-
TT
Tam cát lục hung: Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng. Tam cát : một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỷ tránh; hai là âm dương xung hòa, ngũ thổ tứ bị , ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực có đủ ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho có thể đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức người tu bổ được, là cát. Lục hung : một, âm dương sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc; ba, sức nhỏ đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dưới; sáu, ứng biến quái dị. Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng vọng hưởng phúc, đối xử không đúng với người trên kẻ dưới, phá hoại đất lành, nhiều lần gặp chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà táng hung thì chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu.
Phong thi : Phép mai táng. phong tục thời cổ, trước khi chôn người chết bèn dùng thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín "thất khiếu", đề phòng thi thể khỏi bị thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm như vậy, thi thể sẽ không thể hóa, sinh khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem vứt xác xuống sông), đại hung.
Đạo táng : Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định : trước khi đào mộ chôn người chết, phải đem rượu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành 3 đoạn, rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì hung.
Ái khoảng: Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xưa, sau khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sưởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái khoảng sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản đối việc dùng gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều được chế tạo qua lò lửa, bên trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong đất, tiêu diệt ngũ hành, hung.
Hóa huyệt: Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng.
-
TT
Quan thượng gia quan : Phép mai táng. Phong tục xưa đem người chết sau chôn chung vào huyệt mộ của người đã chết trước, gọi là "quan thượng gia quan", ngụ ý để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng huyệt mộ được mai táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vượng, nếu đào lần thứ hai để mai táng thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ làm cho cả hai cùng hỏng. Một mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì huyệt thứ hai không có sinh khí; cho nên trong gia tộc đem chôn người chết sau chung huyệt với người chết trước là hung. Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy.
Trạch triệu: Đất huyệt mộ. Hiếu kinh. Táng thân viết : "Bốc kỳ trạch triệu nhi an thố chi". Đường Huyền Tông chú giải : "Trạch, nghĩa là đất huyệt mộ, triệu, đất mồ mả vậy". Vị nhân trần tình biểu của Trần Tử Ngang đời Đường có câu "Kim bốc cư trạch triệu, tương nhập cựu doanh" (Nay bói đất đào huyệt, đem an táng ở ngôi mộ cũ. Về sau các chữ "Bốc trạch", "Bốc triệu" đều chỉ việc chọn đất an táng, riêng Bốc trạch còn có nghĩa chọn nơi làm nhà ở. Xem mục Bốc trạch.
Ngưu miên địa: Đất huyệt mộ. Rút từ Tấn thư. Chu Phỏng truyện : "Hồi Đào Khản còn nhỏ, Đinh Gian chết, sắp mai táng, nhà có con trâu bỗng dưng bỏ đi đâu không biết. Gặp một ông già nói: Ở cái gò phía trước lão thấy có con trâu nằm ngủ, nếu mai táng ở đó, sẽ được làm quan to. Ông già lại chỉ tay về phía một quả núi mà nói, chôn ở đấy cũng tốt, đời này sẽ có người làm quan hưởng lương hai ngàn thạch, nói đoạn biến đi luôn. Khản tìm thấy trâu, nhân đó đem mai táng ở chỗ ấy". Về sau người ta bèn dùng hai chủ ngưu miên" (trâu ngủ) để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miên địa, Bình lập Thái sơn đới vĩ tư".
-
TT
Giai thành: Đất huyệt mộ. Rút từ Bác vật chí, quyển 7 "Dị văn" : "Đời Hán, Đằng Công (Hạ Hầu Anh) chết, định mai táng ở bên ngoài thành Đông Đô , các quan đi đưa tang, chiếc xe tứ mã chở quan tài. Mấy con ngựa không chịu đi, cứ hí thảm thiết và dùng vó cào xuống đất, hằn thành dòng chữ "Giai thành uất uất, tam thiên niên, kiên bạch nhật, hu giai Đằng Công cư thử thất" bèn mai táng tại chỗ đó. Về sau người ta bèn dùng hai chữ "Giai thành" để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miện địa, Binh lập Thái sơn đới vĩ tư".
Huyền thất: Nhà mồ. Tư đồ Lã Công lỗi của Trương Hoành đời Hán (xem Nghệ văn loại tụ, quyến 47): "Khứ thử ninh ngụ, qui ư u đương. Huyền thất minh minh, tu dạ di trường". Tấn thư. Tá Quí Tần truyện: "Ái định trạch triệu, khắc thành huyền thất". Thuật Phong thủy bèn dung hai chữ "huyền thất" để chỉ huyệt mộ.
Huyền trạch Huyệt mộ. Trịnh quân mộ chí minh của Hàn Dũ đời Đường (xem Xương Lê tập, quyển 32), có câu : "Động nhiên hỗn phác tuyệt hà thương, Giáp Tí nhất chung phản huyền trạch". Đôn Hoàng, quyển Tử Bá 3358 "Mộ huyệt phù": "Thử thư huyền thất tứ giác, đại cát lợi".
Huyền khư: Huyệt mộ. Quán thị địa lý chỉ mông. Thịnh suy cải độ đệ tứ thập" : "Đương sơ lũ khảm, cự khoa kim nhật chi huyền khư, huống thử giai thành, ninh bảo thiên niên chi hoang tần !" với lời chú "Huyền khư, nghĩa là huyệt vậy".
Sinh khoảng : Nhà mồ xây dựng cho mình lúc còn sống. Phong tục này có từ đời Hậu Hán. Hậu Hán thư. Triệu Kỳ truyện : Lúc còn sống, Triệu Kỳ xây dựng thọ tàng đúc 4 bức tượng Tử Sản, Án Anh, Lý Trát, Thúc Hướng đặt ở vị trí tân khách, lại tự vẽ chân dung mình treo ở vị trí chủ nhân, ngụ ý tán tụng". Lý Hiền chú giải : thọ táng nghĩa là nhà mồ, dùng chữ thọ, ngụ ý mong được lâu bền như chữ thọ quan, thọ khí vậy". Về sau, vào đời Đường, quan Tư không xây dựng sinh khoảng, mỗi khi đến ngày lành vào mùa xuân, mùa thu, lại mời quan khách đến đó ngâm vịnh. Ngày nay vẫn còn có người theo cách ấy, thực là một hủ tục.
THỦY ĐẠO VÀ THỦY HÌNH
-
TT
Thủy long: Chi thủy đạo (đường nước chảy) ở vùng đồng bằng. Thuật Phong thủy vốn lấy mạch núi làm Long, sinh khí tùy theo nó mà vận hành trong lòng đất, là Nội khí, còn thủy lưu thì gọi là Ngoại khí. Ở vùng đồng bằng sông nước, không có núi, chỉ có thủy, nên lấy thủy lưu làm Long, đồng thòi cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất mà vô hình, khi dồi dào sung mãn thì tràn lên mặt đất, tức là thủy. Quan sát thủy tức là quan sát khí, giống như tầm (tìm) Long ở vùng núi. Ca quyết nói: "Hành đáo bình dương mạc vấn tông, Chỉ khán thủy nhiêu thị chân Long" (Thủy Long kinh tự ). Thuyết thủy Long lấy dòng sông lưu thông làm Hành Long, tức là Can Long (thân Long), thân Long uốn lượn. giới định Ngoại khí. Mương ngòi, kênh rạch là các Chi Long (phân nhánh), Chi Long giao hội, Nội khí thai nghén. Dựa vào thủy Long mà định huyệt dựng nhà, lấy Chi không lấy Can, nhưng cần có Can Chi tương xứng. Can Long không có Chi, khí của nó dàn trải, không thiết thân với nhà ở, huyệt mộ. Chi Long không có Can, tuy phát phúc nhưng chẳng lâu bền. Điều quan trọng là phải phối hợp Can Chi một cách sinh động. Vùng sông hồ, nước mênh mông trông như đại Can, dựng nhà có thể hội tụ sinh khí, làm mộ chỉ cần Chi thủy có tình là được. Trong thuật Phong thủy, thuyết thủy Long căn cứ vào tình hình vùng sông nước mà được đề ra, có ảnh hưởng rất lớn đối với Phong thủy dương trạch.
Thủy thành : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu uốn quanh như bức tường thành. Sinh khí vận hành trong lòng đất, gặp thủy thì dừng; thủy lưu uốn lượn như cánh cung, giới hạn chân núi, ngăn dừng sinh khí, nên gọi là Thủy thành. Huyệt mộ, nhà ở đều cần nằm ở bên trong Thủy thành; nếu ở bên ngoài Thủy thành sẽ là phản cung, hung.
Ngoại thuỷ : Thủy đạo. Đối ứng với Nội thủy, tức là dòng nước chảy ở bên ngoài Minh đường. Thuyết thủy Long lấy Can lưu ở bên ngoài Chi thủy làm Ngoại thủy.
Nội thủy: Thủy đạo. Chỉ dòng nước chảy bên trong Minh đường. Nói chung, nó chảy theo hai bên mạch núi đến Minh đường, hội hợp ở trước huyệt, yêu cầu phải Bình, Hoành, Nhiêu; có thể dùng sức người cải tạo cho phù hợp với yêu cầu. Thuyết thủy Long lấy Chi lưu ở bên trong Can lưu sông nước làm Nội thủy.
Nhuế vị : Thủy đạo. Nhuế, nghĩa là chỗ dòng sông uốn khúc. Còn gọi Thủy bắc là Nhuế. Phần lớn vị trí của huyệt mộ, nhà ở đều tọa bắc hướng nam; vị trí sơn nam thủy bắc gọi là Nhuế. Nhưng yêu cầu thủy lưu phải ôm vòng lấy phía trong như cánh cung, thì chỗ đất ấy mới lành.
Nghênh tài: Thủy đạo. Chỉ phía trước huyệt mộ có thủy lưu bốn phía chảy tới hội tụ. Thủy tượng trưng tiền tài, nên gọi là nghênh tài. Mai táng thì cát.
Kim long: Thủy đạo. Thuật Phong thủy lấy Thìn sơn, Tuất sơn, Mùi sơn, Sửu sơn làm đất Tứ mộ; thuỷ chảy đi phương vị Tứ mộ là cát. Nếu dòng nước ở phương vị Tứ mộ thông thoáng, thì nói là Kim Long động; nếu dòng chảy ở đó bế tắc, thì gọi là Kim Long không động. Kim Long động, thì tại đất huyệt mộ âm dương điều hòa, thư hùng giao hội, cát lành. Kim Long không động, thì thiếu sinh khí, hung.
-
TT
Thủy khẩu : Thủy đạo. Chỉ chỗ nước chảy vào chảy ra ở phía trước nhà ở, thôn xóm hoặc huyệt mộ. Theo lý luận Phong thủy, sinh khí vận hành tùy theo mạch núi, gặp thủy thì dưng. Nghĩa là Lai Long từ xa đến, ắt cần có thủy lưu ở phía trước để ngăn Long tụ khí. Bất kể thủy lưu từ phương nào chảy đến và chảy đi phương nào, chỗ nó đến là nhập khẩu (chảy vào), cũng gọi là Thiên môn; chỗ chảy ra là xuất khẩu, gọi là Địa hộ. Hai chỗ đó gọi gộp là Thủy khẩu. Yêu cầu Thiên môn phải rộng rãi, không nên vòng vèo ách tắc; Địa hộ thì phải phong tỏa kín đáo, tối kỵ chảy thẳng đi một cách vô tình. Do tác dụng của địa hình, nước bao giờ cũng chảy từ chỗ cao tới, nói chung có thể tự nó tìm cách mở rộng lối đi, nên Địa hộ (chỗ nước chảy ra) càng trở nên quan trọng. Thuật Phong thủy trong đa số trường hợp nhắc đến thủy khẩu thì chủ yếu là nói về Địa hộ. Táng kinh dực viết: "Thủy khẩu là một phía mà các loại thủy cùng chảy ra vậy". Vị trí của thuỷ khẩu nên nằm ở giữa hai bên núi cao hoặc ở chỗ mạch núi uốn lượn; yêu cầu dòng nước uốn khúc mà chảy đi, không thấy nó chảy đi là cát Núi ở hai bên bờ thủy khẩu co 4 tên gọi là Sư (sư tử), Tượng (voi). Qui (rùa), Xà (rắn), lớp lớp che chắn trong thì tụ khí, ngoài thì chắn gió. Nếu Hanh Long phương khác thích hợp với thủy khẩu, sẽ tạo thành các cục diện Hoa biểu, Cản môn, Thiên mã đại quí. Xây dựng đô thành, lăng tẩm đế vương, thì núi ở hai bên thủy khẩu phải sừng sững, cao đẹp, hùng cứ một phương. Cự li của thủy khẩu có xa và gần. Nhìn chung, đất huyệt mộ cách thủy khẩu tương đối gần, còn thôn xóm đô thị thì cách thủy khẩu tương đối xa, từ 1 đến 2 ~ 3 dặm, 7 ~ 8 dặm, thậm chí vài chục dặm, 2 ~ 3 trăm dặm. Cách thủy khẩu xa tất là đại địa. Thủy khẩu đại chia ra nội, ngoại, đại, tiểu. Ngoại thủy khẩu tức Đại thủy khẩu, là nơi tổng vào ra của toàn bộ thủy lưu trong vùng, tức Tổng thủy khẩu. Bên trong Tổng thủy khẩu bất kể Lai Long nhiều hay ít, kết địa nếu là Can, thì sát thân mình cần có Tiểu thủy khẩu, tức Nội thủy khẩu, yêu cầu Sa phải thành lớp lớp thu thủy. Ca quyết viết "Quan môn nhược hữu thập trùng tỏa. Tất hữu vương hầu cứ thử gian"; (Táng kinh dực), là đất đại quí. Trong Phong thủy dương trạch, tại thủy khẩu người ta có thể tiến hành kiến tạo các công trình che chắn phong tỏa thủy khẩu, như bắc cầu, đắp đê, hoặc xây dựng trên bờ đình đài, lầu tháp, hoặc đắp gò nổi ngay trong nước. Ở vùng đồng bằng không có núi che chắn thủy khẩu, thi đòi hỏi thủy lưu phải uốn khúc, đồng thời phải kiến tạo công trình phong tỏa. Phương vị của thủy khẩu cũng có quy tắc phải theo; Ở vùng rừng núi, nói chung thủy lưu tùy theo hướng của mạch núi mà định, ở vùng đồng bằng, thì căn cứ địa thế cao thấp mà quyết. Đặc điểm địa hình của Trung Quốc là phía tây cao, phía đông thấp, nên các dòng sông chủ yếu chảy từ phía tây sang phía đông mà ra biển, cho nên thủy khẩu phần lớn cũng phải nằm ở phía đông, phía nam hoặc đông nam, mà phổ biến là ở phía đông nam. Thuật Phong thủy tổng kết rằng thủy khẩu ở vị trí Tốn sơn là cát lành. Thủy khẩu có nhiều tên gọi, ví dụ Phong môn, ngụ ý có gió thổi vào đây; gọi là Lậu đạo, ngụ ý sinh khí thất thoát từ đây; nên núi ở thủy khẩu có tên gọi Phong thành, Cản môn ngụ ý chắn gió, cản gió. Thuật Phong thủy cực kỳ coi trọng thủy khẩu". Có lý luận "Nhập sơn quan thủy khẩu" (vào núi quan sát thủy khẩu), cho rằng một vùng đất có đủ mọi điều kiện tốt mà thủy khẩu không được phong tỏa, thì rất hung. Tác dụng thực tế của thủy khẩu là giới định phạm vi bên ngoài của đất huyệt mộ, thôn trấn, đồng thời thủy khẩu cùng nằm ở chỗ địa thế thấp nhất, thường thường cũng là nút giao thông. Thuật Phong thủy rất chú trọng thủy khẩu về căn bản là do người ta coi trọng môi trường bên ngoài của huyệt mộ và thôn trấn.
-
tt
Kim tinh thủy : Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu uốn cong giống như cánh cung, như cầu vồng, lấy tọa bắc ôm vòng phía nam làm chính thể cát. Nếu tọa đông, ôm vòng phía tây, gọi là Hữu Kim, chủ con trai thứ phát phúc; tọa tây mà ôm vòng phía đông, gọi là Tả Kim, chủ con trai cả phát quí; nếu phản cung quay lưng lại chủ suốt đời bần cùng. Trên thực tế, nhà ở và huyệt mộ nhất thiết phải co thủy lưu ôm vòng ở một phương.
Mộc tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu chảy thẳng theo hướng nam bắc.
Vị trí đối diện thẳng với Mộc tinh thủy là bị bắn thẳng, hung. Mộc tinh thủy phối hợp với 4 tinh khác cung là hung, duy phối hợp với thổ tinh thủy thì chủ yếu là hung, chỉ có một chút cát lành.
Thủy tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, cát (lành). Thủy tinh thủy bất kể chảy về phía nào, nếu phối hợp với Kim tinh thủy đều là cát; nếu gặp Mộc tinh thủy, Hỏa tinh thủy bắn thẳng thì hung.
Hỏa tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu đến xéo đi xéo, hai thủy giao nhau thành mũi tên, trông thẳng cứng hoặc hơi uốn lên, hung. Chỉ có một thry đến xéo đi xéo, gọi là Tà phi, cũng hung. Hỏa tinh thủy phối hợp với các tinh khác, cũng hung.
Thổ tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu tràn ngang, theo hướng đông tây, hung. Các biến thể như Thổ thành thủy, Trung thổ thủy thì cát.
Thanh long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía đông (phía bên trái) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
-
tt
Chu tước thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía Nam (phía trước) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng và tiếng nước chảy của nó mà xác định cát hung.
Bạch hổ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía tây (phía bên phải) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Huyền vũ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía bắc (phía sau) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Triều thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu chảy đến từ phía trước nhà ở và huyệt mộ. Yêu cầu nó phải uốn lượn như con rắn trườn mình mà tới, hoặc như dải ngọc quấn quanh eo lưng, trông dịu dàng hòa hoãn. Ca quyết nói: "Thủy kiến tam loan, phú quý an nhàn" (Thủy Long kinh). Nếu chảy thẳng đến, gọi là xung xạ, đại hung.
Kiềm thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ôm vòng hai bên tả hữu huyệt mộ như cái kìm, còn gọi là "Lưỡng thủy hợp". Sau khi mai táng chủ con cháu không phú thì quí. Nếu bên trong cái kìm có chỗ đất cao, định huyệt tại đó, chủ con cháu văn võ toàn tài.
Đấu thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu có hình dạng tròn, lõm, khuyết như cái đấu. Ca quyết nói: "Long hổ lưỡng tương đấu, gian nghịch đa hung cữu, phụ tử bất tương thân, huynh đệ như cừu khấu" (Thủy long king). Hung.
Xung xạ: Thủy đạo. Phàm thủy lưu chảy thẳng đến trước nhà ở hoặc huyệt mộ, đều gọi là Xung Xạ, đại hung.
-
tt
Phân phi: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy đi, gọi là Phân phi. Hung.
Phi thủy: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở một bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy đi, chứ không ôm vòng lấy phía trong gọi là Phi thủy, hung.
Phản thủy : Thủy đạo. Phàm thuỷ lưu ở một bên hoặc cả hai bên nhà ở và huyệt mộ như cánh cung ôm ra phía ngoài, gọi là Phản thủy, hung. Nếu thủy lưu ở phía sau nhà ở, huyệt mộ như cánh cung trở ngược, thì gọi là Phản khiếu thủy. Nếu ở một bên hoặc ở phía sau thoạt đầu uốn lượn ôm lấy phía trong, nhưng sau đó lại quay lưng chảy đi, thì cũng gọi là Phản phi hoặc Tiên bão hậu phản, đều là hung.
Ất tự thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng như chữ Ất, chảy vòng qua nhà, qua mộ mà đi, đại cát.
Chi huyền thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng như chữ Chi, chữ Huyền, uốn lượn mà đến, đại cát. Nếu Chi huyền thủy ở phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ, gọi là Triều thủy.
Thập tự thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Thập, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung.
Nếu xây nhà ở trong thị trấn thì cát; riêng một nhà thì hung. Nếu thủy lưu giao xéo nhau thành chữ Thập, bất luận âm dương trạch, đều là hung.
Tính tự thuỷ: Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Tỉnh, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thi cát, riêng một nhà thi hung. Nếu thủy lưu uốn lượn mà giao nhau như chữ Tỉnh, thì dựng nhà sẽ đại quí.
Song long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng uốn lượn như con rồng, đồng thời ôm vòng lấy phía trong, an mộ dựng nhà đại cát.
Lục kiện thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên, Tể tướng.
Nghênh thần thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chỉ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên.
-
tt
Kim ngư yêu đới: Thủy Đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý.
Tứ long hí châu: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý.
Tiên chưởng phủ cầm: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây chủ con cháu thi cử đỗ đạt cao.
Phi phụng thủy : Thuỷ đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu có kẻ trở thành phi tần.
Hồi long thủy : Thủy đạo. Chi thúy lưu tử phương đông nam chảy đến, vòng sang phía tây, ôm lấy nhà ở hoặc huyệt mộ, sau đó chảy về hướng đông bắc, hình dạng như chữ U nằm ngang, chủ con cháu nhiều đời phú quí, làm quan to. Ca quyết nói : "Thủy thần lai xứ phục hồi đầu, hồi long khí mạch thâu, phúc lý bao tàng vô thẩm lậu, phát phúc vĩnh vô hưu" (Thủy Long kinh). Nếu thủy lưu từ phương tây nam chảy đền ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, sau đó chảy về hướng tây bắc, thì cũng tốt như vậy.
Qua đằng thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, từ phía sau chảy đến ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, rồi lại chảy về phía sau mà đi; đại cát. Ca quyết nói : "Diện tiền nhất chuyển nhất trùng khố, tài bảo đa vô số, đại giang tiện xuất đại quan vinh, tiểu khê tất chủ gia hào phú" (Thủy Long kinh).
Hoành thủy : Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu từ phía trước hoặc phía sau nhà ở, huyệt mộ chảy tràn ngang qua, hung.
Thực tế đó là Thổ tinh thủy. Ca quyết nói : "Thất hậu hoành thủy trực lưu thông, tạm thời vị bại tức bần cùng" (Thủy long kinh).
Đao thương thuỷ : Thủy đạo. Chỉ nơi thủy lưu giao nhau hoặc dừng lại có hình dạng nhọn như mũi dao, mũi thương, chĩa thẳng vào nhà ở và huyệt mộ, đại hung. Ca quyết nói : "Lưu lai thủy thế tự đao thương, xạ hiệp xung tâm bất khả đương" (Thủy Long kinh)
Bát tự phân lưu : 1) Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía trước huyệt mộ chảy ra như hình chữ Bát, chứ không giao nhau, hung. 2) Hình thế bên trong nhà ở. Chỉ rãnh nước bên trong nhà từ sân giữa chảy ra thành hình chữ Bát cùng gọi là Thiên thần, hung.
Tam hợp thủy : Thủy đạo. Chi ở 3 chỗ Bát tự, Tiết bao, Cầu thiềm đều có thủy lưu từ hai bên chảy xuống, chia thành 3 lớp trong ngoài giao hội tại trước huyệt và ở phía trong hai sa tả hữu, gọi là Tam hợp thủy. Trên thực tế thường thường không thấy mặt nước, chỉ có rãnh nước rất nông, dòng chảy không rõ. Cách kiểm tra như sau: đốt cỏ thành tro, rắc tro bốn phía, chờ lúc mưa nhỏ, thấy tro bị dồn thành vệt, chính là nó. Cũng có Nhị hợp thủy, là Chi long kết mạch. Tác dụng của Tam hợp thủy là tụ họp sinh khi, nếu không có nó thì không phải đất lành.
Đại bát tự: Thủy đạo. Ở chỗ tam thoa của Lai Long có thuỷ chảy tách ra hai bên hình dạng như chữ Bát. Vì bên dưới nó lại có Bát tự thủy phân lưu, nên gọi là Đại bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai vai.
Tiểu bát tự : Thủy đao. Bên dưới tam thoa của Lai Long, ở chỗ Cầu thiềm, có thủy chảy tách ra hai bên, hình dạng như chữ Bát. Vì bên trên nó đã cỏ Bát tự thủy là Đại bát tự, nên gọi nó là Tiểu bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai mắt.
Hà tu thủy : Thủy đạo. Ở hai Sa tả hữu phía trước huyệt mộ có thủy gần như giao nhau tại phần đầu mút, đó là Hà tu thủy. Ví với cơ thể người, thì Hà tu thủy là ria mép.
Ngọc tính: Chỉ rãnh, hào chứa nước ở trước huyệt mộ. Nói chung người ta dùng sức người lát các phiến đá che bên trên rãnh nước cho ngang bằng mặt đất; sau đó ngầm dẫn nước từ hai bên Lai sơn cho chảy vào Ngọc tỉnh, rồi từ đây cho chảy ra phương vị lục thế. Thực tế là dùng sức người cải tạo Nội thủy. Ngọc tỉnh có tác dụng khiến Nội thủy giao hội ở trước huyệt mà không phá hoại địa thế bằng phẳng của Minh đường Ngọc tỉnh phải là rãnh hoặc hào nước do thiên nhiên tạo nên ở trước huyệt, không thể do con người đào khoét, nêu không sẽ hứng chịu nhiều tai họa. Có thuyết nói Ngọc tỉnh là chỗ chứa nước dơ trước huyệt, không nên che đậy bên trên.
Thủy thanh: Chỉ âm thanh do nước chảy mạnh phát ra. Phàm thủy lưu ở bốn phía nhà ở, huyệt
-
tt
mộ bất kể từ đâu chảy tới rồi chảy đi đâu, đều phải êm đềm hòa hoãn mới tốt; nếu chảy xiết réo sôi là hung; nghe rì rào thì được nghe ai oán hoặc sôi reo, ùng ục như tiếng sấm thì đại hung. Tiếng nước chảy ở trước nhà nghe như tiếng khóc la thoái tài (tiền tài sa sút).
Thưởng thủy pháp: Phương pháp phân biệt chất lượng tốt xấu của thủy (nước) để xác định cát hung. Thuật Phong thủy cho rằng vị của nước tốt hay xấu có quan hệ với cát hung của mạch đất, nên dung Thưởng thủy pháp (phép nếm vị của nước) để dự đoán tình hình mạch đất. Ở vùng đồng bằng và gò đồi, thì lấy nước giếng, nước suối hoặc nước mương ngòi; Ở vùng núi thì lấy nước khe suối, đưa lên miệng nếm thử, nếu thấy vị ngọt, thơm, dịu là cát (lành), nếu thấy vị đắng, chua, cay, nồng là hung.