tt
Thủy pháp:
Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước thì lại rất xấu nhưng Tọa suy gặp nước thì lại rất tốt. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm, bồn rửa mặt, hồ cá, hồ bơi, vòi nước, máy giặt... đều cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy vượng.
Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa vượng, suy như sông ngòi, hồ ao... có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng quan trọng đến những người cư ngụ trong căn nhà này.
Thủy pháp được dùng rất nhiều trong phái Huyền-không để làm vượng thêm các cung có Hướng đương vượng và cũng để làm vượng các cung có Tọa đương suy. Khi dùng Thủy-pháp phải chú ý tránh việc làm vượng hướng có thể làm suy tọa hay ngược lại. Phối hợp Ngũ-hành, Thu sơn xuất xát và Thủy-pháp nhiều khi có thể giúp làm giãm sự sui sẻo mà lại tăng thêm may mắn.
Ngoài ra, hình thể của sông ngòi theo phái Loan-đầu cũng rất quan trọng dù rằng thủy ở đúng phương làm cho vượng. Như dòng nước chảy vòng cung rồi bắn thẵng trở lại hay thuận thủy (còn gọi là tống thủy) tức là thủy khí đi từ gần nhà xa ra thì xấu cho tài lộc. Còn trường hợp nghịch thủy là nước chãy ngược tới thì rất tốt cho tiền tài.
Nghịch thủy hay Thuận thủy là căn cứ theo phương hướng của cửa chính và dòng nước hay con đường phía trước cửa chính. Trong vị thế cửa chính như đón hướng đi của dòng nước hay hướng đi của dòng xe cộ lưu chuyễn thì như là đón thủy khí vào nhà, tức là nghịch thủy. Trong vị thế cửa chính quay xuôi theo dòng nước hay chiều đi của xe cộ trước nhà thì coi như là thủy khí từ nhà theo dòng này mà thoát ra nên đây là tống thủy khí đi, là thuận thủy, là mất thủy khí.
Thủy Pháp Tường Sinh rất quan trọng khi thiết kế xây dựng nhà mới . Nó chính là việc điều tiết dòng Khí ra vào của căn nhà nhờ vào dòng nước cho phù hợp với Thiên Môn - Địa Hộ của căn nhà . Đây chính là hướng đường cấp , thoát khi tiến hành tính toán cụ thể khi thiết kế .
9/ Tam sát:
Tam sát là 3 sao có sát khí là Tuế-sát, Kiếp-sát và Tai-sát. Tam-sát có 3 loại là Niên Tam-sát, Nguyệt Tam-sát và Nhật Tam-sát hay nói cách khác là Tam-sát của năm, tháng và ngày.
Tam-sát là sát ở các cung sau đây:
1. Năm Thân, Tý, Thìn (hay tháng 7, 11, 3 ta) sát ở 3 phương Tỵ, Ngọ và Mùi tức phương Nam.
2. Năm Dần, Ngọ, Tuất (hay tháng 1, 5, 9 ta) sát ở 3 phương Hợi, Tý, Sửu tức phương Bắc.
3. Năm Tỵ, Dậu, Sửu (hay tháng 4, 8, 12 ta) sát ở 3 phương Dần, Mão, Thìn tức phương Ðông.
4. Năm Hợi, Mão, Mùi (hay thánh 10, 2, 6 ta) sát ở 3 phương Thân, Dậu, Tuất tức phương Tây.
Các nơi có Tam-sát đều kỵ động làm tăng năng lực sát. Vì vậy mà cấm động thổ, tu sửa... nhứt là khi Tam-sát ở cung Tọa vì khi đó khí mạnh của hướng xung chiếu thẳng làm phạm xung sát nên tai họa đến liền.