thieuba, mina, tôi cứ nhớ thế này cho gọn: "ngũ hành mộc dục là hàm trì/đào hoa". Trong câu: "Dần Ngọ Tuất tại Mão" chính là ý nói Bính/Mậu tọa mộc dục ở Mão, nên những ai sinh có địa chi Dần, Ngọ, hay Tuất ở trụ ngày (hiện thời chỉ luận từ trụ ngày) gặp trụ khác có Mão thì trụ đó có Hàm Trì/Đào Hoa.
Điều trên mới nói đến địa chi, chưa liên hệ gì đến thiên can nhật chủ. Vì thế khi nhật chủ Giáp gặp Mão gọi là "Đào hoa Nhận" hay "Đào hoa Kiếp", bởi vì Giáp còn được xét là dương nhận tại Mão.
Các cụ sau này cứ đặt tên mới liên miên ra, làm học trò chúng ta cũng phải... phân vân.
Còn các cụ khi trước thì chắc là ngồi ngắm trăng uống trà nên đặt tên cho các "Đào hoa" thế này:
"Đào Hoa Xuân lấy Mão mộc là chân đào hoa. Tân Mão là tử đào hoa, Quý Mão, Kỷ Mão là hoạt đào hoa, Ất Mão là nhân từ đào hoa, Đinh Mão là dâm dục đào hoa...."
Hiểu là từ tháng giêng đến tháng ba là thời kì hoa đào nở ra, gọi là "đào hoa xuân". Tân gặp Mão (hay tọa trên Mão) là "tử đào hoa" vì Tân khắc Ất trong Mão (hoa bị chém?), v.v...
Các mùa khác đều có tên gọi riêng cho từng cặp can chi tọa Đào Hoa. Lại còn có "cổn lãng đào hoa", "biến dã đào hoa", "tường ngoại đào hoa".... , toàn là những danh xưng mỹ miều cho từng cặp phối hợp như thế.
Theo tôi thì chỉ cần xét trụ nào có Tí, Ngọ, Mão, Dậu tương ứng với địa chi nhật chủ thế nào là có Đào Hoa ở đó. Thật đơn giản. Sau đó xét thêm các mối liên can hình, xung, khắc, hại với bát tự là đủ.
Thân Tí Thìn > Dậu (Nhâm mộc dục tại Dậu)
Dần Ngọ Tuất > Mão (Bính, Mậu mộc dục tại Mão)
Tị Dậu Sửu > Ngọ (Canh mộc dục tại Ngọ)
Hợi Mão Mùi > Tí (Giáp mộc dục tại Tí)