Xin chào các anh chị em trong điễn đàn Huyenkhonglyso . Tôi xin mở mục hành lang Tam Mệnh Thông Hội này để chúng ta cùng thảo luận , góp ý và xây dựng sao cho bản dịch được hoàn thiện hơn cũng như hiểu sâu hơn về cuốn sách hay này.Thân chào.
Printable View
Xin chào các anh chị em trong điễn đàn Huyenkhonglyso . Tôi xin mở mục hành lang Tam Mệnh Thông Hội này để chúng ta cùng thảo luận , góp ý và xây dựng sao cho bản dịch được hoàn thiện hơn cũng như hiểu sâu hơn về cuốn sách hay này.Thân chào.
Đây là sách cổ của môn tử bình, phần này nói rất hay về thời vận. Những người tuy do trời đất mà sanh, bát tự ngũ hành giống nhau nhưng số phận khác nhau. Đó là do thời vận, do tiếp nhận thanh khí trời đất hay trược khí trời đất, gặp khí thời suy bại hay thời trung hòa đắc lệnh.
Sách tử vi có mấy câu sau đây:
Vận con phải thua vận cha.
Vận người không bằng vận nhà.
Vận nhà không bằng vận làng.
Vận làng không bằng vận châu.
Vận châu không bằng vận nước.
Vận nước không bằng vận thiên hạ.
Thông thường người ta khi luận số , quan tâm đến việc sinh miền này miền kia ảnh hưởng đến việc xác định giờ sinh , ít quan tâm đến sinh vùng nào thì người đó sẽ ảnh hưởng ra sao. Sinh trên bờ, dưới nước, sinh trên không; sinh vùng này vùng khác thì ảnh hưởng cục diện lá số rất nhiều. Điều này đã được nhiều điển tích kể lại.
nếu như dịch được "Tam mệnh thông hội" thì đây sẽ là 1 điểm vượt trội của chúng ta so với các trang web về lý số khác, cuốn này chưa có trang nào dịch được cả
Mong anh Anhngoc cố gắng hoàn thành bản dịch sớm để đưa toàn bộ cuốn sách lên
Em thấy còn cả cuốn,"uyên hải tử bình" cũng chưa có bản dịch tiếng việt nào cả, việc dịch và post lên diễn đàn các tài liệu quý về lý số sẽ là 1 chiến thuật hữu ích giúp trang web của chúng ta nổi bật để sớm có thể sánh ngang với các đại gia khác như: "Tuvilyso" hay" lyso.vn"....
anhngoc đã viết đến phần Nạp âm thủ tượng là giải thích vì sao có tên gọi nạp âm như thế. Phần này có rất nhiều lý giải, về tên gọi, về số suy diễn ra và còn có luật ngũ cung nữa. Nếu muốn học hỏi cặn kẽ, chúng ta nên biết qua những điểm này và có khi sẽ tự giải đoán được nhiều việc.
Về số, nếu dựa trên Hà Đồ, ta biết các vòng số sinh thành như sau:
1-6 là Thủy (Bắc)
2-7 là Hỏa (Nam)
3-8 là Mộc (Đông)
4-9 là Kim (Tây)
5 là Thổ (trung cung)
Còn các số của can:
- Giáp Kỷ 9
- Ất Canh 8
- Bính Tân 7
- Đinh Nhâm 6
- Mậu Quý 5
Để ý viết can ở trên theo hàng dọc (Giáp Ất Bính Đinh Mậu, rồi trở lên Kỷ Canh Tân Nhâm Quý là đủ 10 can, vì thế Giáp Kỷ cùng số 9 và hợp hóa nhau.)
Số của các chi cũng tương tự (nhìn lại cũng là cặp lục xung trên đồ bàn):
- Tý Ngọ 9
- Sửu Mùi 8
- Dần Thân 7
- Mão Dậu 6
- Thìn Tuất 5
- Tỵ Hợi 4
Bây giờ thử tính các Nạp Âm Mộc mà chúng ta căn cứ vào cặp số 3-8 (Hà Đồ):
- Nhâm Tý, Quý Sửu (Tang Chá Mộc)
Nhâm 6, Tý 9, cộng lại là 15
Quý 5, Sửu 8, cộng lại là 13
Cả Nhâm Tý, Quý Sửu cộng lại là 28, số 8 là số của Mộc
- Canh Dần, Tân Mão (Tùng Bách Mộc)
Cũng giống như trên, Canh 8, Dần 7 = 15; Tân 7, Mão 6 = 13; tổng số là 28
- Nhâm Ngọ, Quý Mùi (Tang Chá Mộc) và cặp Canh Thân, Tân Dậu (Thạch Lựu Mộc) giống như trên
- Mậu Thìn, Kỷ Tỵ (Đại Lâm Mộc) và Mậu Tuất, Kỷ Hợi (Bình Địa Mộc) đều có tổng số cặp của nhau là 23 (số 3 là số của Mộc)
Tất cả những cặp nạp âm khác đều tính như vậy.
Đoạn trên là ở trong bài mới đăng của anhngoc. Nhờ anh xem lại vì còn thiếu 1 phần ở giữa các cặp đối xứng trên:Trích:
Giáp Thìn Ất Tỵ đối với Giáp Tuất Ất Hợi , Phúc đăng Sơn đầu , hàn quang sợ gió , đưa quang về lâm vậy . Bính Thân Đinh Tỵ đối với Bính Tuất Đinh Hợi , Sa trung Ốc thượng , cạn ướt tương hỗ biến hóa thỉ chung vậy .
Canh Tý, Tân Sửu đối Canh Ngọ, Tân Mùi
Mậu Dần, Kỷ Mão đối Mậu Thân, Kỷ Dậu
(sau Giáp Thìn Ất Tỵ là đến Canh Tý Tân Sửu, Mậu Dần Kỷ Mão rồi mới đến Bính Thìn Đinh Tỵ; anh cũng xem lại dùm: "Bính Thìn Đinh Tỵ là Thổ", còn Bính Thân là Hỏa)
Tiện thể xin nhắc các bạn, phần Nạp âm thủ tượng đối với cả tử vi tử bình đều rất có lợi cho việc học tập để hiểu cách luận sinh vượng tử tuyệt của ngũ hành. Đặc biệt các bạn sắp vào phòng thảo luận nên đọc kỹ phần này.
Chào chị Kimcuong.
Xin lổi chị và các bạn , tôi gõ nhầm chữ Thìn thành Thân và đã sửa lại rồi . Còn các cặp Canh Tí , Tân Sửu đối Canh Ngọ Tân Mùi và Mậu Dần , Kỷ Mảo đối Mậu Thân Kỷ Dậu trong nguyên bản của tôi không biết tại sao không thấy có ; nhờ chị Kimcuong xem trong bản của chị nếu có xin bổ sung thêm cho hoàn chỉnh .
Xin cảm ơn chị nhiều .
Bài mới anhngoc vừa đăng (Tam Mệnh Thông Hội cuốn 2) có đoạn này, các bạn chuyên luận Tử Bình chắc cũng nhận ra:
Câu cú Hán Nôm đọc rất khó hiểu, đoạn trên phân tích ra là nói về các ngoại cách: Khúc trực (mộc), Viêm thượng (hỏa), Giá Sắc (thổ), Tòng cách (kim), Nhuận hạ (thủy). Đó là những hành làm chủ tứ trụ nên mệnh chủ phải tòng theo.Trích:
...Cho nên Hồng Phạm đại ngũ hành sở dỉ nói :
Ất Bính Ly Nhâm là Viêm hỏa .
Càn Hợi Đoài Đinh theo giống cây .
Quý Sửu Khôn Thân Mùi giá sắc .
Chấn Cấn tứ vị khúc trực trang .
Giáp Tí Giáp Dần Tốn tân địa .
Thìn Tuất giai đồng nhuận hạ hành...
Ất Bính Ly Nhâm là Viêm hỏa : Bính Đinh là can ngày, địa chi toàn Hỏa cục hay Hội Hỏa phương nam, có Ất thì Ất Mộc gọi là ấn thụ của Hỏa, gặp Nhâm cũng được nếu có Đinh (vì Đinh hợp mất Nhâm), hóa thành Viêm Thượng Cách.
Càn Hợi Đoài Đinh theo giống cây . Câu này phải lấy từ Đoài để nhắm vào Tòng Cách cách. Nhật chủ Canh Tân, sinh vào mùa Thu, địa chi toàn Tị Dậu Sửu hoặc Thân Dậu Tuất, vận hành mùa Thu Kim vượng, Thủy tướng nên dụng được Hợi. Tất cả kết thành Kim Cục nên gọi là Tòng Cách cách.
Nếu ai hỏi tại sao lại có "Đinh" thì phải thấy là trong Tuất (hội Thân Dậu Tuất) có tàng Đinh hỏa.
Về cụm chữ "theo giống cây" thì tôi nghĩ rằng người dịch thuật hiểu chữ "cách" là "cây" vì có thể bản viết khác nét, mà khác nét là ra nghĩa khác. Thật ra, "tòng cách" theo tôi hiểu là "thay đổi".
Quý Sửu Khôn Thân Mùi giá sắc . Câu này thì quá rõ, vì Khôn và Thân Mùi là hướng Tây nam thuộc Thổ. Nhật can Mậu Kỉ mà sinh vào 4 tháng tứ quí (Thìn Tuất Sửu Mùi), không có Mộc thì hóa thành Giá Sắc cách. Nếu tứ trụ có Quí cũng không can hệ gì, vì Quí sẽ bị Mậu hợp mất. Đấy là ý của chữ Quí trong câu như vậy.
Chấn Cấn tứ vị khúc trực trang . Chấn hướng Đông, Cấn hướng Đông Bắc, toàn gặp Giáp, Dần, Ất, Mão. Nếu tứ trụ gặp đủ can chi của phương vị này thì hóa thành Khúc Trực Cách.
Giáp Tí Giáp Dần Tốn tân địa
Thìn Tuất giai đồng nhuận hạ hành Hai câu này nhập một, thật ra là "giáp tí dần thân tốn tân địa" cùng với câu sau mới hiểu là Nhuận Hạ cách, vì Thân Tí Thìn tam hợp, hoặc Hợi Tí Sửu là hội phương Bắc. Nếu trong tứ trụ có Dần thì chấp nhận Tuất Thổ, vì lý là trong Dần có hỏa là ấn thụ của Thổ.
Các qui tắc được lập ra như can ngày phải là cùng loại với địa chi là sau này được viết ra ở các sách hiện đại, để hậu học dễ hiểu và cứ theo qui tắc mà dùng.
Rõ ràng là nếu đọc lại các sách cổ như chương Hồng Phạm Ngũ Hành thì sẽ hiểu thâm sâu hơn.
Anhngoc vừa đăng chương Luận Niên Nguyệt Nhựt Thời (năm tháng ngày giờ), có vài điểm KC muốn chia sẻ với các bạn:
Câu này trong sách dịch ra đúng là: "Cổ pháp dĩ niên khán ,tử bình dĩ nhật khán ,bổn thử ." Không hiểu sao người dịch bỏ 2 chữ "tử bình" và dịch là "pháp xưa lấy niên mà xem con"?Trích:
Pháp xưa lấy niên mà xem con , lấy nhựt mà xem bổn .
Vì Niên là năm sinh mà xem "con" thì thật là khó hiểu. Theo tôi thì chỉ hiểu theo bình thường là "Khi xưa cổ nhân lấy năm sinh là gốc, Tử Bình (mệnh gia Tử Bình) lấy ngày sinh để luận".
Có thể là vì dịch giả đọc rằng: "Cổ pháp dĩ niên khán tử, bình dĩ nhật khán..." Cái dấu phẩy sau chữ tử thật là rắc rối nhỉ, vì chữ "tử" bị chia cắt với chữ "bình" mà TỬ là CON, nhưng tôi không tìm thấy đoạn nguyên văn nào có dấu phẩy sau chữ TỬ. Tuy nhiên, trong Tam Mệnh Thông Hội mà nhắc đến Tử Bình (mệnh gia) thì cũng là hiếm thấy. Chúng ta nên xem xét lại cho kỹ.
Tuy thế, nội dung của bài văn tiếp theo đó quả là đọc kỹ càng thì sẽ thấy có sự thông đạt ngầm hiểu về cách chia "bổn" và "chủ" rõ rệt: Bổn là năm, mà Chủ là ngày. Và đây là chuyện khác, không dính dáng gì đến "Tử Bình" hay "Tử là Con" gì cả.
Vì thế câu "lấy niên mà xem con, lấy nhựt mà xem bổn" vẫn là đầu đề một nẻo, nội dung đi đằng khác...
Các bạn đọc lại đoạn này thì rõ:
Nghĩa là năm sinh là Giáp Ất mà sinh tháng Mão tức là dư khí Mộc. Chủ (ngày sinh) là Canh Tân mà sinh tháng Dậu cũng gọi là dư khí Kim. Nói chung là Bổn và Chủ được như thế là "thừa vượng khí" (dư khí và được vượng, vì Canh sinh giờ Dậu tọa Đế vượng, hoặc Tân sinh giờ Dậu tọa Lâm Quan, cả hai đều đắc địa).Trích:
Như người bổn là mộc mà được Mão nguyệt tức được thừa , chủ kim mà được Dậu thời tức được thừa . Đó là bổn chủ thừa vượng khí .
Như vậy, Bổn là đang nói đến quan hệ của Năm-Tháng, Chủ là nói đến Ngày-Giờ.
Các đoạn sau này đều như thế:
Trích:
Như bổn thủy mà được Giáp Thân Giáp Tí Nhâm Tuất Quý Hợi nguyệt , chủ Hỏa mà đắc Bính Dần Mậu Ngọ Giáp Thìn Ất tỵ thời ; bổn Mộc mà được Kỷ Hợi Tân Mão Giáp Dần Canh Dần nguyệt , chủ Kim mà đắc Tân Tỵ Quý Dậu Canh Thân Nhâm Thân thời tức là bổn chủ hoàn gia ( về nhà ) .
"Mộc mà đắc Quý Mùi nguyệt" đó là vì trong Mùi có Ất Mộc cùng hành với năm Giáp hay Ất. Nói cách khác là Ất trong tháng thấu lộ ra can năm là một tiêu chí xét cách cục. Quí là Kiêu Ấn của Mộc nên Mộc gặp tháng Quí Mùi thì quá tốt, cũng là nghĩa của câu "bổn chủ trì Ấn" vậy.Trích:
Mộc mà đắc Quý Mùi nguyệt , Kim mà đắc Ất Sửu thời , bổn thủy mà đắc Nhâm Thìn nguyệt , bổn hỏa mà đắc Giáp Tuất thời tức là bổn chủ trì ấn tứ vị như vậy rất tốt , cát thần vãng lai thì hung sát phải hồi tỵ tức là bổn chủ đắc vị ; Bổn mà thắng chủ thì được nhiều phúc ấm . Chủ mà thắng bổn thì bản thân tự lập . Bổn và chủ đều mạnh thì phú quý song toàn .
"Bổn mà thắng Chủ thì phúc ấm" như Năm-Tháng mạnh hơn Ngày-Giờ tức là được dựa vào cha mẹ gia đình anh em tốt đẹp.
"Chủ mà thắng Bổn thì tự lập" thì Ngày-Giờ tính là hậu vận, không được tiền vận tốt cũng có nghĩa là khó khăn hơn, số mệnh sẽ vất vả, cần cố gắng bản thân.
Những đoạn trên chỉ nên nhớ là không nói riêng trụ năm và trụ ngày, mà nói chung về Bổn là cả hai trụ năm+trụ tháng, Chủ tính là trụ ngày+trụ giờ.
Các bạn đang tìm hiểu Tử Bình nên lưu ý. Ngoài ra, từ những chương này trở về sau sẽ đi vào lý luận phân tích cách cục, sinh khắc của Tứ Trụ rất sâu sắc và huyền diệu. Các bạn nên mừng, vì bác anhngoc đang viết lại cho chúng ta xem những đỉnh cao của môn học này.
Bài dịch của các vị cao nhân cũng rất xúc tích như nguyên bản vậy, đôi khi có những từ để y nguyên không dịch ra tiếng Việt, nên các bạn cần phải ghi lại thắc mắc và hỏi han các vị hiểu biết Hán Văn trên các diễn đàn để khỏi bị nhầm lẫn.
Cám ơn chị KimCuong đã chú thích để bản dịch Tam Mệnh Thông Hội được hoàn thiện hơn. Nếu có những sai sót gì mong chị cứ tiếp tục nêu lên để các bạn yêu thích TỬ Bình hiểu sâu hơn về tài liệu hay này.
Người dịch như vậy là có trình độ nhất định rồi ! Ai có tâm, chúng ta đều phải trân trọng.
Tam mệnh Thông hội, Tinh học đại thành đều của Vạn Dân Anh (tự Dục Ngô) đều được tập thành vào Tứ khố toàn thư đời vua Càn Long. Tập thành xong, tập trung khắc vào gỗ, nên hành văn xưa đều ở dạng Văn ngôn, ko như thời nay, là văn bạch thoại.
Văn tự ở dạng văn ngôn, là vì muốn tiết kiệm công sức cho thợ thuyền khắc chữ (vào gỗ / thẻ ttre) nên câu văn rất cô đọng, 1 chữ hiểu ra cỡ ...chục nghĩa... Văn ngôn người Hán nghe thôi cũng còn hok muốn hiểu, muốn hiểu rõ, họ phải tự mình đọc (tự cảm nhận mặt chữ và ý nghĩa).
Theo KT từng học, khi dịch văn chương cổ điển, gặp Văn ngôn là học sinh kiếm chừng 5-7 điểm là thuộc loại giỏi đó.
Không những có kiến thức về từ nguyên, còn phải có kiến thức hư tự cổ, kiến thức về ngành mà mình đang dịch ... và cần nhất là vốn từ Việt Nam phong phú (đừng ngạc nhiên), vì dịch văn ngôn, ai ko co vốn từ Việt phong phú, dịch sẽ rất ngượng ngạo ... Và ko phải ai cũng biết cách dịch "thoát từ".
Nếu người dịch ko phiền, KT sẽ dành thời gian hiệu chỉnh lại nhiều phần dịch chưa sát với nghĩa của câu cú...
"Cổ pháp dĩ niên khán, Tử Bình dĩ nhật khán, bổn thử."
Câu trên cũng bình thường thôi, phép xưa dùng can năm để luận, sách chép là do Lạc Lộc Tử phát minh ra, sau được Lý Hư Trung phát triển, nhưng cũng vãn dùng trụ năm, chẳng qua là thêm nhiều câu quyến để đoán (phú, ca quyết,...).
Sau được Từ Cư Dịch, tự Tử Bình phát triển vào thế kỷ thứ 10, dùng Can ngày để đoán, từ đó về sau, mọi người gọi khoa mệnh lý (xưa gọi là ngũ tinh) là Tử Bình để phân biệt với Ngũ tinh thời Lý Hư Trung (dùng can Năm).
Nên câu đó muốn khơi gợi người đọc về nguồn gốc của khoa Tử Bình mà thôi.
Ồ! lành thay. Tôi chỉ đọc nhiều về Phong Thủy còn Tử Bình thì biết lỏm bỏm thôi nhưng thấy các bạn muốn tìm hiểu về môn này lại thiếu tài liệu nên đăng lên hầu giúp ích được gì chăng. Bởi vậy mong chị Kimcuong và Khôi Tinh hiệu chỉnh lại giúp để bản dịch được hoàn thiện hơn. Cám ơn nhiều.
Hoan hô chú anhngoc, chị kimcuong, anh Khôi Tinh! :4431::4431::4431:
thieuba xin được tỏ lòng biết ơn vì những kiến thức Tử bình được truyền dạy, quảng bá..., và dẫu trình độ hạn chế song lớp hậu học nguyện cố gắng tiếp thu môn học này!
:5333::5333::5333:
Khôi Tinh có lời, sao ai nỡ từ chối nhỉ? KC đề nghị Khôi Tinh sửa lại từ chương đang đề cập tới và các chương tiếp theo, vì các chương đầu là khái quát về ngũ hành và nạp âm. Xin để ý những từ Hán Việt mà dịch giả còn để nguyên chưa dịch ra. Tôi sẽ góp ý khi cần thiết nhé.
Nguyên tạo hóa chi thủy
(Khởi đầu của Tạo Hóa)
Lão Tử nói: "Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu; hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh".
"Vô, là tên khởi đầu của trời đất, Hữu, là tên khi nảy sinh vạn vật; Có một vật không xác định hình thái, sinh thành trước cả trời đất" (Đoạn này trong Đạo Đức Kinh, quan niệm của Lão Tử là ngay cả trời đất cũng không phải xuất hiện đầu tiên).
Liệt Ngự Khấu nói: "Hữu hình sinh ra từ vô hình. Thuở ban sơ của trời đất gồm Thái dịch, Thái sơ, Thái thủy, Thái tố. Thái dịch là chưa thành khí; Thái sơ là khởi đầu của khí; Thái thủy là khởi đầu của hình; còn Thái tố là khởi đầu của chất. Khí cùng với Hình-Chất, hợp mà chẳng ly, nên gọi là Hồn luân (nguyên khí cô đặc, còn nguyên vẹn).
Lịch Kỷ nói rằng: "Khi chưa có trời đất, hỗn độn rối rắm như đám gà, biển đục mới manh mún, thuở hồng hoang từ đó bắt đầu"
Sách Hán thư - Luật Lịch Chí ghi: "Nguyên khí Thái cực, thâu ba vào một."
Kinh Dịch ghi : "Dịch sinh ra Thái cực, Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái định cát hung. "
Chú giải Dịch ghi rằng: "Thái Cực, chỉ thời kỳ trước khi phân trời đất, nguyên khí lẫn vào nhau thành duy nhất."
Mông Tuyền Tử nói: "Thái sơ là khởi đầu của Lý; Thái hư là khởi đầu của Khí. Thái tố là khởi đầu của Tượng. Thái Ất là khởi đầu của (thuật) Số. Thái Cực khi khởi đầu gồm thâu cả Lý Khí và Tượng Số. Bởi vậy nói đến số, có thể thấy được Hồn luân đầu tiên chưa chia, chỉ là một khí hòa lẫn vào nhau, mờ mịt tăm tối không ý nghĩa, nhưng Lý không hẳn không có trong đó mà nó hợp nhất với Đạo thành Thái cực".
Trang Tử từng bàn về Đạo thời kỳ trước Thái Cực, Thái cực chính là chỉ 3 yếu tố Thiên - Địa - Nhân, khí hình đã có nhưng chưa phân thành tên. Cho là "Đạo", chẳng nhẽ quan niệm rằng đó là sự vật lửng lơ trong không trung cửa thời kỳ trước Thái cực, mà không hiểu rằng Đạo tức Thái cực, Thái cực cũng là Đạo. Nếu gọi một cách thông dụng thì gọi là Đạo, còn gọi cho đến cùng lý lẽ của nó thì là Thái Cực. Đến đây lại xuất hiện hai khuynh lệch? Có khuynh hướng cho rằng Chu Tử chẳng phải là người khơi mở bí mật của Thái cực, Chu tử đã trình bày và minh xác nó, vậy ai mới là người hiểu được lý Thái cực cùng quan niệm lý khí bất tương ly đó?
Cái gọi là Thái cực, chính là bản thể của âm dương động tĩnh. Bản thể không rời khỏi hình khí, giống như kèn tốt tất không thể phát ra âm thanh nhiễu. Biến hóa bất tận, từ thực thành ra chuẩn. Thế nên nhất động nhất tĩnh cùng tương hỗ lẫn nhau từ gốc mà phân thành âm thành dương, vậy là lưỡng nghi lập thành. Nghi chính là sự vật hiện tượng. Phàm sự vật chưa có đối lập thì cũng không hẳn độc lập (tồn tại một mình), Trời khi sinh phải chẳng che chở cho đất, còn Đất khi thành hình chẳng phải chuyên chở cho trời đấy ư. Tồn tại Lý thế nên mới tồn tại Khí, cũng gọi là Âm Dương. Có Khí vì thế mới có Hình, cũng gọi là Thiên Địa. Thiên địa không sinh ra từ trời đất mà sinh ra từ Âm Dương; còn Âm Dương không phải sinh ra từ âm dương mà sinh ra từ động tĩnh. Động tĩnh không sinh từ động tĩnh mà sinh ra từ Thái Cực. Chính vì thế, Thái Cực chính là (tinh khí) diệu kỳ của hiển nhiên; còn nói đến Động Tĩnh là cũng nói đến những chân tính, cốt yếu từ đó mà ra. Âm Dương cũng chính là gốc của sinh. Thái Cực, là lúc Hình phát triển, chính là Đạo. Âm Dương, khi Hình tiêu thoái, chính là Khí. Động Tĩnh thì không có đầu mối, Âm Dương thì không có khởi đầu, thế nên tạo hóa hình thành từ đây.
:6k3:
Phần sách của anh AnhNgoc, KT không có source nên một số phần có thể thiếu hoặc khác.
Như phần dưới đây:
Có người hỏi: Thập can chia ra Âm-dương, cương-nhu, sinh-tử, lời ấy đúng không?
Đáp rằng: Thập can có 5 dương 5 âm; Dương thì cương mà Âm thì nhu. Trong Dịch nói phân âm phân dương để cương nhu thay đổi vậy. Còn phân sanh tử tức là như mẹ sanh con. Con càng trưởng thành thì mẹ càng già rồi mất. Cái lý thật tự nhiên. Phú rằng: "Dương sanh âm tử, Dương tử âm sanh, Tuần hoàn thuận nghịch. Biến hóa rõ ràng."
Giáp mộc
Giáp mộc đứng đầu trong 10 can, chủ tể của bốn mùa, sanh dưỡng vạn vật . Tại Thiên là Lôi (sấm sét) là (Thanh) Long (mộc phương Đông là phương Thanh Long). Tại Địa là Lương (trụ cột) là Đống (xà ngang) nên gọi Dương mộc. Khi (Giáp) Lộc đến Dần , Dần là nơi mộc (bắt đầu) sinh cho Ly hỏa, tức gốc rễ đã đứt coi như tuyệt vong, nên gọi là Tử mộc (gỗ khô cứng, không có sức sống), Tử mộc là Cương mộc (mộc cứng), cần búa rìu đẽo gọt mới thành khí cụ (có ích). (Giáp) Trường sanh ở Hợi, Hợi là nước sông hồ ao đầm gọi là Tử Thủy (ao tù, nước đọng), tuy ngâm trong nước lâu năm cũng không bị mục, giống như mộc của ngọn cây thầu dầu [ND chú: Thầu dầu, loại cây nhỏ, cao 1 - 5m. Thân rỗng. Lá mọc so le, có cuống dài. Hoa nhỏ, mọc thành chùm xim. Cây được trồng chủ yếu ở vùng bãi sông, để lấy hạt ép dầu.], ở trong nước thì thêm kiên cố, nếu rời nước mà lên bờ gặp Quý thủy, Quý thủy là hoạt thủy (nước động, luôn tuôn chảy) là nước mưa giữa trời đất, Mộc gặp cảnh "dạn dày nắng gió", khi khô khi ướt dễ thành gỗ khô mục tức có thể sanh Hỏa, Hỏa vượng tất Mộc bị thiêu cháy, cho nên mộc dần dần "tan thành tro bụi". Còn Ngọ thuộc Ly hỏa, hỏa nhờ mộc sanh, mộc là mẹ của hỏa, hỏa là con của mộc, con vượng thì mẹ suy, nói sao cho hết lý được đây? Cho nên Giáp mộc Tử ở Ngọ. Kinh thư viết: "mộc bất Nam bôn" (mộc không nên đến phương Nam), nói thế là lý do này.
ĐOẠN NÀY CỦA KT, KHÁC SO VỚI BẢN DỊCH CỦA ANHNGOC:
Giáp mộc là rường cột, nhưng chỉ là tiềm lực, Giáp khởi đầu với tính chất tử mộc, cương mộc, có thể chẳng thành tài khí, cần phải rèn luyện bồi dưỡng. Nhưng luyện như thế nào ? tức là cần phải có rìu (kim khí) đẽo gọt, mà kim khí nhất định phải sắc bén, mới có thể khắc gọt cho tinh mỹ, cho nên cần phải có lò lửa (hồng lư) Đinh hỏa trui rèn, Canh kim gặp Đinh hỏa chính là hình ảnh "Luyện kiếm".
ĐOẠN NÀY ANHNGOC CÓ MÀ KT KO CÓ NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN:
Lại nói Giáp là dương cương xuẩn mộc , nguyên không có căn rễ nhành lá , nếu thành khí mà dùng tất cũng nhờ nơi kim , núp giấu để không hư hoại tất cũng nhờ nơi thủy , được hỏa đắc phối thì có tượng văn minh . Dùng hỏa quá nhiều mà lại gặp Nam phương thì hóa thành than khói dẫn đến tai hại vậy . Do chỗ Giáp mộc không lấy Xuân Thu mà định sướng khổ , đụng tới vật mà biến hóa nên cũng không có định hình nên phải xem kim hỏa thủy thế nào vá lại xem hợp hóa thế nào chứ không thể chấp nhứt mà luận vậy .
giờ thì có rồi:
Anhngoc:
Lại nói Giáp là dương cương xuẩn mộc , nguyên không có căn rễ nhành lá , nếu thành khí mà dùng tất cũng nhờ nơi kim , núp giấu để không hư hoại tất cũng nhờ nơi thủy , được hỏa đắc phối thì có tượng văn minh . Dùng hỏa quá nhiều mà lại gặp Nam phương thì hóa thành than khói dẫn đến tai hại vậy . Do chỗ Giáp mộc không lấy Xuân Thu mà định sướng khổ , đụng tới vật mà biến hóa nên cũng không có định hình nên phải xem kim hỏa thủy thế nào vá lại xem hợp hóa thế nào chứ không thể chấp nhứt mà luận vậy .
Tuốt lại:
Lại nói: Giáp là dương cương xuẩn mộc (dương mộc thô cứng), không có gốc rễ, cành không ra quả; muốn thành khí đắc dụng lẽ tất nhờ nơi kim tàng giúp; để không hư mục lẽ tất nhờ nơi thủy hỏa, đang thô sơ mà phối thành thì đó là hình ảnh văn minh (đẹp đẽ rõ ràng), giả sử hỏa quá nhiều mà lại hành Nam phương thì (cháy) thành tro than chỉ dẫn đến tai họa mà thôi, ấy là bởi vì Giáp mộc không lấy mùa xuân mùa thu mà định tươi tốt hay tiều tụy (vinh tụy), mà gặp hoàn cảnh mà biến hóa nên cũng vô định, nên phải xem kim hỏa thủy thế nào thì lý luận mới không cứng nhắc.
:6k3:
Ất mộc
Ất mộc kế tiếp sau Giáp, (là thời) vạn vật trưởng thành, sinh sôi không dứt, tại Thiên là Phong (gió), tại Địa là thụ (cây) nên gọi là âm mộc. Ất Lộc đến Mão, Mão là Thụ mộc (cây cối) nên rễ sâu cành tốt, nên gọi là hoạt mộc (mộc có sức sống). Hoạt mộc cũng là loại mộc mềm mại (nhu mộc), sợ dương kim đốn phạt (chặt) mang họa, sợ đến mùa Thu thì mộc điêu tàn (suy bại), mong được nhuận thổ (đất ẩm tơi xốp) để bồi đắp gốc rễ, muốn được hoạt thủy (nước thông) để giúp tươi lá cành. Hoạt thủy tức là Quý thủy, cũng chính là nước mưa, là mạch nước của đất. Nhuận thổ chính là Kỷ thổ, giống như có đất (thổ) canh tác, giúp cho công lao giá sắc (việc nhà nông) đạt kết quả. Kỷ Lộc tại Ngọ, ngọ là nơi khí của lục Dương (6 dương can) dần dần tiêu hết, khí âm lại dần sanh ra nên cây lúa nở hoa vào giờ Ngọ, (nên) Ất mộc sanh nơi đất Ngọ. Tháng 10 là kiến Hợi, Hợi là tháng thuần âm, Nhâm Lộc đến Hợi là đương quyền (nắm lệnh), Tử thủy (nước đọng)chảy tràn lan, (thổ) đất cằn cỗi làm hư mất gốc lại mất đi sự bồi dưỡng cho nên Ất mộc Tử ở Hợi. Kinh nói: "Thủy phiếm mộc phù" (Thủy tràn thì mộc trôi) tức là lý do này.
Lại nói: Ất là mộc cành lá tươi tốt rất thích được ánh mặt trời (ánh dương lúc sáng sớm) chiếu rọi thì được vinh quang; gặp âm khí lạnh buốt thì không lợi, tất xơ xác tiêu điều; thủy nhiều gây bật gốc, kim vượng như sức sống (của mộc) bị tước đoạt (cướp, giết). Giả như thân suy mà Hỏa nhiều lại (hành vận) đến phương Nam thì họa không ít, hành vận về phương Tây thì thổ trọng trợ Sát càng hại cho thân, (cách cục) không thể tòng theo thì họa từ đây rất sâu nặng, lý do là hoạt thủy liền gốc với mộc (ý nói thổ trọng khắc thủy, mà thủy liền gốc với mộc nên bạt luôn cả mộc), thế nên sao có thể so với bậc Lương đống được.
:5221:
Khôi Tinh dịch hay quá ! cám ơn bạn rất nhiều.Mong bạn nhín chút thời gian chỉnh sửa tiếp nhé!
Thân.
Những đoạn anhngoc viết ra từ bản dịch mà Khôi Tinh ban đầu chưa có, tôi cũng tìm kiếm mới ra. Đó là từ Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành phải không? Nói chung, Tam Mệnh Thông Hội hiện thời được đăng tải nguyên văn rất nhiều trên mạng, đôi khi rất khác nhau. Lần tới các chương đã dịch kế tiếp, Khôi Tinh còn thấy nhiều câu cú hoặc thiếu, hoặc thừa, có chỗ thêm phụ bản của Cổ Kim Đồ Thư, có chỗ không... Ban đầu KC định phụ giúp anhngoc, nhưng bận việc khác nên không đủ thì giờ làm. Nay có Khôi Tinh, quả là sao cứu giải, quá hay!
Vậy để thống nhất gọi là đăng bản dịch của Khôi Tinh (tùy theo bạn dịch hoàn toàn mới hẳn hay chỉ sửa lại), KC nghĩ rằng Khôi Tinh mở topic khác đăng lại từ đầu, như thế tiện theo dõi hơn. anhngoc sẽ chuyển các bài vừa rồi sang dùm cho Khôi Tinh. Các bạn nghĩ sao?
Bài của anhngoc vẫn là căn bản, anh tiếp tục đăng nhé, vì dựa vào đó mà Khôi Tinh chỉnh lại nhanh hơn là tự viết ra. Song song đó, tôi nghĩ là những phần giải thích thêm và nêu thí dụ học hỏi thì tôi lo được. Chẳng hạn như bài Thai Nguyên mới đăng, có những điểm mà sau khi dịch hoàn chỉnh vẫn cần có thí dụ để hiểu rõ hơn.
Đinh hỏa
Đinh hỏa tiếp sau Bính, là tinh hoa của vạn vật, tượng của văn minh, tại Thiên là (ánh sáng) các vì tinh tú, tại Địa là ánh đăng hỏa (lửa đèn thắp) nên gọi là âm hỏa. Đinh Lộc đến Ngọ, (ngọ là thời điểm) khởi đầu lục âm (sáu giờ âm, lấy chính Ngọ để phân âm dương), bên trong Ngọ có Ất mộc có thể sinh Đinh hỏa. Ất là hoạt mộc, Đinh là hoạt hỏa, hoạt hỏa là nhu hỏa, Đinh thích Ất mộc sanh cho, cũng là âm sanh âm vậy, ví như người đời dùng dầu hạt cải, dầu mè để thắp đèn; nói về dầu đối với lửa đèn cũng ví như nhựa sống đối với cây cối. Lúc đến Dậu thì tứ âm nắm quyền nên Đăng hỏa được huy hoàng rực rỡ, tinh tú được sáng lạn cho nên nói Đinh sanh ở Dậu; đến đất Dần thì Tam dương hợp nhau, dương hỏa đang sinh còn âm hỏa đang lui (ND chú: Tam dương là "Tam dương khai thái" - 3 vạch dương của quái Càn đúng vị, dương thăng; 3 vạch âm của quái Khôn đúng vị, âm giáng, tạo thành quẻ Địa Thiên Thái - là Dần vị), như mặt trời mọc ở Đông thì ánh sáng của các Tinh tú ẩn đi, đèn dù có ánh lửa cũng không phát ánh quang (không chói sáng bằng ánh mặt trời lúc rạng sáng - giờ Dần), thế nên nới nói Đinh sanh ở Dậu mà tử ở Dần.
Kinh thư nói: "Hỏa minh tắc diệt" là lý do này. (Nghĩa bóng như sau: Hỏa của ánh đèn để lộ ra ánh sáng ban ngày thì ko thấm tháp vào đâu so với ánh mặt trời - tức triệt tiêu. Hoặc cũng có thể hiểu là ánh sáng ban ngày - giờ Dần - thì ánh quang của các vì tinh tú ko thể phát sáng, ko thể thấy).
Lại nói: Đinh hỏa âm nhu cần phải đắc thời gặp hợp cục thì mới có thể phát ánh sáng huy hoàng rực rỡ, tuy loại kim cùn (còn thô, hoặc không sắc bén) cũng có thể được đúc luyện (từ trong Đinh hỏa). Nếu thất thời không thành cục tức quang huy biến mất mà khói cũng không còn, thì dù một chút kim nhỏ nhặt nó cũng không thể chế luyện nổi, song một ít mộc khô dù nhỏ cũng đủ để sinh được hỏa; còn mộc ướt dù nhiều cũng khó mà làm cho hỏa phát ra. Cho nên xét Đinh hỏa mạnh yếu (cường nhược) thì không thể cố chấp thiên lệch một phía.
Thôi, em không mở topic mới làm gì.
Vì chỉ là chỉnh sửa câu văn của bản dịch AnhNgoc thôi mà, có gì đáng nói là "bản dịch của Khôi Tinh" kia chứ :3we2:
XIN NHẮC LẠI MỘT LẦN NỮA LÀ KT CHỈ SỬA LẠI TỪ BẢN DỊCH CỦA ANHNGOC !!!
KT rất ngại làm việc này, vì mỗi người 1 quan điểm, mỗi người một văn phong biên dịch, chưa biết ai đúng ai sai. Nên mong người đọc đừng "phủ nhận" công lao của anh AnhNgoc.
KT rất sợ cảnh: người dịch bị "chỉnh sửa" nhiều quá mà nản lòng, hay quê độ gì gì đó mà ko dịch/post tiếp nữa. Người nhiều chuyện "khôn quá hóa ngu" :202:. Ngay từ đầu, KT đã biết là bản dịch "chưa tốt lắm", nhưng vẫn im lặng vì lý do trên...
Chuyện câu chữ, chuyện dịch thuật là chuyện dài nhiều tập, xin ko đi sâu vào, cũng ko cần thiết phải "bắt tận tay day tận mặt" mà chỉ post "thành quả", tức là post cái "văn phong" khác mà thôi :611d7:
KC cũng đoán là Khôi Tinh sẽ nói thôi...Nhưng vì nghĩ là anh anhngoc rất rộng mở, không câu nệ phiền hà những chuyện thị phi (nếu có) nên đề nghị thẳng thắn, vậy thôi :0401:. Nào cứ tiếp tục...
MẬU THỔ
Mậu thổ, thời hỗn mang chưa phân định thì nó giữa một thể thống nhất chưa định hình, đến khi trời đất đã phân định thì nó tải nặng được vạn vật, Mậu tụ vào trung ương, tán ra tứ phía, tại Thiên là vụ (sương mù), tại Địa là sơn (núi) nên gọi là dương thổ. Mậu Lộc ở tại Tỵ, tỵ là hỏa của lò đúc, luyện rèn thành khí cụ, gõ phát ra tiếng, tánh chất của nó cương mãnh khó mà xúc phạm được. Thích được dương hỏa sanh cho, sợ âm kim cướp khí. Dương hỏa tức Bính hỏa, Bính sanh ở Dần, Dần thuộc Cấn, Cấn là sơn, sơn là cương thổ (đất sỏi, đất cứng) cũng tức là Mậu thổ nhờ Bính hỏa mà sanh vậy. Mậu đến nơi đất Dậu, Dậu thuộc Đoài kim nên thổ bị đoạt khí hao tán, chính là kim thịnh thì thổ hư (đất cằn cỗi), mẫu suy vì tử vượng, giống như kim khí đập vỡ đá thì làm sao mà thêm thọ được? Cho nên Mậu thổ sanh ở Dần mà tử ở Dậu. Kinh thư nói: "Thổ hư tắc băng" (Thổ mà hư thì dễ sụp lở) tức là vậy.
Lại nói: Mậu thổ vững chắc, ví như hình ảnh của tường thành, cần phải sanh ở quý nguyệt (tháng cuối mỗi mùa, tức tháng tứ mộ) vả lại cần thông gốc ở chi bên dưới thì (đê) mới chắn được (nước) sông biển không tràn bờ, nếu trên dưới kèm hợp, tức thế đất kiên cố, không lo bị nứt rỉ nước; nếu bản thân vì thủy mộc mà hư nhược thì cái thế đó e rằng khó tránh nghiêng đổ. Nếu Thổ thất thời (không sinh vào quý nguyệt) thì kỵ hỏa, Kim nhiều làm nứt, tiết hao, giống như tường thành đã dựng xong thì không nên gia thêm Mộc gỗ đục khoét, thích đi về phương Đông Nam, Nếu bản thân vốn đã vượng có Ấn sinh, mà lại đến đi đất này thì hỏa sanh quá mức cho thân thì qua đây lại thành hung họa.
Trích dẫn:
* Kỷ thổ kế tiếp sau Mậu , tại Thiên là nguyên khí , tại Địa là chân thổ , thanh khí bay lên xung hòa với Thiên Địa , trược khí hạ xuống chúng sinh vạn vật gọi là âm thổ , Thiên Địa Nhân tam tài đều không thể thiếu thứ nầy . Thổ ở Càn Khôn cùng một mưu chước , nếu mất Âm Dương thì làm sao phối ngẩu do đó ở tại tứ hành mà không ở tại tứ thời và chỉ ký vượng mà thôi , đó là chân thổ vậy . Thích Đinh hỏa sanh mà ghét bị dương hỏa luyện . Lộc tại Ngọ , Đinh hỏa ở trong Ngọ năng sanh ra Kỷ thổ , bị Ất mộc cướp mất cái khí tài bồi nên đến đất Dậu thì Đinh hỏa mới sanh , Đinh hỏa đã sanh thì Kỷ thổ cũng năng sanh vậy , đến Dần dụng sự thì Ất hỏa tư quyền làm sáng lạng cho Kỷ thổ mà thành từ thạch đánh mất cái khí trung hòa , lý sao mà không tổn , cho nên Kỷ thổ Sanh ở Dậu mà Tử ở Dần .
Kinh nói: Hỏa khô thì thổ rách vậy . Lại nói : Kỷ thổ dày rộng có tượng như ruộng nương , không quý nơi sự sanh phò tụ hợp mà chỉ thích hình xung thì hữu dụng , đây là thể chắt sinh vật , nếu bị thất thời lệnh mà lại thiển bạc thì không những khó thi triển cái sức tư cơ (làm ruộng) mà còn không chôn được kiếm kích của kim , nếu như lại kiêm hành nơi kim thủy vượng thì thân bị nhu nhược rất là bất lợi , nếu gặp được hỏa thổ sanh thành thì lại đâm chồi sanh lộc vậy.
__________________hết trích.
KỶ THỔ
Kỷ thổ kế tiếp sau Mậu là nguyên khí của tự nhiên, chính là đất đai ở mặt đất, thanh khí (trái với trọc khí, thanh khí là khí trong, thanh khiết không vẩn đục) thăng lên hòa cùng với trời đất, trọc khí (khí đục) lắng xuống sinh vạn vật nên gọi là âm thổ. Thiên Địa Nhân tam tài đều không thể thiếu thứ thổ nầy. Giống như người liên kết giữa Càn (trời) và Khôn (đất), Âm (vợ) Dương (chồng) khuyết nó (người mai mối) thì làm sao nên duyên vợ chồng được? Do đó, vào tứ hành (mộc hỏa kim thủy) không thể không đóng trong đó, vào tứ thời (bốn mùa) mượn nó để vượng lên, nên gọi là chân thổ (đất đai). Thích Đinh hỏa sanh mà ghét bị dương hỏa làm khô cằn (táo là tình trạng thiếu nước). Kỷ lộc đến Ngọ, Đinh hỏa trong Ngọ năng sinh Kỷ thổ , bị Ất mộc cướp mất cái khí tài bồi (chắc ý nói Ất sinh ở Ngọ nên mộc hút chất dinh dưỡng của đất để Ất mà sinh ra). Đến đất Dậu, khi đã sinh thành thì Đinh hỏa cũng có thể sinh Kỷ thổ; đến đất Dần dụng sự (nắm quyền) là nơi mộc hỏa thừa quyền nung luyện Kỷ thổ thành nam châm (từ thạch), thế là mất đi cái khí trung hòa hỏi sao mà không tổn hại được, cho nên Kỷ thổ sanh ở Dậu mà Tử ở Dần.
Kinh nói: "Hỏa táo thổ liệt" (nóng khô thì đất nứt nẻ) chính là lý do đó vậy.
Lại nói: Kỷ thổ vừa dày vừa rộng hình cảnh của nó tựa như (đất) ruộng đồng, không quý ở tụ hợp nhiều (cũng có nghĩa là hợp hóa nhiều) hay được sinh phù mà chỉ thích hình xung hữu ích thì mới gia cố chắc cái nền cho sinh vật sinh sống, nếu quả thực thất lệnh kém mỏng và thiên thời bất lợi thì không những khó trợ lực cho tư cơ (đồ dùng làm ruộng bằng kim khí như cái cày, cái bừa; ý nói thổ khó sinh kim) mà còn không vùi lấp được kim của thanh gươm cây kích, nếu lại đi về nơi hai hành kim thủy vượng thì thân càng nhược, càng bất lợi, nếu gặp được hỏa thổ sanh thành thì lại đẹp như trồng trọt (hoa màu lúa má) đến ngày thu hoạch vậy.
=================
CANH KIM
* Canh kim đóng giữ thời điểm trời đất tiêu điều tàn tạ (mùa thu lá rơi), chủ sự binh biến của nhân gian. Trên trời là phong sương (sương và gió), tại đất là kim loại nên là dương kim. Canh Lộc đến ở Thân, Thân là cương kim, thích Mậu thổ sanh sợ Quý thủy làm chìm. Trường sanh ở Tỵ, Mậu thổ ở trong Tỵ có thể sanh Canh kim tức dương sanh dương. Tỵ là lò hỏa rèn Canh kim thành chung đỉnh (cái chuông, vạc), gõ lên phát ra âm thanh, nếu gặp thổ thủy chôn chìm thì khó phát ra tiếng, đây gọi là kim đặc vô thanh (kim loại không rổng ruột thì gõ vào không phát được tiếng). Đến đất Tí là nơi thủy vượng, Kim hàn Thủy lạnh, con vượng mẹ suy nên bị họan nạn chìm lỉm làm sao phục sinh được? Thế nên Canh kim Sanh ở Tỵ mà Tử ở Tý.
Kinh nói: "Kim trầm thủy để" (kim chìm đáy nước) là vậy.
Lại nói: Canh kim ngoan độn (chưa được trui rèn, còn thô) được Hỏa chế mà thành khí vật, trái lại Kim đã thành khí vật mà gặp đất hỏa thì thành hỏng.
(Canh) sinh mùa hạ không có gốc lại đi đến phương Đông Nam thì nung chảy không ngừng chung cuộc cũng chẳng thành công. (Canh) sinh mùa Thu không hỏa lại hành vận Tây Bắc thì được thanh lọc tôi luyện sáng bóng tự nhiên; nếu như chìm nơi đáy nước thì cuối cùng chẳng đến ngày hữu dụng, trái lại Kim vì thủy bị thương; đến như dùng bạc thiết (kim loại mỏng) mà chặt cây rừng thì chẳng những không chặt gãy được mộc mà ngược lại còn bị Mộc làm tổn thương (mẻ, cong oằn); Giả dụ Thổ trọng tàng Kim mà không được hình xung khắc phá thì Kim suốt đời bị chôn vùi đừng hy vọng vào sự hữu ích của nó.
TÂN KIM
Tân kim kế sau Canh, đứng đầu ngũ kim (1), đứng trước bát thạch (2). Tại Thiên là nguyệt, là sao Thái Âm. Tại đất là vàng, vàng là quặng từ sơn thạch, gọi là âm kim. Lộc đóng ở Dậu, trong Dậu có Kỷ thổ có thể sanh Tân kim tức âm sanh âm, nên gọi là nhu kim (loại kim mềm), là sao Thái âm. Đến dịp Trung thu kim thủy cùng nhau hội hợp, trong ánh sáng (của trăng tròn) cũng đủ thấy được vẻ sáng tỏa (của sự vật). Thiệu Tử có nói: 15 tháng 8 (rằm tháng 8) cùng chơi với ánh trăng là thế. Trường sanh ở Tí , Tí là nơi Khảm thủy, trong quẻ Khảm có một hào dương ở giữa thuộc Kim, còn có hai hào âm thuộc Thổ, Thổ năng sanh Kim, tựa như con còn ẩn trong bào thai của mẹ nên chưa rõ hình hài, được Tí thủy là nước dập dềnh khơi đãi lớp phù sa mà lộ diện, đây gọi là Thủy tế kim huy (thủy giúp cho Kim sáng), sắc quang óng ánh. Khi đến đất Tỵ là lò hỏa, Tân kim bị nung thành tử khí, lại bị Mậu thổ ở trong Tỵ chôn vùi, Kim không biến hóa được thì làm sao phục sinh được. Cho nên Tân Kim sinh ở Tý mà tử ở Tỵ .
Sách nói: "Thổ trọng kim mai" (Thổ trọng Kim bị chôn) là vậy.
Lại nói: Tân kim ẩm ướt chẳng phải là loại ngoan độn cứng cáp, nếu gặp hỏa nóng đúc nấu thì trái lại thành bị tổn hại nên khó mà đạt công dụng tốt được, chỉ nên được Thủy Thổ phù giúp, nhu nhã hòa hợp để nhuận được (đánh bóng) bản thể, nguyên là gặp hỏa quá nóng thì ưa hành phương Tây Bắc làm cho hỏa giải nhiệt đi để kim tồn tại. Như Kim mà quá lạnh thì cũng cần Bính Đinh để dung hòa Kim để khử lạnh. Nếu Tân tọa Lộc thông căn tức vào nơi vượng thân thì dù có gặp Thổ dày cũng không bị chôn vùi, vì thế chẳng nên so với dương Kim.
Chú:
1. Ngũ kim là kim loại nói chung, bọn tàu phân ra 5 loại là kim [vàng] , ngân [bạc], đồng [Cu], thiết [sắt], tích [thiếc], mà Tân tượng là kim, là vàng, có giá nhất nên đằng ấy bẩu là đứng đầu ngũ kim.
2. Bát thạch: chỉ chu sa, hùng hoàng, vân mẫu, không thanh, lưu hoàng, nhung diêm, tiêu thạch, thư hoàng. Bát thạch trong dược học thường dùng làm nguyên liệu xúc tác bào chế thuốc.
- Hùng hoàng: tức asen đỏ khoáng vật có sắc vàng dùng làm thuốc, có thể dùng giải độc nếu dùng đúng cách, làm phẩm màu hội họa.
- Vân mẫu: đá vân mẫu hình thành từ nham thạch, dùng trong công nghiệm hóa chất, chữa cháy vì có tính chất cách điện và chịu nhiệt cao hoặc làm phẩm màu.
- Không thanh: còn gọi là thạch lục, tử cổ chỉ các loại đá quý hiếm, tựa như ngọc, làm phẩm màu.
- Nhung diêm: tức muối hột.
- Tiêu thạch: đá Nitrat kali, trong suốt, cháy mạnh, dùng làm thuốc súng, thuốc nổ...
- Thư hoàng: opiment sulfua vàng, dùng làm phẩm màu trong hội họa.
Cảm ơn anh Khôi Tinh, tiếng Trung của anh thật tuyệt vời!
:5333::5333::5333::5333::5333::5333::5333:
NHÂM THỦY
Nhâm thủy thích dương Thổ để giúp cho bờ đê, sợ gặp âm Mộc lo bị đoạt khí. Tại Thiên là vân (mây) , tại Địa là trạch (đầm), gọi là dương thủy. Nhâm lộc tại hợi, hợi là ao hồ nước đọng nên gọi là tử thủy, tử thủy tức là cương thủy, nhờ Canh kim sinh, Canh lộc đến thân có thể sinh Nhâm thủy, đó là vòng xoay dưỡng khí của ngũ hành. Đến nơi đất mão, mão là nơi cây cối hoa quả, mộc vượng ở mão tức có thể khắc chế thổ, thổ hư (đất bọng rỗng) thì băng (sụp lở) cho nên đê bờ bị vỡ khiến nhâm thủy bị tiết tháo chảy khắp bốn bề, chảy mãi không quay về, lại bị âm mộc đoạt khí thì làm sao mà sống sót được. Cho nên Nhâm thủy sanh ở thân mà tử ở mão vậy.
Kinh nói: "Tử thủy hoành lưu" (Nước tù chảy lênh láng) là vậy.
Lại nói: Nhâm thủy là nước cuồn cuộn lại có nguồn, như trăm sông đang chảy đi khắp nơi, nhờ thổ để làm bờ đê, nếu Can chi không có thổ thì chảy tràn lan tứ phía bất định, thân suy mà gặp nhiều hỏa thổ thì hao nguồn nghẽn mạch. Nhâm thích về phương Nam nên lấy Mùi Ngọ là nơi thai dưỡng, đắc tài lộc lại ấm áp (ý nói đến Chính tài Đinh tàng trong Ngọ Mùi), qua (đất) Trường sanh hay về nơi đất Lộc chứ đừng vượt quá Thân Hợi, bởi vì đó là Phủ thống lĩnh gồm các vị đỗ đầu Hội thi Nguyên, đến nơi ấy khiến thủy được thêm mạnh mẽ. Nếu Tài nhiều Thân nhược đến được đây cũng gặp phước (nơi phúc tụ); còn Thân vượng Tài mỏng mà gặp phải thì thành tai ương, dù cho tuổi trẻ cường tráng cũng không thể thắng (ý nói ko thể địch nổi mấy cha nội đang làm trong Phủ).
QUÝ THỦY
Quý thủy kế sau Nhâm, là (hết) một vòng khí âm dương của Thiên can, như nước chảy cuối dòng thì quay ngược lại, thế nên thủy (nước) mới phân ra thanh (trong) hay trọc (đục); thủy lan chảy khắp nơi thấm xuống đất làm nhuận thổ, (thổ vượng) giúp sinh vạn vật. Trên trời là vũ lộ (nước mưa), ở dưới đất là tuyền mạch (suối, nước ngầm) nên gọi là âm thủy. Lộc ở tại Tí , Tí là nơi âm cực dương sanh (khí Âm tiêu thoát đến tận cùng còn khí Dương đang chuẩn bị sinh ra), là nơi Tân sanh mà Canh tử. Quý là hoạt thủy (nước thông chảy) tức nhu thủy, thích âm kim sanh, sợ dương kim làm ứ đọng, muốn đến gốc âm mộc làm khơi thông âm thổ (ý nói Quý thủy thấm vào gốc dưỡng cây Ất mộc, làm tơi mùn đất Kỷ thổ), âm thổ đã thông địa mạch thì nước chảy thông suốt. Tháng 2 kiến Mão là cây cối hoa quả, Mộc vượng Thổ hư, Quý thủy mới có thể thông chảy. Đến Thân là tam âm nắm quyền (Thân là Khôn, ba vạch âm) ứng quẻ Bĩ, trời đất không giao nhau, vạn vật cũng không thông nhau, Khôn thổ ở trong Thân, Canh kim hình thành bao vây đập nước khiến cho Quý thủy không thể thông chảy, ứ đọng trong ao hồ, không thể phát huy được thì làm sao mà tái sanh, nên Quý thủy sanh ở Mão mà tử ở Thân.
Sách nói: "Thủy bất Tây lưu" (Thủy không chảy ở Tây) là vậy.
Lại nói: Quý thủy nước mưa thấm nhuận âm trạch, nếu gốc thông ở Hợi Tí thì đủ thành dòng, hợp (nhiều) dòng mà thành sông lớn, tứ trụ không có Khảm (Tý) Khôn (Thân) [tuy Quý tử ở Thân nhưng trong Thân tàng Nhâm ---> Quý có gốc], như mất đi gốc sanh vượng, rốt cuộc thân phải nhược, cách cục mà có Tài Quan dù cho dùng được cũng không nên thái quá, giả như đủ Thân Tí Thìn thì thủy như quy tụ một nhà, ám xung với Dần Ngọ Tuất hỏa làm Dụng lại hóa thành Thượng cách. Nếu đúng là Dụng Dần Ngọ Tuất hỏa, thì trong ngoài phải không yếu, được vậy thì rất tốt, hoặc sinh cuối hè (tháng Mùi) dùng được Tài Quan, không mất đi nơi nương tựa, chủ đại phú quý, vận hạn nếu qua Tây Bắc thì không ngại (cái lẽ) thái quá.
:7113:
ĐOẠN NÀY "TRIẾT HỌC" QUÁ , DỊCH XONG MÀ VẪN KO ƯNG CÁI BỤNG
Luận Ngữ của Khổng Tử nói: Lý trường sanh của ngũ hành cũng giống như vạn vật, như ngày mới bắt đầu thì mới thấy ánh sáng, đến cung Ngọ Ly thì ánh sáng rất mạnh, trăng bắt đầu xuất hiện (hình dạng) vừa khéo đôi mày thanh tú, đến ngày trăng tròn, ánh trăng viên tròn thanh dịu. Tựa như đời sống con người, nhỏ rồi lớn lên, già rồi chết đi, bình thường thôi. Người lúc mới sanh chỉ biết khóc cười, đến lớn mới xét đến hiền ngu, Vạn vật cũng như vậy.
Giáp mộc sanh ở Hợi, thời lệnh Hợi thuộc thủy nên Giáp mộc đóng chổ này, Mộc vượng ở mùa Xuân đến Dần Lâm quan là đất Lộc, Giáp mộc đắc địa, đến Ngọ thì tử.
Bính hỏa sanh ở Dần, thời lệnh Dần thuộc mộc nên Bính hỏa cư ở đây, Hỏa vượng ở mùa Hè đến Tỵ Lâm quan quy Lộc, Bính hỏa đắc địa, đến Dậu thì tử.
Canh Kim sanh ở Tỵ , thời lệnh Tỵ thuộc hỏa, Canh kim cư chổ này, Kim vượng ở Thu đến Thân Lâm quan quy Lộc, Canh kim đắc địa, đến Tý thì tử.
Nhâm thủy sanh ở Thân, thời lệnh Thân thuộc Kim nên Nhâm thủy đóng đấy, Thủy vượng vào mùa Đông, đến Hợi là Lâm quan quy Lộc, Nhâm thủy đắc địa, đến Mão thì tử.
Mậu thổ sanh ở Dần, trong Dần có hỏa, Mậu thổ sanh ra ở đó, Dần là thời khắc Tam Dương giao thái, đất đai màu mỡ chuyển mình, vạn vật phát sanh, thế nên Mậu thổ sinh ra nơi Dần. Thổ vượng ở tứ quý, nghĩa của Hỏa Thổ giống như tình mẫu tử tương sinh cho nên Mậu cũng theo Bính Lâm quan quy Lộc ở Tỵ; Kỷ thì theo Đinh Lâm quan quy Lộc ở Ngọ;
Mậu thổ sanh ở Dần Kỷ thổ sanh ở Dậu rõ ràng rồi. Nếu lấy Mậu sanh ở Thân, Kỷ sanh ở Mão thì sao không lấy Nhâm Mậu quy Lộc ở Hợi, Quý Kỷ quy Lộc ở Tý?
Hậu nhân hết sức xằng bậy nghĩ ra bài ca về thổ, Thổ ca có câu "Mậu Kỷ đương Tuyệt tại Tỵ hoài" (Mậu Kỷ chủ tuyệt ở Tỵ), lấy Mậu sanh ở Thân, Dậu là Mộc dục, đến Tuất là Quan Đới, âm dương gián cách, thật quá sai lầm.
Có người cho rằng: vòng Trường sanh ngũ hành, có mẹ rồi sau mới có con, tức là nói có mẹ thì mới thành thai. Cùng nhóm thổ nhưng phân ra thể-dụng, khí thổ vượng mới chuyên chở được vạn vật, thổ cư (tàng) ở bên trong không phải là dụng mà chỉ là thể. Thổ tán ra tứ phía lại được vượng ở tứ quý thì thổ là dụng.
Thể thổ sanh ở Tỵ, thừa hưởng Lộc của phụ mẫu (Hỏa), Dụng thổ sanh ở Thân, ràng buộc ngôi vị phụ mẫu. Nói Thủy Thổ sanh ở Thân, là lời nói của nhà âm dương; nói Thổ sanh ở Tỵ, lời nói của thầy thuốc.
Khảo sách Ngũ tinh thì Thân là cung âm dương nên Thủy Thổ đều sanh ở Thân, thủy thổ ở Khôn vốn không tách biệt, mà nói "Thổ tùy thủy nguyên" (đất đai tùy theo nguồn nước) cũng là có lý.
Bốn hành kia đều có một nơi sinh cho, duy chỉ có thổ Trường sanh ở Dần lại còn sinh ở Thân, một hành mà 2 nơi sanh, mà thổ đóng phương Khôn Cấn, Khôn thuộc Tây Nam, thổ đến đây như có thêm bạn, nên thuận lợi hanh thông.
Hồ Trung Tử nói: "Khôn chi hậu trọng, tích thổ thành công." (Khôn là nơi phì nhiêu phong phú, tích tụ thổ thành công) thổ sanh ra ở đây, đúng vậy!.
Lại nói đến Mậu thổ sanh ở Dần gởi Lộc nơi Tỵ, cũng chính con được ở cùng với mẹ. Thấy rằng thổ không có chính vị (không có vị trí nhất định) nhưng sinh vật (sống) khắp mọi phương thì sao lại nghi ngờ điều đó.
Lại xét đến (tác giả) họ Chu trong sách "Âm Dương Định Luận" có nói: Ất mộc sanh ở Ngọ, Quý thủy sanh ở Mão, Tân kim sanh ở Tý, Đinh hỏa sanh ở Dậu là dương tử âm sinh, mà không biết Đông chí là thời điểm vượng khí của Tý thủy , Xuân phân là thời thịnh của Ất mộc, Hạ chí là thời điểm vượng khí của Đinh hỏa, Thu phân là thời vượng của Tân kim, mà Khảm Ly Chấn Đoài là chính vị của Tí Ngọ Mão Dậu; vị do thời (mùa) định ra, mà thời (mùa) chính là (nơi) tốt đẹp của vị. Vậy sao lại cho rằng gặp sanh nơi tử tuyệt.
Có người nói: đúng là như vậy thì Ất mộc do đâu sinh ra vậy? Giả sử như sinh tại hợi, trong Hợi chỉ có Giáp vậy thì Giáp sanh ở đâu, như nói tại Mão thì trong Mão chỉ có Ất,
Thử biện xét bằng cách lấy một thí dụ về Hỏa Thủy Thổ Kim, để thấy âm dương là một thể thống nhất.
Khổng tử nói: Thái cực sanh Lưỡng nghi.
Chu tử nói: Dương biến động Âm tụ hợp sanh Thủy Hỏa Mộc Kim Thổ.
Châu tử nói: vạn vật đều đủ một thái cực.
Đây là 3 lời nói mấu chốt quan trọng về ngũ hành tức nói đến vạn vật đều hình thành từ Thái cực, thì (cần biết) cái ban sơ (gốc) của vạn vật (là gì) (chỉ cần) hiểu Thái cực là đủ rồi. Hiểu ra sao?
- Nói đến Thái cực sanh Lưỡng nghi là nghĩa là phân thành Giáp Ất, mà Giáp là dương động đứng trước, Ất là âm tĩnh ở sau, có thể hiểu vậy.
- Nói dương biến âm hợp, tức là cho rằng Giáp biến đổi, còn Ất hợp lại rồi sau đó mới sanh mộc, có thể hiểu vậy. Không cho rằng Giáp là mộc còn Ất là một (thứ) mộc khác.
Bàn về Giáp Ất cần nhau để thành (chất) mộc thì Giáp tính chất mộc cứng chắc không nhất thiết vượng ở Mão, còn bản thân Ất đứng sau không thể không vượng ở Mão; Ất cũng bất tất sanh ở Hợi, mà Hợi tự nó không thể không là nơi sanh Giáp đầu tiên.
Tương tự suy ra Bính Đinh cần nhau để thành (chất) Hỏa , Mậu Kỷ cần nhau để thành (chất) Thổ , Canh Tân cần nhau để thành (chất) Kim , Nhâm Quý cần nhau để thành (chất) Thủy , chẳng phải đã rõ cả sao !
Chu tử nói: "Âm khí lưu hành là dương, Dương khí ngưng tụ là âm, không phải tính chất có hai thứ đối chọi nhau."
Thái thị (tác giả họ Thái) nói : "Đông phương Dần Mão mộc , Thìn thổ sanh ở Hợi ; Nam phương Tỵ Ngọ hỏa , Mùi thổ sanh ở Dần ; Tây phương Thân Dậu kim ,Tuất thổ sanh ở Tỵ ; Bắc phương Hợi Tí thủy ,Sửu thổ sanh ở Thân."
Lại nói : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, mỗi loại đều có một âm một dương, như Giáp là dương mộc còn Ất là âm mộc, Ất là nói đến chất còn Giáp nói đến khí; âm thì chủ hấp thu , tích tụ để thành, Ất cũng như vậy; dương thì chủ bày tỏ ra, thường thích phát quang huy, Giáp cũng thế.
Xem xét điều trên cũng thấy Giáp không nhất thiết là chủ, Ất không nhất thiết (cần) được sinh, điều đó cũng đủ phản bác được thuyết trước đó mà con phù hợp với lý luận về thập can của cổ nhân.
Lại khảo sách "Quảng Lục" có ghi: Giáp là thân gốc của cây (mộc), Ất là rễ của cây (mộc). Bính hỏa là lửa, Đinh là ánh sáng của lửa. Mậu là đất cứng, Kỷ thổ là đất tơi. Canh là chất kim loại, Tân là lưỡi kiếm, mũi nhọn của kim khí. Nhâm là nguồn nước, Quý là dòng chảy. Đó là Giáp Ất cùng một mộc mà chia ra âm dương, cũng chẳng phải chia thành (hai thứ riêng biệt) "tử mộc" hay "hoạt mộc". Đã là 1 mộc thì đều đồng sanh đồng tử, cho nên người xưa chỉ nói có tứ đại Trường sinh mà thôi. Ngày nay phân âm dương thành hai, cho nên phân biệt ra dương tử âm sanh, dương sanh âm tử.
Khảo sách "Trần Đoàn" thấy ghi rằng: Giáp là cây Ất là cỏ, Bính lửa Đinh tro (nóng), Mậu là đất Kỷ là cát, Canh là kim loại Tân là đá, Nhâm là nước Quý là suối; đấy cũng phân làm hai, nếu không phân thì Quan Sát, Thực Thương, Ấn thụ Kiêu thần, Kiếp bại Tỉ kiên, cớ sao một vật mà lại có hai tên và cát hung họa phước lại khác nhau hẳn, chẳng giống nhau. Việc xét Mệnh thì phải lấy tiền thuyết (mà dùng) mới chính xác.
"Tam mệnh thông hội" và "Uyên hải tử bình" là những cuốn sách mệnh lý kinh điển. Xưa tìm mỏi mắt không ra, nay hữu duyên có được là nhờ chú Anhngoc dịch ( tâm như Bồ Tát) và Chú Khôitinh và cô Kimcuong đính chính (hiệu chỉnh và bổ sung) thật là may mắn.
Than ôi! 12 quyển cũng như 12 tháng, công sức khó nhọc biết bao. Chúc chú Anhngoc Phúc như Đông hải , Vạn thọ vô cương, Muôn sự như ý để có thể dịch hoàn chỉnh cuốn sách quý giá này. Hàng ngày mỏi mắt mong chú post bài.
Cháu vô cùng ham thích Tubinh. Say mê đến kì lạ. Chỉ tiếc không học chữ Hán (dù muốn vô cùng) nên không đóng góp gì được. Giờ lại phải mưu sinh nên bao nhiêu yêu mến đành đợi đến tầm 50 tuổi vậy. Chú cho cháu lưu lại bản dịch của chú nhé. Cháu cảm ơn chú nhiều. Cháu quangdct
Trích:
Nguyên văn bởi Khôi Tinh
Vấn đề trong đoạn trên quả là nằm ở ngũ hành Thổ rõ là trường sinh ở đâu? Ở Dần hay Thân? Đoạn văn (tiếng Trung) viết mà không có chú thích nguồn gốc, lại gây ra khó hiểu ở đoạn in nghiêng, vì thế nào là sai lầm khi nói rằng "lấy Mậu sanh ở Thân, Dậu là Mộc dục, đến Tuất là Quan Đới, âm dương gián cách"? Đoạn sau lại có vẻ như chấp nhận Mậu Thổ đều sinh ở cả Dần và Thân.Trích:
Mậu thổ sanh ở Dần, trong Dần có hỏa, Mậu thổ sanh ra ở đó, Dần là thời khắc Tam Dương giao thái, đất đai màu mỡ chuyển mình, vạn vật phát sanh, thế nên Mậu thổ sinh ra nơi Dần. Thổ vượng ở tứ quý, nghĩa của Hỏa Thổ giống như tình mẫu tử tương sinh cho nên Mậu cũng theo Bính Lâm quan quy Lộc ở Tỵ; Kỷ thì theo Đinh Lâm quan quy Lộc ở Ngọ;
Mậu thổ sanh ở Dần Kỷ thổ sanh ở Dậu rõ ràng rồi. Nếu lấy Mậu sanh ở Thân, Kỷ sanh ở Mão thì sao không lấy Nhâm Mậu quy Lộc ở Hợi, Quý Kỷ quy Lộc ở Tý?
Hậu nhân hết sức xằng bậy nghĩ ra bài ca về thổ, Thổ ca có câu "Mậu Kỷ đương Tuyệt tại Tỵ hoài" (Mậu Kỷ chủ tuyệt ở Tỵ), lấy Mậu sanh ở Thân, Dậu là Mộc dục, đến Tuất là Quan Đới, âm dương gián cách, thật quá sai lầm.
Có người cho rằng: vòng Trường sanh ngũ hành, có mẹ rồi sau mới có con, tức là nói có mẹ thì mới thành thai. Cùng nhóm thổ nhưng phân ra thể-dụng, khí thổ vượng mới chuyên chở được vạn vật, thổ cư (tàng) ở bên trong không phải là dụng mà chỉ là thể. Thổ tán ra tứ phía lại được vượng ở tứ quý thì thổ là dụng.
Thể thổ sanh ở Tỵ, thừa hưởng Lộc của phụ mẫu (Hỏa), Dụng thổ sanh ở Thân, ràng buộc ngôi vị phụ mẫu. Nói Thủy Thổ sanh ở Thân, là lời nói của nhà âm dương; nói Thổ sanh ở Tỵ, lời nói của thầy thuốc.
Khảo sách Ngũ tinh thì Thân là cung âm dương nên Thủy Thổ đều sanh ở Thân, thủy thổ ở Khôn vốn không tách biệt, mà nói "Thổ tùy thủy nguyên" (đất đai tùy theo nguồn nước) cũng là có lý.
Bốn hành kia đều có một nơi sinh cho, duy chỉ có thổ Trường sanh ở Dần lại còn sinh ở Thân, một hành mà 2 nơi sanh, mà thổ đóng phương Khôn Cấn, Khôn thuộc Tây Nam, thổ đến đây như có thêm bạn, nên thuận lợi hanh thông.
Hồ Trung Tử nói: "Khôn chi hậu trọng, tích thổ thành công." (Khôn là nơi phì nhiêu phong phú, tích tụ thổ thành công) thổ sanh ra ở đây, đúng vậy!.
Lại nói đến Mậu thổ sanh ở Dần gởi Lộc nơi Tỵ, cũng chính con được ở cùng với mẹ. Thấy rằng thổ không có chính vị (không có vị trí nhất định) nhưng sinh vật (sống) khắp mọi phương thì sao lại nghi ngờ điều đó.
Vậy xin nói thêm cho rõ theo quán xét của KC:
Ngũ hành Thổ với tinh thần ở trên ta nên hiểu là trước khi phân âm dương (Mậu, Kỉ).
Thổ sinh ở Thân và cả ở Dần là dựa vào vị trí của Dần và Thân trong quẻ Khôn và Cấn: Thân ở Khôn, Dần ở Cấn.
Kinh Dịch có viết: Quẻ Khôn là Địa, vạn vật đều trường sinh ở đấy. Có nghĩa là từ đất mà sinh ra vạn vật. Còn quẻ Cấn là nơi bắt đầu thực sự cho một vòng trường sinh mà cũng là nơi chấm dứt của vạn vật.
Vậy nói Thổ sinh ở Thân (tức là từ quẻ Khôn) không phải là sai. Trong "Tinh Lịch Khảo Nguyên" cũng nói như thế, khi bàn về Hậu Thiên Bát Quái. Tuy rằng cũng chỉ rất xúc tích mà không đi sâu vào chi tiết, chúng ta cũng hiểu rằng khi chưa phân âm dương của Thổ, Thổ là Đất (Địa) nói chung khởi nguồn từ quẻ Khôn là vậy. Đấy là tính triết lý vạn vật nảy mầm từ đất, nên mới nói Khôn là Mẹ. Đất sinh ra muôn loài.
Nói Mậu sinh ở Dần là vì Dần bắt đầu mùa Xuân. Ở tiết Lập Xuân, vạn vật hấp thụ khí nuôi dưỡng từ trời giáng xuống, trong khi đó khí của đất thăng lên, tam dương khai thái là nghĩa này. Thời điểm này trời và đất giao hòa nên vạn vật như được "trường sinh".
Sách "Hồng Phạm" thì nói Thổ sinh ở Thân là HÌNH THỂ của vòng tương sinh ngũ hành (thổ > kim > thủy > mộc > hỏa > lại trở về thổ).
Khi Thổ, mà rõ là Mậu dương thổ trường sinh ở Dần thì lúc đấy vòng tương sinh trở nên (hữu) DỤNG.
(Dụng đây là từ hình thể mà phát ra tác dụng, dĩ nhiên ta cũng nên hiểu là trong khi tác dụng có cả tương khắc.)
Khi phân biệt âm dương ta nói: Mậu Thổ sinh ở Dần, Kỉ Thổ tử ở Dần, đấy cũng là ý của câu trong Kinh Dịch và Tinh Lịch Khảo Nguyên (cùng sinh cùng tử ở Dần).
Đến đây thì các bạn đã hiểu tại sao có thuyết "vạn vật đồng sinh đồng tử"?
Luận Địa Chi
Dụng Địa chi không giống như Thiên can, động tĩnh bất đồng, vuông tròn cũng khác hẳn nhau, song nguyên lý ngũ hành cũng chỉ là một, còn (luận) vị trí đóng của Địa chi có sự khác nhau. Như Chi đóng tại niên thì có lý luận riêng của trụ năm, đóng tại nguyệt thì có lý luận riêng của trụ tháng, đóng tại nhật thì có lý luận riêng của trụ ngày, và đóng tại thời có lý luận riêng của trụ giờ. Luận âm dương khinh hay trọng, cương hay nhu, chẳng lẽ luận hỗn tạp ở cùng một bản thể? Nay lấy nguyệt làm chủ (lấy tháng sinh làm chính), lấy cái tàng trong nó để dùng, cái chính là gặp thần khí (Can tàng trong Chi) nào, hao hay kị, quan hệ của chúng ra sao. Thường (thần khí này) phải đo lường nông sâu ra sao rồi mới dùng được.
- Tý (tàng Quý): đứng đầu 12 chi , là nước (thủy) ở khe suối, sông, biển , là Mậu thổ vượng địa (quái lạ ! chắc lấy Mậu sinh ở Thân, đến Tý thì vượng), nhưng phải qua tiết Đại Tuyết nhất dương (một hào dương) xuất hiện (Tý là quẻ Địa Lôi Phục - một vạch liền dưới cùng, trên là 5 vạch đứt, chủ âm bắt đầu thoái, dương bắt đầu hình thành) thì mới thành vượng; Tân kim sinh ở đây, tức là lúc dương khí hồi phục sưởi ấm thủy rồi sau mới sinh Tân kim được. Tương xung với Ngọ , tương hình với Mão , tam hợp với Thân Thìn; nếu đủ Thân Tí Thìn hội thành thủy cục, tức sẽ thành sông biển thành tiếng sóng ba đào.
- Sửu (Kỷ Tân Quý): tuy e trời rét đậm lại có tuyết rơi, nhưng thiên thời đã chuyển qua nhị dương (ý nói quẻ Địa Trạch Lâm, là Sửu), lấy ấm áp của Kỷ thổ trong Sửu có thể sinh được vạn vật ; Tân kim dưỡng địa ở Sửu sao chỉ là ẩn tàng trong Sửu? Gặp Tuất thì hình, gặp Mùi là xung , mộ khố thì rất cần nên thế, hình xung không phải là vô dụng. Gặp Tỵ Dậu là tam hợp hội thành kim cục, nếu nhân mệnh sinh ở tháng Sửu mà ngày giờ gặp nhiều thủy mộc, tất (phải) đi ngang qua đất Tốn Ly (Tị Ngọ) thì thổ mới không suy mà thôi.
- Dần (Giáp Bính Mậu) kiến là mùa xuân , dương khí tụ đủ (Địa Thiên Thái - đủ ba hào dương) lại có Bính hỏa sanh. Dần hình Tỵ , Tỵ hợp Thân cùng vượng là quý khách (ý nói Tị Thân hợp hóa thủy, nên thủy mộc đều vượng), vượng ở Mão, mộc khố ở Mùi, đồng loại nên cùng một nhà. Đến Ngọ thì làm hỏa quang huy rực rỡ, vẻ đẹp như siêu phàm nhập thánh (phát hào quang lung linh, biến hóa vô cùng). Gặp Thân thì Dần bị xung và bị phá Lộc dẫn đến tổn hại. Nếu tứ trụ nhiều hỏa thì không nên đi về phương Nam đất hỏa. Lời rằng: Mộc bất Nam bôn là vậy.
- Mão (Ất) mộc trọng Xuân, mộc khí thụ bẩm thịnh vượng, tuy dùng kim thủy nhưng không thể thái quá, nếu lộ Canh Tân gặp nhiều thì Địa chi không nên gặp Thân Dậu sợ bị cái hại chặt phá, còn địa chi nhiều Hợi Tý thì không nên gặp Nhâm Quý lộ sợ bị trôi dạt thương tổn. Gặp Dậu thì xung, mộc như bị rụng lá. Gặp Hợi Mùi thì hợp thành mộc cục, mộc tất thành rừng. Nếu ngày giờ Kim trọng và đại vận lại hướng về Tây thì họa khó mà đương nổi.
- Thìn (Ất Quý Mậu) kiến là thời điểm cuối xuân, mang cái ẩm thấp của đất bùn nhão, vốn là gốc vun bồi cho vạn vật. Giáp đến đây tuy suy nhưng còn Ất dư khí. Nhâm đến đây tuy nhập mộ nhưng có Quý làm tái sinh. Thìn gặp Tuất như gặp chìa khóa khai mở vật chứa trong khố (cái kho chứa), nếu có 3 Tuất trùng xung phá mất cửa không phải là tốt. Nhật thời gặp nhiều thủy mộc mà vận lại hướng đến Tây Bắc, Thìn thổ khó thể tồn tại được.
- Tỵ (Mậu Canh Bính) là thời điểm đầu hè, hỏa sáng rực rỡ, nơi tận cùng lục dương (Tị là quẻ Thuần Kiền - 6 hào dương, là thời điểm dương khí cực thịnh), Canh kim mượn đây để sinh làm mệt mỏi mẹ là Mậu (tàng trong Tị). Mậu thổ quy Lộc là như theo về bên mẹ hỏa. Gặp Thân thì hình mà trong hình lại có hợp nên thành vô hại ; gặp Hợi thì xung, xung tất bị phá hỏng nên dễ thương tổn, nếu vận lại đi về phương Đông Nam là nơi phát lửa chỉ tạo thành cảnh bị thiêu cháy thôi (thiêu thiên liệt diễm chi thế = trời hạn hán làm lửa cháy càng mạnh thiêu đốt tất cả sinh vật).
- Ngọ (Đinh Kỷ) là tháng hỏa khí ngùn ngụt, thăng đến giữa (tháng) thì nhập Trung khí (ý nói vào tiết Hạ Chí ) là có một hào âm sinh rồi (Ngọ là quẻ Thiên Phong Cấu, một hào âm duy nhất ở trên cùng); Canh đến đây thì vô dụng; Kỷ đến đây như hồi thành; gặp phải Thân Tý tất tranh giành, chế khắc; gặp Dần Tuất càng phát ánh quang. Vận hướng Đông Nam chính là nơi thân cường vượng; nếu vào Tây Bắc tức lâm cảnh hưu tù, tử táng.
- Mùi (Đinh Ất Kỷ) là thời điểm cuối hè, âm khí đang tiến còn hỏa khí thoái lui từ từ, trong mùi có Ất mộc, Đinh hỏa là tàng Quan tàng Ấn mà không tàng Tài. Không có Hợi Mão để thành cục thì bản thân khó biến đổi, chỉ luận thổ hỏa (không thành mộc cục nên chỉ luận thổ ở mùa hỏa), không có Sửu Tuất hình xung thì cũng không mở được khố, khó được kim ấn (ấn tín bằng vàng, cũng chỉ Quan và Ấn tàng trong Mùi). Trong trụ không có hỏa thì sợ hành vận gặp kim thủy; trụ ngày giờ rét đậm (thủy nhiều) thì thích đi về nơi Bính Đinh. Cho nên hỷ hay kỵ của dụng thần rất cần phải rõ ràng, không thể lầm lẫn một chút nào.
- Thân (Mậu Nhâm Canh) là nơi trường sanh của thủy thổ; vào Tỵ Ngọ tức gặp hỏa trui luyện thành đao kiếm, gặp Tý Thìn tức gặp thủy tôi luyện (sắt đang nóng đỏ bỏ vào nước gọi là tôi sắt) giúp cho thành mũi nhọn sắc bóng; giả sử mộc nhiều mà không hỏa, kim cuối cùng rồi cũng thắng được; nếu thổ trọng chôn đống kim lại gặp hung, bởi vì Thân là kim thô chưa luyện, không giống với châu ngọc ôn nhu.
- Dậu (Tân) kiến là thời điểm tháng 8, sắc kim vàng óng, nước chảy trong vắt, nếu trụ ngày giờ nhiều hỏa thì càng lo hành vận đến phương Đông, nếu ngày giờ gặp thủy vượng thì vận sợ về phương Nam. Trong trụ mà gặp bùn nhão (thấp thổ) là hữu dụng, hành vận về Tây Bắc hỏi sao cạn tình? Nhưng gặp Tỵ Sửu tam hợp cũng được kiên cố sắc bén, hỏi sao có thể lấy bùn nhão luận cho loại âm kim là châu ngọc mềm mại được đây ?
- Tuất (Tân Đinh Mậu) chính là khố của lò lửa (Tuất là hỏa khố), kim thô nhờ luyện nơi đây mà thành, xung Thìn tất rồng (Thìn) xuất Quý thủy phun mưa; gặp Bính hỏa trong Dần thì mới lộ văn chương. Song hỏa mệnh mà gặp là nhập mộ, lẽ nào có thể tránh được không bị tổn thương ư?
- Hợi (Nhâm Giáp) là đất lục âm (sáu hào âm), tuyết mưa ngập đường, thổ đến đây không được sưởi ấm, kim đến đây thêm lạnh. Tượng của Hợi ví như nơi qui tụ của Ngũ Hồ (*), còn Dụng của Hợi là ở cái ý tam hợp, nguyên nhân là vì muốn đó là nơi trời đất (Càn Khôn) hòa hoãn ấm áp, tức là nơi mà Cấn, Chấn, Tốn, Ly tìm về (nơi Càn Khôn, tức Thân / Hợi).
Đại để phương pháp luận ngũ hành chung quy không có thực (như ngoài đời sống thực tế), sinh-tử-suy-vượng cũng chỉ là mượn tên mà nói thôi. Cứ hướng thẳng đến ngọn nguồn, làm rõ nơi phát sinh đó, như ngũ dương là cương, ngũ âm là nhu; Nếu thất lệnh thân suy không gặp trợ giúp lại bị tiết khí nhiều thì dù (bản thể) cương cũng mất tính cương; nếu đắc lệnh thân cường, nắm quyền lại được trợ thì dù (bản thể) nhu cũng không mất tính nhu. Trong đó (ngũ hành) lại phân mộc hỏa là dương, kim thủy là âm đều thích được sanh phù trợ giúp, quan trọng là lấy sự trung hòa làm quý.
Chú thích:
(*) Ngũ Hồ : chỉ hồ Động Đình ở tỉnh Hồ Nam; Bà Dương ở Giang Tây; Thái hồ ở Chiết Giang; Sào hồ ở An Huy; và hồ Hồng Trạch ở hạ lưu sông Hoài, phía tây Giang Tô.
Hihi! KT dạo này tích cực hẳn lên ta! :004:
Cái chỗ nói "...nếu có 3 Tuất trùng xung phá mất cửa không phải là tốt. Nhật thời gặp nhiều thủy mộc mà vận lại hướng đến Tây Bắc, Thìn thổ khó thể tồn tại được" thì phải xét lại. Nếu thìn là kỵ thì xung phá thì tốt chứ sao lại nói phá mất cửa mà không tốt! Là kỵ mà chỉ dụng 1 tuất xung 1 thìn thì chỉ có mà chết, vì là xung động chứ không khai, kỵ thần mà động thì khổ càng thêm khổ. Chỉ khi thìn là dụng thần thì rất sợ 3 tuất đến xung.
Lại còn nói Dần gặp Tị gặp Thân là tốt. Dần Tị là tương hình tương hại là xấu, giống như gặp cừu hận không hóa giải được. Gặp Thân thì bị xung, có phải mộ đâu mà bị xung là tốt. Tuy cùng gặp Tị, Thân thì lực hình hại xung có giảm, nên bớt xấu, nhưng chẳng thể gọi là tốt được.
Nên nghiên cứu sách cổ cũng phải cẩn thận suy xét, nếu không dễ vướng vào mê hồn trận mà không có lối ra.
PhieuDieu
Hehe, lười pà kố luôn , chứ siêng nổi gì .
Phụ chỉnh với HKLS vậy chứ đến bao giờ mới đọc lại , khi đọc cũng hok biết có hiểu ko :004:
Thìn gặp Tuất như gặp chìa khóa khai mở vật chứa trong khố (cái kho chứa), nếu có 3 Tuất trùng xung phá mất cửa không phải là tốt.
Hehe , khố nói chung được xung thì tốt , tốt theo nghĩa là mở khố !
Còn xung thì có nhiều loại xung, xung động, xung khai, xung...mãn :2455: - sách chưa nói tới, từ từ sẽ nói !
Nhưng xung thì đứng có xung nhiều quá, 3 Tuất thì dùng búa chứ dùng "chìa khóa" đâu , nên nói 3 Tuất như phá cửa là vậy.
Không phải , ý câu trên nó muốn nói đến Dần hình Tị (ta phải ngầm hiểu là xấu) , may nhờ xuất hiện thêm Thân nên Tị hợp với Thân, nên lại thành tốt do Dần được giải tỏa , Tị Thân hóa thủy nên nói cả hai cùng vượng , Tị Thân đều là khách quý .Trích:
Lại còn nói Dần gặp Tị gặp Thân là tốt. Dần Tị là tương hình tương hại là xấu, giống như gặp cừu hận không hóa giải được.
Dần - Tị - Thân ở đây đóng vai trò "tham hợp quên xung" ý mà :3we2:
Nói rồi đấy chứ Khôi Tinh! Xung mãn là Hình! Như để giải thích Thân Tí Thìn gặp Dần Mão Thìn: Thân hình Dần, Tí hình Mão, Thìn hình Thìn.Trích:
Còn xung thì có nhiều loại xung, xung động, xung khai, xung...mãn - sách chưa nói tới, từ từ sẽ nói !
"Dần Tị Thân" tam hình được giải thích là do can tàng khắc chế nhau, nên dù có sinh nhưng cả 3 gặp nhau thì hết sinh mà trở lại xung, vì thế nên gọi là Vô Ân Chi Hình.
Sửu Tuất Mùi cũng tương tự. Tam hình trong tứ trụ phải ở gần nhau thì mới xét là có ảnh hưởng mạnh nhất, yếu hơn là cách 1 trụ, đến đại vận gặp lại thì động. Tam hình cũng có cát có hung, tùy theo dụng hay kị thần, nhưng đều có biểu hiện nội tâm rất rõ (không luôn luôn hài lòng về vấn đề gì, bi quan, tự mâu thuẫn, xa cách người thân, hôn nhân lãnh đạm...)
Thí dụ kiểm được là tứ trụ của Diana, có Sửu Tuất Mùi, lệnh tháng là Ngọ, chết ở vận Tuất (Mậu), năm Sửu (1997)
Hihi! KT ráng siêng tý cho bà con nhờ nha.
Ý anh viết chắc em chưa rõ rồi. Nếu thìn là kỵ thần thì xung phá cho nó chết luôn thì tốt chứ sao. Nguyên tắc là khứ tận tuyệt thì mới đắc hoàn toàn, anh học được cái này qua rất nhiều lá số nên thấm thía lắm. Còn về xung thì có rất nhiều cái hay để bàn lắm. Như kỵ thần bị chế đến vận xung nó thì cực tốt, kỵ thần vô chế gặp xung thì nguy, rồi đại vận xung bát tự, lưu niên xung đại vận khác với lưu niên xung bát tự ra sao ... Nếu em dịch hết bộ Tam mệnh này mà phần xung này không phân tích rõ, khi đó anh sẽ bổ sung để mọi người tham khảo.
Còn tham hợp quên hình xung thì cũng không phải đâu. Mà là do hợp nên lực hình, lực hại, lực xung giảm đi. Hơn nữa tị thân là hợp trói, không hề hóa thủy gì đâu.
Thôi, anh không viết nữa. Dành hành lang này để em tiếp tục trình bày, viết nhiều khiến người đọc thêm rối.
Chúc KT mạnh khỏe, tiếp tục sự nghiệp nha. :0006:
PhieuDieu
Bác phieudieu, giờ sinh của Diana được ghi nhận là 20:45 tại Sandringham, Norfolk, Anh quốc, lùi 1 tiếng vẫn là giờ Tuất. Tuy thế, chỉ là một thông tin mà KC tôi không để tâm nhằm nêu ra để tranh luận, vì ngay cả khi mọi người đều đồng ý 1 giờ sinh biết rõ nào đó thế mà vẫn có nhiều luận giải khác biệt nhau như thường.
Chào bạn KC
Bạn nhắc khiến tôi xem lại. Đúng là công nương Diana sanh giờ Bính Tuất, và ông Đoàn Kiến Nghiệp cũng có 1 bài phân tích mệnh của công nương rất đặc sắc (theo giờ Tuất) vì sao công nương lấy thái tử, vì sao thái tử ngoại tình, rồi vì sao chết vì tai nạn ô tô ...
Nhưng ví dụ trên lại là giờ Tý. Tôi mới xem lại, thì ra phần tài liệu này của ông Tống Anh Thành, một cao thủ khác của Trung Hoa. Sao lại có sự khác nhau về giờ sinh ở đây, có lẽ tiên sinh Tống Anh Thành nhầm lẫn về giờ sanh công nương rồi.
Cám ơn bạn đã góp ý.
PhieuDieu