36. ẤT SƠN TÂN HƯỚNG KHỞI TINH
Kiêm Thìn, Tuất Tân Dậu phân kim. Quẻ Tiểu quá. Hướng từ 289 đến 292,5 độ.
Chu Nghĩ Minh chú giải:
Vô “thế” khả tầm (không thể tìm ra bàn tay nào thay thế).
Ngũ của vận bàn đến sơn, vẫn là dùng ngũ thập trung nghịch bài, cửu đến hưỡng vẫn là cửu 9 đinh, hữu bật nhập trung nghịch bài, số sao không đổi, do đó mới gọi là “ vô thế khả tầm”.
Ất sơn dùng “thế” thì không nên kiêm Thìn, trong Quyết nói: “hung tinh của ất thìn không dừng lại”. Nếu long, sơn thất vận, thì nhất định chủ sẽ gặp tai nạn xe cộ hoặc đột tử; nếu có thủy chảy qua lại thì đó không ứng là loạn luân mà là thủy ách hoặc treo cổ tự vẫn, phá tài, giáng chức, nghèo túng, chi trưởng đại bại, thượng nguyên thì có hại cho nữ, hạ nguyên làm tổn thương đến nam, trong nhà phụ nữ bất hòa, các bệnh về tim, về mắt, về phổi liên miên.
Bố cục ngày hợp nhất là có dòng thủy chảy từ phải sang trái, tức là bố cục cứu bần hoàng tuyền “tân nhập càn cung bách vạn trang”, nếu thủy chảy từ phương Hợi đến, qua nơi thờ, gấp khúc rồi chảy về phương Tốn Tỵ rồi hội tụ ở đây thì tam nguyên bất bại. Vì thế là thế thủy pháp long môn bát cục “Càn khôn quốc bảo”, gọi là Càn Hợi là “thiên kiếp thủy”, do vậy, không những không dữ mà lại là lành, các bạn đọc có thể tự khảo nghiệm thì sẽ thấy có sự linh diệu của huyền không. Phải biết rằng sách cũng có sách nên đọc được nhưng cũng có sách không nên đọc, có sách có thể tin nhưng cũng có sách không thể tin, có lúc có thể dùng nhưng cũng có lúc không dùng được.
Ghi chú: Nếu tọa Ất kiêm Thìn hướng Tân kiêm Tuất hoặc tọa ở trung tuyến của Ất Thìn hướng Tân Tuất thì phải dùng lục, bát nhập cung nghịch hành, lập riêng một bàn khác rồi phán đoán dựa vào sự kết hợp giữa hai bàn.