vượng lịnh đinh tinh đáo hướng thủ 9 79, sơn tinh phục ngâm, tấn khí tinh song Hỏa khắc kim rất khó dùng, nếu thấy đại thủy tức là ”sơn thượng long thần hạ thủy”, chủ bị tổn đinh, cần thấy có thổ hình tiểu án sơn không cao hơn mộ bia, bên ngoài có ám thủy hoặc viễn thủy, nếu có ánh quang thủy thì trồng trúc để che chắn mới bảo đảm được đinh tài. Khảm Càn Cấn 1 6 8, tinh liên tiếp tuy là phục ngâm nhưng do cát tinh có tú sơn liều một mạch nên có thể phát đinh sanh quý tử. Dương trạch môn nghi tại Tuất phương 8 68 chủ thiếu nam cự phú, trưởng và trung nam quý mà không phú, môn tại hướng thủ thì thường sanh nữ.

Tọa Nhâm Sơn, sàng vị môn nghi tại Bính Sửu Canh Càn Khôn Đoài. Tọa Bính Sơn, môn nghi tại Mùi Giáp Thìn Càn, Tọa Canh Sơn, môn nghi tại Canh Sửu Nhâm Tốn.

1268
30-08-13, 08:52
15. MÃO SƠN DẬU HƯỚNG HẠ QUẺ


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=972&stc=1&d=1377827375


Chu Nghĩa Minh chú giải:
Đây là bố cục có lệnh tinh “đáo sơn đáo hướng”, có tọa sơn đối diện với hướng, đương nguyên tài đinh lưỡng vượng. Phương Càn là sinh khí, Cửu vận “nhập tù”. Đầu hướng có thủy thì chủ quan quý, trong Huyền không mật chỉ ”viết rằng: “Chấn canh hội cục, chủ cầm quyền văn thần kiêm võ tướng”. “Trường canh khởi minh, giao chiến tứ”.

Chấn canh hội cục là chỉ Ái tinh tam thất trên hướng, thất thủy tam sơn là sự phối hợp giữa số của chồng và vợ ; Thất Xích cương chủ nghĩa khí, Tam Bích nghị, chủ nhân. Vì thế mà nói rằng “chủ cầm quyền văn thần kiêm võ tướng”. Bố cục này trên hướng có thủy, thì chủ công thương nghiệp phát tài. Kim tinh hiện ở phương Tây, nhìn thấy vào buổi chiều, gọi là trường canh; hiện ở phương đông, nhìn thấy vào buổi sáng gọi là khởi minh. Sự phù hợp giữa thất tam sơn thủy gọi là chính, khi mất lệnh thì chấn đảo thành giao chiến. Bố cục này nếu như tọa ở nơi từ không hướng mã thì biến thành giao chiến, ắt sẽ gây sự tổn đinh phá tài. Sơn thủy là sự chết chóc, vận dụng là do con người.

Thất nhị của tọa sơn, nếu có được đỉnh núi hình vuông hoặc hình tròn thì chủ xuất thầy thuốc, thầy bói hoặc nhân tài về phong thủy địa lí. Nếu có đỉnh núi hình quả hồ lô hoặc hình tiên kiều thì phú quý sẽ đến ứng nghiệm.

Vận bàn bát, thiên quẻ bát của phương Càn là “phục ngâm”. Đương lệnh có thủy nhưng không kị, chi cuối phát tài. Tốn Long thì thúc quan, chi trưởng vượng đinh, nếu hình núi mà đoan tú thì vị liệt tam đài; có đỉnh văn bút thì đại khôi thiên hạ.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=973&stc=1&d=1377827375

Ghi chú: Ngũ cửu thất cung trung, chủ uống thuốc độc, hỏa hoạn. trong “huyền không mật chỉ” nói: “tử hoàng độc dược, lệnh cung đoài khẩu mạc thường”. Trên hướng có sơn, sau tọa có thủy thì nên xem xét.

1268
30-08-13, 08:53
Tháng 2 năm Giáp Tý, Ngũ hoàng của năm tháng đến sơn, không thể tạo táng. Ngày mồng năm chính nguyệt năm đó (năm âm lịch) tác giả đã đến Trúc sơn chấn tuyền châu liên mai địa để tiến kim mộ họ Lâm. Khi ấy, gần đó có một mộ theo hướng Mão sơn Dậu hướng, đã xây xong nhưng chưa tiến kim. Chủ nhà của ngôi mộ này cũng ở đó và hỏi tôi: “thưa thầy, thầy xem mộ này của nhà tôi thế nào?”, tôi (người viết) liền trả lời rằng : “Về địa điểm và tọa hướng đều rất tốt, nhưng phải đợi đến năm 57 Dân Quốc (tức năm Bính Dần) mới được tiến kim. Nếu trong vòng một tháng từ ngày mồng 3 tháng 2 (tiết Kinh trập) mà tiến kim thì…”.

Tôi ngừng nói và chủ nhà lại cố hỏi tiếp “thì sẽ làm sao ạ?” . Bởi vì tiên sinh chủ canh của ngôi mộ này và tôi là chỗ quen biết với nhau, nên quả tình tôi rất khó có thể nói tiếp, tuy nhiên, chủ nhà cứ tiếp tục gạn hỏi, và có ý bảo đảm rằng sẽ không nói với người thầy đã lập hướng kia, khi đó tôi nói: “Sau khi tiến kim nhanh nhất là 5 ngày , chậm nhất là 50 ngày, chắc chắn có người tử vong”. Về sau những người bạn của họ Lâm, họ Thạch cũng chạy đến kể cho tôi biết rằng, quả thực ngôi mộ Mão sơn Dậu hướng này đã được tiến kim trong tháng 2, vừa mới tiến kim xong 5 ngày thì đứa cháu của chi thứ hai chủ nhà đang chơi dưới một chiếc xe chở cát đá ở trong vườn nhà mình, xe đó là của người khác, bởi vì khi đó trời đã xế chiều, trời hơi tối nên khi khởi động xe, người lái đã không nhìn thấy đứa trẻ đang chơi dưới xe kia vì thế đưa bé bị xe cán mà chết. Tôi nghe xong, tâm trạng rất buồn, vị gia chủ kia đã không nghe theo lời khuyên của tôi, đồng thời kinh ngạc than thở sự linh nghiệm của pháp thuật huyền không.

Mão sơn Dậu hướng, thủy ở trên hướng kị Dậu Tân cùng đến; bởi vì Tân nạp ở Tốn, “bát sát” của nó ở Dậu, là “âm bát sát”, chủ lãnh thoái (chi thứ 2) . Nếu thu thủy cung Mùi thì là “ lôi cước thủy” (chủ sét đánh chết), đều không dùng được.

Ghi chú “ bát sát thủy” và “ lôi cước thủy” không phải là thủy pháp của huyền không, nhưng người viết đã khảo sát, có nghiệm nên đã viết ra. Khẩu quyết “bát sát” là

“Khảm long khôn thổ chấn sơn hầu, tốn kê càn mã đoài xà đầu;
Cấn hổ li chư vị điệu sát, trạch mộ phong chi nhất tề hưu’

Đây là quẻ khởi pháp trong “Lạc thư”, nếu thêm vào “điệu sát” của thiên quẻ trước sau thì “tam điệu sát” của “Càn khôn quốc bảo”.

1268
30-08-13, 08:54
Nhận tổ quy tông
Lúc 16h 37 phút ngày 30 tháng 4 năm1992, (Giờ Bính Thân, ngày Bính Tí, tháng Giáp Thìn, năm Nhâm Thân,) tác giả đã an táng (tiến kim) Hứa Công (sinh năm Mậu Tuất, tức năm 1898) ở công mộ thứ nhất chấn Trúc Sơn. Mão sơn Dậu hướng kiêm Ất Tân, Tân Mão Tân Dậu phân kim dịch bàn tọa địa trạch lâm hướng thiên hướng độn nhị hào, châu thiên tọa ở 90 độ 20 phút. Lai long Tốn kiêm Tỵ , lai thủy Tốn chuyển sang Ly, Khôn , Đoài, rồi chảy ra Càn, đều không nhìn thấy thủy quang, án sơn trước mặt là những đồi nhỏ hình vòi voi, thấp hơn huyệt . Tiên nhân (ngư ông) triệt mạng hình chi mạng giác huyệt “ thổ giác luyến kim”.

Năm thứ hai sau khi an táng, chị gái chủ sự nhà họ Hứa nói cho tôi biết rằng: họ vốn họ Trịnh, cha của họ (người được an táng) từ nhỏ đã được đưa đến nhà họ Hứa làm con nuôi, bố nuôi nhà họ Hứa đói đãi với ông ấy không tốt lắm, nên ông đã phả trải qua những ngày tháng cực khổ ở nhà họ Hứa. Nhà họ Hứa ai cũng biết rằng ông là cốt nhục nhà họ Đặng nhưng những người nhà họ Hứa không bao giờ nói căn nguyên của họ là ở đâu, họ thăm dò bao nhiêu năm cũng không có kết quả gì. Sau khi mộ này an táng không bao lâu thì dòng tộc họ Hứa đột nhiên đến tìm họ, do vậy mới được nhận tổ quy tông. Bà ấy còn cho tôi biết: Dòng tộc họ Đặng là vọng tộc, đã từng được hoàng đế ban tặng một thanh đao lớn, trong đời ấy đã có những mấy tiến sĩ liền.

Chủ sự sinh vào giờ Mậu Thân, ngày Nhâm Ngọ, tháng Kit Tỵ, năm Giáp Thân (năm 1944); chị gái của chủ sự (đã lấy chồng) sinh vào giờ Kỉ Mão, ngày ất Sử, tháng Canh Tý, nãm Bính Tý ( 1936); vợ của chủ sự sinh vào giờ Ất Mão, ngày Mậu Thân, tháng Bính Dần, năm Giáp Thân; con trai trưởng của chủ sự sinh vào giờ Nhâm Tuất, ngày Quý Dậu, tháng Tân Sửu, năm Bính Ngọ ( năm 1966) ; con trai thứ sinh vào giờ Mậu Dần, ngày Kỉ Mão, tháng Canh Thân, năm Mậu Thân, con gái trưởng sinh vào giờ Kỉ Mão, ngày Ất Mão, tháng Ất Mùi, năm Tân Hợi, năm 1971), con gái thứ của chủ sự sinh vào giờ Tân Dậu, ngày Mậu Dần, tháng Kỉ Hợi, năm Bính Thìn ( năm 1976) .

Tôi (tác giả) đã tạo hướng an táng cho không biết bao nhiêu người, các loại phúc ứng đều có cả, nhưng loại phúc ứng nhận tổ quy tông như thế này thì đây là lần đầu tiên gặp phải. Ngoài sự vui mừng thay cho gia chủ, thì càng kinh ngạc hơn về sự huyền diệu của địa lí. Tiếp tục nghiên cứu về nguyên nhân của phúc ứng nhận tổ quy tông này thì thấy đó là ở lục bạch Ái tinh của dị long, là càn quẻ, là phụ , là tông, là viễn; Bát Bạch Ái tinh của thủy khẩu là quẻ Cấn, là miếu, (sau khi cha chết thì đưa vào chùa thờ), là trung. Nghĩa quẻ của lục bát có hàm ý là “tông miếu”, “ thận trung truy viễn”, do đó mới có thể cảm ứng thành nhận tổ quy tông. Dưới đây là một số ghi chú, xin cung cấp để bạn đọc tham khảo, nghiên cứu.

Ghi chú: (1) Mộ này an táng vào Lục vận, an táng theo Canh sơn Giáp hướng hạ quẻ, trong rừng trúc của một núi nhỏ thuộc Lí Ngư chấn Trúc Sơn , Mùi Khôn Thân lai long (ái tinh nhị), phía trước gần mộ có một khe suối nhỏ, chảy từ hướng đông bắc, qua trước mộ rồi về hướng nam, không thấy thủy quang, ở phương Tốn (ái tinh cửu ngũ cửu) có âm thanh nghe rất rõ, bốn bề đều là quế trúc lâm, không nhìn thấy mặt trời, bia mộ ô hắc, bám đầy rêu xanh.

(2) Cách an táng của tôi là “ thiên tinh khóa” , cũng có cảm ứng là nhận tổ quy tông, do bài viết có hạn mà không thể đưa ra để tham khảo, rất mong độc giả thông cảm.

1268
30-08-13, 08:55
Thái Nhất Lương chú giải:
Đắc được vượng sơn vượng hướng mà không có khởi tinh để tìm thì cần tiền diện có tứ thủy, hậu diện có tú sơn cao thì đinh tài đều vượng. Thủy ở trước 9 37 là Chấn Canh hội cuộc, chủ có quyền lực văn võ, công nghiệp thương phẩm vang tiếng hải ngoại, đại phát tài. Hậu diện có tú sơn 5 72 thì xuất y sư, luật sư, nếu ở phương 2 5 thấy thủy nhưng cũng bị tật họa. Phi tinh đoán rằng: Năm Tí Qúy, Liêm Trinh phi đến âm xứ, tức là 1 thêm vào 2 5, chủ tổn thương tráng đinh, sanh quái thai, sỏi tử cung.

Cuộc này nghi Thìn Tốn lai long, thủy khẩu xuất Càn khứ thì đại phú quý, các phòng đều phát, đời đời vinh hiễn khoa Giáp. Nếu Đoài Khôn có sơn 3 8, Tốn Ly 16 sơn, Cấn Chấn 2 7 sơn, Càn Khảm 4 9 sơn, đấy là đắc pháp địa phối thủy, chủ các phòng đều phát đinh tài, tức là hợp sinh thành vậy.

Dậu hướng kỵ Tân thủy đồng lai, ấy là nạp giáp bát sát, nếu thâu Mùi thủy đáo đường thì bị sét đánh. Trung cung 7 59 có ốc trạch hình hỏa hoặc có mái ngói màu đỏ thì đến niên tinh 2 52 chủ bị đại hỏa thiêu cháy hết.

Dương trạch môn nghi Dậu Càn Tốn. Tọa Tí Sơn, sàng vị môn nghi tại Tí Khôn Chấn Tốn Tọa Ngọ Sơn, môn nghi tại Tí Ngọ Cấn Đoài Tọa Dậu Sơn, môn nghi tại Mão Khôn Khảm.

1268
30-08-13, 15:25
34. MÃO SƠN DẬU HƯỚNG KHỞI TINH


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=974&stc=1&d=1377851017

Kiêm Giáp Canh, Quý dậu phân kim. Hướng từ 262,5 đến 266 độ
Kiêm Ất Tân, Tân Dậu phân kim. Hướng 274 đến 277,5 độ


Chu Nghĩa Minh chú giải:

Bố cục này không có bàn thứ hai (vô “thể” khả tầm). Nếu hình khí tương bội (tức là bài sơn mà có thủy, hoặc bài thủy mà có sơn) thì chủ tổn đinh phá tài. “Huyền không mật chỉ” nói: “phu phụ tương phùng trên đạo lộ nhưng hiềm thổ cách bất thông tình”.

Cách đoán của bố cục này giống với của hạ quẻ, duy chỉ có điều những người hợp hình khí thì phú quý nhưng tiêu tốn. Nếu kiêm Giáp, có sự chênh lệch về âm dương thì trước tiên phát về phận gái, sau đó mới phát cho con trai. Kiêm Ất thì không giống như vậy. Nếu như mão Ất bình kiêm thì gọi là: nhị nữ đồng sàng” , nếu lâu dài thì chủ không sinh dục mà tuyệt tự. Bố cục nay nên là Ngọ Đinh, hoặc Ngọ Đinh lai long, Cấn Dần lai thủy, phương càn xuất thủy. Như vậy có thể thu thủy của phương Tốn tạo thành ngũ cát. Phương Khôn Thân có đỉnh núi cao thì chủ sinh người thông minh tinh tuệ; Bát vận xuất văn khôi, trung hiếu truyền gia, hơn nữa lại là chủ sinh con gái thông minh hơn người. Tóm lại, phương vị tiên thiên của Khôn là Tốn, Tốn là hậu kí, là văn xướng, là trinh tiết.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=975&stc=1&d=1377851017


Ghi chú: nếu tọa Mão kiêm Giáp hướng Dậu kiêm canh hoặc tọa ở trung tuyến mão giáp hướng Dậu Canh, thì phải có ngũ, cửu nhập trung thuận hành, lập ra một bàn khác rồi phán đoán nhờ vào sự kết hợp Ái tinh của hai bàn.

1268
03-09-13, 09:40
35. ẤT SƠN TÂN HƯỚNG HẠ QUẺ


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=982&stc=1&d=1378175904

Chu Nghĩa Minh chú giải: Tương tự như Mão Dậu hạ quẻ

Bố cục này nếu kiêm Thìn thì khí quẻ tạp, khuyết nhân đinh. Nếu bốn phương mà không có núi, duy chỉ có phương Tỵ có thể nhìn thấy một ngọn núi hoặc núi của bốn phương đều thấp, duy chỉ có núi của phương Tỵ là cao hơn một chút thì chủ khoa giáp công danh ( Dưới chân núi tốt nhất là có triều thủy).

Đàm Dưỡng Ngô nói: “Bố cục sơn hướng này, lệnh tinh Thất Xích đến sơn đến hướng, đầu hướng khắc nhập là vượng, những bố cục có ngã ba hoặc có sân trống thì vận chủ phát. (Trung án: nhà ở mà có đường vào cửa là “ trực đạt”, là phát nhất). Nếu có án sơn thì tai họa nghiêm trọng xảy ra. Tọa sơn sinh nhập, là vượng khí đặc biệt kị có thủy, nếu không tai họa khó tránh. Tối yếu, lấy thủy “chi” , “huyền” của cung Càn, trong vòng 20 năm từ Giáp Thân đến Giáp Ngọ đại vượng.

Cung Tốn lấy đó làm bổ xung, có tú khí thì nhất định có công danh phú quý. Cung Khôn có long thưởng cát, thủy thì bất lợi. Cung Khảm kị thủy, cung Cấn kị sơn, người có mệnh nhất Bạch thì chủ hung dữ, Tam Bích đều bất lợi. Lưu niên thêm đinh, các năm Tuất, Hợi , Thìn, Tỵ, đều lợi, căc năm Mão Dậu đều tốt lành nhưng các năm Tý, Ngọ, Mùi, Thân đều không lành (trung án: các phương Ly, Khôn, Khảm có thủy thì các năm Tý, Ngọ, Mùi, Thân đều tổn đinh).

Trên hướng kị có đỉnh núi nhọn hướng về, đó là “đoài vị minh đường phá chấn”, là “xuyên tâm sát”, đại hung.


http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=983&stc=1&d=1378175904

Ghi chú: tọa sơn thất nhị, phải có núi hình “hồ lô”, “thất tinh”, như vậy thì chủ xuất danh y, thầy bói mà hưng gia.

1268
03-09-13, 09:42
*. Thái Nhất Lương chú giải:

Vượng sơn vượng hướng, giống như Mão hướng không có thể tinh để dùng, chỉ khác là có kiêm Thìn quái khí, cách cung tạp khí chủ thiếu nhân đinh. Hướng thủ có hồ nước tròn đẹp (viên tú) hoặc tam xoa thủy khẩu, đương lịnh lại trùng trùng khắc nhập thì tốc phát tài. Hậu diện có sơn tú lệ thì xuất nữ pháp quan, luật sư, y sư. Minh đường nghi có 1 mãng thủy điền suốt năm có nước, hoặc có hồ nước bình tịnh, không có sơn triều án cao nhọn hoặc đại cao ốc thì phát tài quý.

Càn phương thấy thủy chi chuyền thì đến bát vận phát điền sản, đắc công danh phú quý. Dương trạch môn tiền có đại lâu áp bức gần thì không phát tài, nhiều hung họa.

Mão sơn không nên kiêm Giáp, Ất Sơn không nên kiêm Thìn, nếu đắc sơn thủy thì chỉ phát cho người khác họ hoặc con gái, mà không phát đích tôn bổn tộc.

Cuộc này nếu 4 phía có sơn thấp nhỏ, chỉ có sơn ở Tốn phương cao đẹp, dưới sơn có hồ nước thì phát đời đời văn tú khoa danh.

Dương Trạch môn nghi Tân phương, lai lộ ở Càn phương thì đại phát tài 40 năm, môn ở Tốn thì xuất văn tú, gian khổ đắc tài. Hạ quái sàng vị tọa Qúy Sơn, môn nghi tại Qúy Thân Ất. Tọa Đinh Sơn môn nghi tại Qúy Đinh Dần Tân. Tọa Tân Sơn, môn nghi tại Ất Thân Qúy Đinh Cấn. Khởi tinh cuộc sàng vị tọa Qúy Sơn, môn nghi tại Thân Ất Tị. Tọa Đinh Sơn môn nghi tại Ất Thân Qúy Đinh Cấn