Trích : Hồi ký Nguyễn Hiến Lê
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau: “Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên.
Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết.[Chính là tôi và ba em tôi ]. Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được. (…)
Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng”. (trang 174-175). Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai. So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy: – Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh. Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ… cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương…, nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa (Tử vi) đó không hợp lí vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.
Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa? Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được. Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.
Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.
Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm). Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con… Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà (?), họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời. Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Không vong (Tuần Không) trong Tử bình
Theo tính toán ngày xưa, mười Thiên Can phối với 12 Địa Chi chia ra Âm Dương. Khi ghép Thiên can và địa chi tính từ Giáp tới Quý sẽ dư ra hai địa chi cuối, hai địa chi này sẽ gọi là không vong cho tuần Giáp đó.
Tuần Giáp Tuất: Không vong tại Thân, Dậu
Tuần Giáp Thân: Không vong tại Ngọ, Mùi
Tuần Giáp Ngọ: Không vong tại Thìn, Tị
Tuần Giáp Thìn: Không vong tại Mão, Dần
Tuần Giáp Dần: Không vong tại Tí, Sửu
Không vong tức là không hoàn thiện, thiên can chưa tới và địa chi chưa hợp, không đủ linh khí, vì thế khi xét các ngày thuộc các tuần Giáp, tương ứng mỗi tuần khi gặp các ngày không vong thì sự việc, con người... đều không hoàn thiện, không tốt và hay gặp trắc chở.
Không Vong là trạng thái có thể diễn tả như bị mất phương hướng, trạng thái vô trật tự, không bám víu. Chữ Không là Rỗng, chữ Vong là Mất. Vậy mọi thứ lọt vào KV không phải gọi là không có tác dụng gì hết, nhưng hiểu là tác dụng ngược lại cái vốn có.
Cát thần và dụng thần lọt vào KV thì mất điểm tốt. Hung thần và kị thần thì cũng mất tác dụng xấu của nó.
Những kinh nghiệm sau có thể theo từng tứ trụ xét cho kỹ:
1. Chi nào xung với Chi có KV thì giải được KV. Cẩn thận là kị thần đang bị nhốt trong KV lại có cơ hội làm loạn! Dụng thần và cát thần thì dĩ nhiên tốt đẹp.
2. Chi có KV được lục hợp, tam hợp không thấy được hóa giải, chỉ có Xung mới giải được.
Tử bình chân thuyên khi bàn về Vận cũng có câu: Gặp Không thời hung biến cát, cát biến thành hung. Tức là nói tới :
- nếu vận hạn gặp dung thần, cung trường sinh của nhật chủ là Đế vượng, Lâm quan, Lộc, có Mã tốt, có Quý Nhân, nhập Mộ khố thời là vận tốt, nhưng Chi của đại vận là KV thì biến cát thành hung.
- nếu vận hạn gặp Dương nhận, Đào hoa Sát, thân hưu tù, tử tuyệt, có kị thần, cừu thần mà Chi là KV thì biến hung hóa cát; ý cũng là một cách giải kị thần.
Chủ yếu nhớ KV giống như "đảo ngược tình hình".
Tài, Quan, Ấn nếu tọa vào trụ có Chi mang Không vong thì bị khó khăn như nói ở trên. Thường thì Không Vong mang cả tính chất thời gian và định tính trong đó, có nghĩa là nếu Không vong trụ năm thì những biến cố thuộc về khoảng thời gian 1 tuổi đến 17 tuổi là không tốt đối với bản thân. Xuất thân từ gia đình trung bình, hoặc không được nuôi dưỡng tốt, phải tự lập quá sớm..v.v...