5 – Thập nhị chi phân phối địa lý ( tiếp theo)
* Tỵ là đại dịch , nhân yên thấu tập đạo lộ thông đạt chi địa , trong Tỵ có Bính hỏa Mậu thổ là tượng vậy , lại sau Tỵ có Ngọ mã nên gọi đại dịch . Sanh ở Tỵ thì thích gặp giờ Thìn tức Xà hóa Thanh long có cách là Thiên lý long câu .
* Hợi là huyền hà , Thiên hà thủy chảy đi mà không hồi về nên gọi là huyền hà , Hợi là Thiên môn lại thuộc thủy chẳng có tượng huyền hà ư . Sanh năm Hợi mà nhựt thời gặp Dấn Thìn nhị tự thì gọi là thủy cũng lôi môn.
* Thìn là thảo trạch . Tả truyện nói : núi sâu đầm lớn thì rồng rắn sanh vậy . Trạch là nơi của thủy , Thìn ở phương Dông là thủy khố nên có cỏ có trạch . Thìn mà gặp Nhâm tuất Quý hợi thì gọi là Long quy đại hải cách .
* Tuất là thiêu nguyên , Tuất thuộc tháng 9 Thu , cây cỏ héo úa , ruộng vườn thì thiêu đốt mà canh tác , lại Tuất thuộc thổ nên lấy tên là thiêu nguyên và đất Tuất Thìn thì quý nhân đều không đến . Sanh Tuất mà gặp Mão gọi là Xuân nhập thiêu ngân.
* Sửu là liểu ngạn , trong Sửu có thủy có thổ có kim và ngạn là thổ liểu chỉ thủy cho nên gọi là liểu ngạn vậy . Thi viết : Liểu có màu hoàng kim non trẻ vậy . Người năm Sửu mà giờ gặp Kỷ Mùi gọi là nguyệt chiếu liểu sảo rất là thượng cách .
* Mùi là hoa viên , vì sao thuộc Mùi mà không thuộc Mão , vì Mão là vượng mộc mà tự thành lâm , Mùi là khố mộc như người xây tường thành để bảo vệ trăm hoa vậy , lấy trăm hoa mà nói thì trong mùi có tạp khí thôi . Năm Mùi mà có cách song phi là rất hay , như Tân Mùi mà gặp Mậu Tuất tức lưỡng can bất tạp vậy .