Nguyên văn bởi
BanChatDichHoc
Em chào các bác !!! Hôm nay , em xin tiếp tục làm rõ khái niệm : Thế nào là " Độn Giáp"
* Để hiểu thật rõ ràng về nó . Trước hết cần xét qua tiến trình hình thành và phát triển của Độn Giáp kì môn trong lịch sử . Trong đó , quá trình hình thành Kì Môn Độn Giáp là giai đoạn quyết định nội dung khái niệm : Thế nào là Độn Giáp . Bên cạnh đó phải làm rõ vấn đề : Tam kì là gì ? Lục nghi là gì ? Vì sao chúng luôn vận động trái ngược nhau ?.
* Vấn đề thứ nhất : Quá trình hình thành Độn Giáp Kì Môn
- Sự hình thành KÌ Môn Độn Giáp , được chia thành 2 giai đoạn cơ bản . Hai giai đoạn này được nói rõ trong Độn Giáp Tông Tự như sau :
" Trộm thấy khi Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu ở Trác Lộc , mộng được thần trời trao truyền bùa phép , bèn sai Phong Hậu diễn ra Kì Môn . Độn Giáp có từ đó .
Đế Nghiêu sai Đại Vũ đi trị thủy , được Huyền Nữ trao truyền văn thư , mà nhận rùa thiêng sông Lạc , lưng mang cửu trù . Độn Giáp được xếp thành từ đó ." ( Trích trong Độn Giáp Tông tự - Độn Giáp Toàn Thư của Lưu Bá Ôn )
- Đoạn trích trên các bác chú ý phần in đậm sẽ thấy rõ hai giai đoạn quan trọng trong quá trình hình thành Kì Môn Độn Giáp .
+ Giai đoạn thứ nhất của quá trình này , là giai đoạn hình thành các khái niệm : Độn Giáp , Lục Nghi , Tam Kì , Trực Phù , Mối quan hệ giữa Tam Kì và Lục Nghi .
+ Giai đoạn thứ hai , là giai đoạn hình thành các khái niệm : Cửu tinh , Bát Môn , Thiên bàn , Địa bàn , Nhân Bàn .
Ở đây , em chỉ làm rõ nội dung của giai đoạn thứ nhất .
- Căn cứ vào phần thứ nhất của đoạn trích , có thể thấy rằng Độn giáp kì môn có sau khi Hoàng Đế được thần trời trao truyền bùa phép . Vậy BÙA PHÉP đó là cái gì mà giúp cho Phong Hậu có thể dùng để điễn ra Kì Môn ? Xin thưa các bác như sau :
+ Kì Môn ở đây chính là ; Tam Kì Ất - Bính - Đinh . Trong đó , Ất là mặt trời , Bính là Mặt trăng , Đinh là các sao cố định của Hoàng đạo . ( Ất - Nhật . Bính - Nguyệt - Đinh -tinh tú ) .
+ Từ đây có thể thấy được rằng ; BÙA PHÉP mà thần trời đã trao cho Hoàng Đế Hiên Viên chính là cách quan sát thiên văn và cách đo chu kì vận động của Nhật - Nguyệt -Tinh .
- Qua đây , các bác cũng đã hiểu được tam kì là gì . Vậy vì sao nó lại có ý nghĩa quan trọng với Hoàng Đế Hiên Viên đến vậy . Đó là vì trước đó , bộ tộc Thiểu Điển ( Hoàng Đế Hiên Viên là người của bộ tộc Thiểu Điển ) lấy chu kì tròn khuyết của mặt trăng ( Không xét mối quan hệ giữa Mặt trăng và các sao Hoàng đạo và mặt trời ) , để đo Địa Khí . Cụ thể là , lấy chu kì mặt trăng làm thước đo thiên khí . Một vòng thiên khí là 12 chu kì của mặt trăng . lấy sự biến đổi của cây cỏ làm thước đo địa khí . Một vòng địa khí được tính từ khi một loài cây nào đó có hoa cho đến khi cây đó lại có hoa . Chính vì vậy cho nên có giai đoạn con người lấy tên một số loại cây đặt tên cho tháng . Chẳng hạn : " Tháng 1 là Hạnh nguyệt , tháng 2 là Đào nguyệt , tháng 3 Hòe nguyệt , ..." .( Trích Nguyên lí thời sinh học cổ phương đông của Lê Văn Sửu ) .
- Tuy nhiên việc này dẫn đến mâu thuẫn mà lí luận của bộ tộc Thiểu Điển không giải quyết được đó là không giải thích được vì sao thiên khí và địa khí có lúc đồng nhất , có lúc không đồng nhất . Có những năm sau 12 chu kì trăng thì Hoa đào lại nở , nhưng có những năm phải 13 chu kì trăng hoa đào mới lại nở . Chính nhờ cái bùa phép được truyền mà họ hiểu ra nguyên nhân và bắt đầu hình thành tư tưởng về tính nhuận cho âm lịch .
- Bên cạnh đó cũng cần phải hiểu rằng chu kì Địa khí theo cách tính của tộc Thiểu Điển được chia thành 6 bước , mỗi bước tương ứng với 1 loại khí ( Lục khí ) vận hành tuần tự như sau : Quyết âm phong mộc , Thiếu âm quân hỏa , Thiếu dương tướng hỏa , Thái âm thấp thổ , Dương minh táo kim , Thái dương hàn thủy . Cính vì vậy , Hoàng Đế bát Thập Nhất Nạn Kinh có viết :
" Bắt đầu từ ngày Giáp Tý sau tiết đông chí đến 60 ngày về sau , là thời kì vượng của khí Thiếu Dương ; sang ngày Giáp Tý lần thứ 2 , đến 60 ngày về sau là thời kì vượng của khí Dương Minh ; sang ngày Giáp Tý lần thứ 3 , đến 60 ngày về sau là thời kì vượng của khí Thái Dương ; sang ngày Giáp Tý lần thứ 4 , đến 60 ngày về sau là thời kì vượng của khí Thái Âm ; sang ngày Giáp Tý lần thứ 5 , đến 60 ngày về sau là thời kì vượng của khí Thiếu Âm ; sang ngày Giáp Tý lần thứ 6 , đến 60 ngày về sau là thời kì vượng của khí Thiếu Âm ; Mỗi khí vượng 60 ngày , 6 lần 60 là 360 ngày thành 1 năm . Đại khái ngày thời vượng của khí Tam Âm , Tam Dương là như vậy . "
- Đây chính là cơ sở của tư tưởng về Lục Nghi . Nghĩa là lấy Lục Nghi để xét sự vận hành của Địa khí trong mối quan hệ với Thiên khí tức Tam Kì .
* Vấn đề thứ 2 : Vì sao Tam Kì , Lục nghi vận động trái ngược nhau .
- Ai trong chúng ta đều thấy khó hiểu khi ngày nào mặt trời cũng mọc ở phía đông và lặn xuống ở phía tây , không phân biệt là nửa đầu của năm hay nửa sau của năm . Nên không hình dung ra là điều rất bình thường . Cho nên , phải xét kĩ trong tự nhiên cái gì là Tam Kì , cái gì là Lục Nghi .
+ Tam kì như đã giải thích ở phần trên trong tự nhiên là Mặt trời , Mặt trăng và các sao cố định của Hoàng đạo .
+ Lục Nghi là địa khí là mặt đất , là nơi chúng ta đang đứng .
- Hãy so sánh vị trí xuất hiện của các sao Hoàng đạo ở phía đông trong nửa đầu của một năm chúng ta sẽ thấy . Nó bắt đầu từ mọc từ phía đông nam tức cung Tốn của Hậu Thiên Bát Quái và ngày càng lên cao dần và di chuyển về hướng cung Càn của Hậu Thiên Bát Quái ( Quan sát sự thay đổi của nó trong 2 tháng sẽ nhận ra ) . Đây cũng chính là nguyên nhân của Cửu tinh an thuận . Ở nửa sau của Năm , chúng ta lại tháy các sao của Hoàng đạo mọc ở phương Tây Bắc tức cung Khôn của Hậu Thiên Bát Quái , dần lên cao và di chuyển theo hướng cung Cấn của Hậu Thiên Bát Quái . Đây là nguyên nhân của Cửu Tinh an nghịch .
* Xin phép các bác để bài sau tiếp tục vậy . Em chào các bác !!!! Các bác thấy chỗ nào không hợp lí nhắc em để em làm rõ . Cảm ơn các bác !