Tích chất của các sao Thái Ất
1. Sao thái ất
Theo các sách kinh điển, thái là tôn thần của thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần*.Sao thái ất chủ về dự đoán gió mưa , hạn hán lụt lội, chiến tranh đói rét bệnh tật, xem tình hình trong nước, sao thái ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn.
Sao thái ất vận hành trong 8 cung qua bát quái, không vào trung cung. tại mỗi cung thái ất cư trú 3 năm. Năm thứ nhất gọi là lý thiên,năm thứ 2 gọi là lý địa, năm thứ ba gọi là lý nhân.
- Ở năm thứ nhất, chức năng lý thiên của sao thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh các thất lạc độ số các hiện tượng mặt trời mặt trăng, các sao xấu biến động phát sóng gây nên các hiện tượng quái gở
- Ở năm thứ hai, chức năng lý địa của sao Thái ất có nhiệm vụ điều chỉnh những biến động về núi lở, đất hõm, sông xê dịch, đất đai cây cối.
- Ở năm thứ ba, chức năng lý nhân của sao Thái ấtcó nhiệm vụ điều chỉnh những biến động về vua tôi các hiện tượng cha con khẩu thiệt, đói rét, lưu vong trong nhân gian.
Sau 24 năm, sao thái ất đi hết một vòng bát quái.
Thái ất đi vào cung nào mà gặp Yểm, Kích, Cách , Bách ở đất Tuyệt dương, lại cùng lịch số giống nhau thì thật là tai hại lắn. Có điều bất phát, ấy là không ở 960 hạ nguyên, cho nên tai hoạ dẫn đến nhẹ bớt. Nếu số dương 360 mà hợp với giáp tý hạ nguyên, tức là có tai ách về binh cách, công phạt thoán đạt, đánh úp giết chóc.
-Cung 1 ở Càn chủ các châu Ký, châu Tịnh . Nếu Văn xương Quan và Tù thì tướng tá hiếp bách vua cha.
-Cung 2 ở Ly, chủ các châu dự châu kinh, Thái ất tới cung này là vua ở minh đường giết các tướng gian tà
-Cung 3 ở Cấn, chủ châu thanh, hậu phi bị cấm cung, có thuỷ kích lâm vào thì được tiến cử và sủng ái, ở cung giữa thì binh khởi.
-Cung 4 ở Chấn chủ châu từ, có thuỷ kích lâm vào thì rợ tây nhung đem xâm lấn.
-Cung 6 ở Đoài , chủ châu ung, có khách đại tướng lâm vào thì nam sở xâm lấn
-Cung 7 ở Khôn, chủ về châu Lương, châu Ích, có chủ tướng lâm vào thì lương ích nổi binh.
-Cung 8 ở khảm, chủ châu Duyện Thái ất lâm vào thì sáng suốt bình trị, nhị mục đối xung thì đại thần bị giết.
-Cung 9 ở tốn, chủ châu Dương, có khách đại tướng lâm vào thì rợ bắc dịch xâm lấn.
2. Sao kể thần
Người xưa nói :" Sao kể thần là con rồng đuốc của sao thái ất".
3. Sao văn xương
Còn có tên la thiên mục. như phép thời kế dùng cách này để dẹp quân đánh úp và nghe nghóng tình hình giặc để phòng bị
* 16 thần: 1.Ân đức, 2.Đại nghĩa, 3.Địa chu, 4.Dương đức,5.Hoà đức, 6.La hầu, 7.Cao tùng, 8.Thái dương, 9.Đại trắc, 10.Đại thần, 11.Thiên uy, 12.Thiên đạo, 13.Đại vũ, 14.Vũ đức 15.Thái thốc, 16.Âm chủ
4. Sao Thủy Kích (Hỏa)
Thủy Kích còn gọi là Mới Kích, Ðịa Mục (Mắt Ðất), Khách Mục.
Thủy Kích là tai họa của Huỳnh hoặc (loại sao chổi), loạn khí bởi hỏa đức toát ra ở hỏa hạ Nam Phương. Nó làm tổn thương Kim khí. Nó hành sử vô thường. Nó báo trước có tai họa về binh đao, đói khổ, tang tóc, giặc cướp, lưu vong. Nó ở đâu, đấy có họa biến, lưu vong, ở Nam thì đàn ông, ở Bắc thì đàn bà: chết nhiều chẳng ngừng, binh tan, mất đất.
Nó còn ứng việc lụt lớn, sóng thần, tuủ tang, loạn vong, cướp giặt, phục binh, lửa cháy ngút trời, dân chúng hoảng sợ, loạn từ bên ngoài.
Ngoài ra, nó còn báo một thiên tử, một thánh minh xuất hiện
Thủy Kích là khách mục của Kể Thần, vượng vào mùa hạ, thuộc phụ tướng Thái Ất thống nhất uy vũ, nắm quyền chinh phạt, vận động binh quyền.
Về Kể Ngày
- Thần hung Thủy Kích, sao lửa đằng đằng. Nó giữ ngôi kích bác khiến Thượng đế còn e ngại, thường buộc chân Đại Tướng. Mọc ở Đông: Tuệ. Mọc ở Tây: Bột. Mọc ở Nam: Thủy Kích. Ở Bắc: Thái Ất. Ở giữa: sao Phạt.
- Ở Dần: khoa danh. Ngọ là vào Miếu. Tuất là đáy lửa: Vị là vào hầu. Tỵ là vượng.
- Người Mậu Quý là “sao ngọn lộc trời”. Tới đâu, đấy bin đao, trộm cướp, giết chóc nhân dân, máu chảy ngàn dặm.
- Ở Thân Mệnh người: trai dâm, gái con hát, trai gái gặp ách đổ máu. Trai chủ giết chóc, gái chủ chết đẻ. Tới 4 trụ chính: chết cha mẹ.
Vận số gặp phải, cùng Phi Phù, sao hung đuổi đánh, định là ngán đời chết bạo.
Duy người Mậu Quý thì lại phát phúc:
- Trên Dần, khoa danh cao. Trên Ngọ là bậc quí, lộc lớn tại hai phủ. Trên Tuất là tiền tài nhiều, lộc lớn, quyền quí chức tước, hưởng lộc dày. Người Ất Canh nên làm đức để cầu đảo. Vì thế tuổi Mậu Quý mà gặp vận Dần Ngọ Tuất một khi có Thủy Kích tại ngày giờ Thân Mệnh thì phát giàu, phát quý rất lạ. Chỉ sợ có ác tinh cùng cung sẽ giữa đời bị tàn tật, nên làm phúc tu đức.
Tuổi Mậu Quý gặp Thủy Kích trong mạnh ở Dần Ngọ Tuất là đầu lộc trời đến phù trì: vàng châu đầy cửa, vườn nương phát thịnh vượng tối đa, học cao, xuất chúng, võ thống soái.
Còn hạn số, Thân Mệnh Ngày Giờ của các tuổi khác mà gặp thì nên phòng sẽ có suối vàng dạo quanh.
Thủy Kích ở chính cung Mệnh: sớm lìa cha mẹ. Thủy Kích chiếu vào ngày giờ sinh, hay ở bên cũng hoặc lìa cha mẹ, hay làm con nuôi.
Ở 4 trụ mà:
Đồng cung Quân Cơ: chết vì thích tiếm ngụy (đó là trường hợp ếm): khó thành sự, được thì không lâu mà bị chết, hay bị hình thương.
Đồng cung Thần Cơ: bị quan hình, bị ở nhà giam bị chết không toàn thây.
Đồng cung Dân Cơ: số thất bại, đổ vỡ, lụy vướng chân, phòng có biến.
Đồng cung Văn Xương: không có số keo sơn gắn bó mà bị phản, dù có mưu toan cũng bị trật đường rầy.
Cùng cung Thần Kể: sao hung mưu người bị người phản lại, khó giữ vẹn thân đến già.
Cùng cung Tham Chủ: tôi tớ hại phản.
Cùng cung Tham khách: bị bọn tiểu nhân âm mưu hại.
Người đàn bà mà Phi Phù, Thủy Kích trong Thân Mệnh: số khóc chồng, chẳng vẹn lòng về chồng con dù có mười đời chồng (số sát chống)
Về Tuế Kể
- Thủy Kích cùng cung Thái Ất là yểm: nảy sinh việc binh.
- Năm nào Thủy Kích vào Thái Dương, Âm Chủ: ứng việc binh.
- Nó ở hai bên tả hữu Thái Ất, ở gián thần gọi là Kích: báo hiệu có việc bôn tẩu, vua quan lo sợ.
- Nó cùng cung Văn Xương, gọi là Chặn, nếu được cung vượng tướng mà Thủy Kích ở 2, 8, 3, 7 thì chủ thắng, ở cung 4, 9, 1, 6 thì khách thắng.
- Nếu có Yếm Chủ đại, Chủ tham thì chẳng kể vượng tướng đương nhiên là bại và chết.
nguyenvu