Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/4 đầuđầu 1234 cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 36
      1. #11
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nam mệnh:

        Quý Tị / Ất Sửu / Nhâm Thân / Mậu Thân

        Sát Ấn thành cách, Mậu thổ Thất Sát có Tị Lâm quan, tại nguyệt lệnh hữu căn, tựa hồ Sát Ấn lưỡng vượng. Thực ra không phải vậy, Tị Sửu hợp kim, Sửu là kim khố, hơn nữa xuất hiện hai chữ Thân, bát tự hầu hết là Ấn tinh, đại vận lại nghịch hành về đất thủy kim, bệnh của cách là Ấn nhiều hoàn hoàn toàn không có chế phục, mà mệnh có bệnh vô chế là bát tự phá cách, mệnh nét bét, bèo bọt. Cho nên mệnh chủ không thích học hành, là hạng người tham ăn nhác làm, không nghề nghiệp chính đáng. Vận Quý Hợi, năm Đinh Tị, dụng thần thổ tú tới Hợi, thủy đại thổ tán, Tỉ Kiếp lại xung khắc Tài tinh, Ất mộc tại Hợi đắc căn khắc Quan sát, mệnh chủ bị Tòa án xử 5 năm tù giam vì tội trộm cắp. Về sau trong Tuất vận, Quan sát hơi đắc lực, mệnh chủ phát tài hơn 100 nghìn tệ. Còn khi vừa vào vận Dậu Thân thì như bị đánh hiện nguyên hình, gia đình tan nát, xa lìa vợ con, bơ vơ một mình. Đây chính là "Tây bắc mạc tương phùng".
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #12
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Âm nhật triều dương cách
        Vô căn nguyệt kiến thìn
        Tây phương hoàn hữu quý
        Duy phạ hỏa lai xâm.


        (cách Âm nhật triều dương,
        vô căn sinh tháng thìn
        hoặc sinh phương tây thì quý,
        chỉ sợ hỏa xâm phạm)


        Đại Lục bình chú:

        Cách gọi là "Âm nhật Triều Dương" còn có tên là "Lục âm Triều Dương", chính là mệnh cách của sáu ngày Tân sinh vào giờ Mậu Tý. Khi bát tự vô Quan sát, lấy Quý thủy tàng trong Tý ám hợp Mậu thổ ẩn trong Tị, dẫn động Bính hỏa Quan tinh nên quý.

        Cổ ca:
        Tân nhật đơn đơn phùng Mậu tý
        Lục âm quý cách hỷ Triều dương
        Bính Đinh tị ngọ hưu điền thực
        Tuế vận luân phùng nhất lệ tường.

        (Tân nhật chỉ khi gặp Mậu Tý là quý cách Lục âm Triều dương, sợ quan tinh Bính Đinh tị ngọ và điền thực, gặp tuế vận sẽ rõ ngay)

        Cách cục này tốt nhất sinh tại tháng Thân Dậu, nếu nhật nguyên vô căn mà sinh tại tháng Thìn cũng được. Bát tự tuế vận chỉ sợ Quan sát, hư không sợ điền thực bởi vì mệnh cục không có Quan sát, tuế vận thấy Quan sát thì điền thực, liền phá cách, nên cho rằng "duy phạ hỏa lai xâm".


        Ví dụ:

        Mệnh của Châu Chi Bình (19):

        Mậu Tý / Tân Dậu / Tân Dậu / Mậu Tý

        Mệnh vô Tài, vô Quan thì không phải mệnh phú quý, phải không? Không phải vậy, Tân nhật sinh giờ Mậu Tý cấu thành Lục âm Triều dương cách, Tý thủy có thể ám hợp Bính hỏa Quan tinh ẩn trong Tị mà đắc quý, đại vận phương Bắc lại không thấy Quan sát phá cách, cho nên mệnh chủ văn chương siêu quần, xuất thân vốn là Tiến sĩ, làm quan đến chức Bố chánh sứ tỉnh Giang Tây.


        Một nam mệnh:

        Canh Ngọ / Giáp Thân / Tân Dậu / Mậu Tý

        Bát tự có Ngọ hỏa Sát tinh, phá cách. Cho nên mệnh chủ là một lão nông nghèo khổ.


        --
        Chú thích:

        (19) Châu Chi Bình, tự Hạc Cao, đậu Tiến sĩ năm Gia Tĩnh thứ 38, triều đại nhà Minh (1559). Được bổ nhiệm làm Tri huyện Lật Thủy (Nam Kinh), sau thành Tri phủ Cát An (Hoa Liên), Có công dẹp loạn ở phủ Cát An, đời làm quan của Châu Chi Bình rất hanh thông, ông đảm nhiệm rất nhiều chức vị, công việc khác nhau như Bố chánh sứ, Lang Trung chuyên coi việc khảo thí ở Bộ Lại, Nam Kinh…
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #13
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Ất mộc sinh cư Dậu
        Mạc phùng toàn tị sửu
        Phú quý khảm ly cung
        Bần cùng thân dậu thủ.


        (Ất mộc sinh tháng dậu,
        đừng gặp đủ tị sửu,
        sẽ phú quý khi ở Khảm Ly,
        còn nghèo khó khi đóng thân dậu)

        Đại Lục bình chú:

        Ất mộc nếu sinh tại tháng Dậu là Thất Sát đương lệnh, lúc này chỉ sợ hội đủ ba chữ Tị Dậu Sửu, như vậy Thất Sát quá nhiều và quá mạnh, nếu không thể cấu thành Tòng sát cách thì mệnh không tốt. Muốn phú quý phải đi vận thủy hoặc hỏa, nghĩa là lấy Ấn hóa Sát, hoặc Thực Thương chế Sát. Bởi vì quẻ Khảm là bắc phương thủy, quẻ Ly là nam phương hỏa, cho nên mới nói "phú quý Khảm Ly cung". Nếu như Sát trọng mà không thể tòng Sát, lại hành vận Thân Dậu Sát vượng, như vậy không bần cũng yểu.

        Ví dụ:

        Mệnh của Hứa Thế Anh (20):

        Quý Dậu / Tân Dậu / Ất Sửu / Tân Tị

        Địa chi Tị Dậu Sửu tam hợp Sát cục, một niên can Quý thủy nhỏ nhoi nan hóa bè lũ Sát tinh này, nên cách cục Tòng Sát. Nhưng nếu tuế vận phù trợ Quý thủy thì có thể thành cách Sát Ấn tương sinh. Mậu vận khử Quý, năm Đinh Dậu mệnh chủ được đề bạt tiến cử làm quan. Đinh Tị vận, năm Tân Hợi xung khử Tị hỏa, mệnh chủ một bước vọt lên làm Bố chánh sứ tỉnh Sơn Tây. Năm kế Nhâm Tý, lưỡng Ấn hóa Sát, thành cách Sát Ấn tương sinh, mệnh chủ nhảy vọt lần nữa thành Đại Lý viện trưởng (Chánh tòa thượng thẩm), Bộ trưởng Tư pháp. Điều này chính là mô tả chân thực cho câu "phú quý khảm ly cung".


        Một nam mệnh:

        Ất Tị / Kỷ Sửu / Ất Sửu / Mậu Dần

        Tị Sửu hợp kim, Sát đa Sát trọng, nhưng nhật nguyên dựa vào Dần mộc gốc mạnh để không tòng Sát, kết quả thành ra một mệnh nát vụn không ăn khớp với nhau. Thuở nhỏ hành bắc phương Ấn vận, mệnh chủ không muốn học hành, từ nhỏ đã giao du với bọn trộm cắp, lớn lên kiếm sống bằng trộm cắp. Ất Dậu vận tam hợp Sát cục, 35 tuổi gặp năm Canh Thìn, Quan sát lộ ra công thân, mệnh chủ bị vợ dùng dao chém 4 nhát vào đầu, máu me bắn đầy mặt đất, thập tử nhất sanh. Năm kế tiếp Tân Tị, tam hợp Sát cục công Thân lần thứ hai, mệnh chủ đầu tiên là tang mẹ, tiếp theo vì ăn cắp nên bị bỏ tù, bị quản giáo trại giam đánh gãy ba xương sườn, nằm viện mất mấy tháng. Năm 39 tuổi Giáp Thân, Dần Tị Thân tam hình, lại vì lập băng ăn cắp mà bị xử tù. Đây là lời chú giải thực tế cho câu "bần cùng thân dậu thủ".
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #14
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Hữu sát chỉ luận Sát
        Vô sát phương luận Dụng
        Chỉ yếu khử Sát tinh
        Bất phạ đề cương trọng.


        Đại Lục bình chú:

        Nói đến Thất Sát, đoạn trước dù nói rất đúng về nguyệt lệnh Sát, nhưng Thất Sát không đóng ở nguyệt lệnh thì cũng là cái cần luận đến đầu tiên. Vì sao vậy? Bởi vì Sát là cái tấn công thân, nếu trước không thu xếp ổn thỏa thì nó sẽ uy hiếp sinh mệnh của mình. Như có một con hổ lớn luôn bên người bạn, bạn còn nói đến chữ danh, chữ lợi gì nữa ư? Xem Sát tức là xem bản thân có an toàn hay không, mà an toàn là nhu cầu tất yếu của mọi sinh vật, cho nên luận mệnh trước tiên phải luận Thất Sát. Hơn nữa, Sát còn đại biểu cho danh tiếng, quyền lợi, địa vị, cái này cũng là thứ không thể thiếu đối với mỗi người, cho nên cần luận nó trước tiên khi luận mệnh. Thất Sát thì vậy, còn Chính quan thì sao? Thực ra cũng giống nhau cả, vì Thất sát gọi là "Thiên quan", một loại Quan tinh thôi.

        Cho nên "Uyên Hải Tử Bình", thiên "Bảo pháp 2" nói rằng: "Thông thường lấy Sát Quan bàn cách cục". "Tam Mệnh Thông Hội", chương Luận Chính quan ghi rằng: "Chọn Quan tinh không cần cố chấp vào thần ở nguyệt lệnh hoặc nguyệt can, hoặc ở thiên can của niên, nhật, thời, chỉ một chỗ có mà không bị tổn thương thì đều có thể thủ dụng". Bởi vậy, luận mệnh trước tiên cần luận Sát Quan. Nếu như Sát Quan và nguyệt lệnh thành cách, sẽ luận Sát Quan cách này đầu tiên. Nếu như Sát Quan độc lập thành cách, thì có thể bỏ nguyệt lệnh Dụng thần không dùng mà chỉ luận Sát Quan cách. Nếu như Sát Quan bất thành cách, thì mới trở lại luận nguyệt lệnh Dụng thần, đây là ý của câu "hữu Sát chỉ luận Sát, vô Sát phương luận dụng". Chỉ cần Sát hữu chế, Quan thành cách, sẽ không ngại nguyệt lệnh Dụng thần vượng cường mà lại không thành cách cục, nên cho rằng: "chỉ cần khử Sát tinh, không sợ đề cương mạnh".


        Ví dụ:

        Một nam mệnh:

        Bính Tuất / Tân Sửu / Đinh Mùi / Quý Mão

        Nguyệt lệnh là tạp khí Chánh Tài cách (Tâm kim tàng trong sửu), nhưng Tài sinh Thất Sát mà phá cách. Cũng may Quý thủy tọa Mão là có Ấn hóa Sát, có thể cấu thành Sát Ấn tương sinh cách. Cái này đã thành "không sợ đề cương trọng", cho nên mệnh chủ học hành suông sẻ, công danh làm đến chức trưởng phòng Tài chính của một tỉnh.


        Một nam mệnh khác:

        Quý Mão / Tân Dậu / Bính Dần / Quý Tị

        Cũng là một bát tự dụng Tài bị Quan tinh phá cách, nhưng niên chi mão mộc Ấn tinh bị nguyệt lệnh xung khắc, nhật chi dần mộc Ấn tinh không thể trực tiếp hóa Quan, đều không thể cấu thành Sát Quan cách. Quan cách đã không thành, Tài cách cũng bị phá, liền biến thành một mệnh nát bét không ăn nhập vào đâu. Cho nên mệnh chủ xuất thân nông dân, trồng rau sinh sống, cả đời cực khổ, cũng khó mà thoát nghèo làm giàu, vì Quan sát tinh đại biểu cho con cháu bị phá cách, cho nên con bị di chứng sau viêm màng não, ngu ngơ ngu ngác, cái bệnh của cách cục mệnh chủ đã biến thành tâm bệnh vĩnh viễn cũng không thể dứt được.


        Một nữ mệnh:

        Bính Thìn / Nhâm Thìn / Đinh Tị / Quý Mão

        Mệnh này nếu luận theo "Cân bằng Dụng thần" thì thuộc về một mệnh tốt Thân vượng Quan vượng, bất kể như thế nào cũng không nhìn ra đây là một mệnh bèo bọt. Nhưng lấy luận theo Tử Bình cách cục để xem thì không phải vậy. Mệnh này Quan sát cùng thấu, Thất Sát tuy có Mão mộc hóa để sinh Thân, nhưng Quan tinh nguyệt lệnh không có Ấn hóa, Ất mộc trong thìn không thấu thì hóa lực rất nhỏ, nên khó thành cách cục. Như thế thì học hành, sự nghiệp nhất định vô thành, mà khi gặp Tuế vận sinh vượng Sát Quan còn có thể gặp tai họa nặng, thuộc dạng số mệnh bất bần tức yểu. Trên thực tế, mệnh chủ sau khi học hết trung học cơ sở thì lang bạt giang hồ, không có nghề nghiệp ổn định. Canh Dần vận, Kỷ Mão niên (1999), Kỷ thổ Thương quan (Thực đa biến thành Thương) lộ ra khắc Quan, vợ chồng mệnh chủ bị bỏ tù vì tội tổ chức mại dâm. Hai năm sau tức năm Tân Tị, bị tuyên án tử hình, kết thúc tính mạng ở tuổi đôi mươi. Đây là lý do cổ nhân cho rằng cần lấy cách cục để luận mệnh, đồng thời nhấn mạnh "phàm cách dĩ Sát Quan luận chi" (thông thường lấy Sát, Quan để luận cách).



        ( HẾT PHẦN ĐẦU )
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #15
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Giáp Ất nhược phùng Thân,
        Sát Ấn ám tương sinh,
        mộc vượng kim diệc vượng,
        quan bào tất quải thân.

        (Giáp Ất gặp Thân,
        tức Sát lộ Ấn tàng tương sinh
        mộc vượng và kim cũng vượng
        mũ mảo áo bào quàng trên người.)


        Đại Lục bình chú:

        Giáp Ất nhật nguyên sinh tại tháng Thân, nguyệt lệnh hàm chứa Nhâm thủy Ấn tinh và Canh kim Sát tinh, cứ cho là Sát Ấn này không thấu can, và Ấn tinh tựa hồ không sinh trực tiếp cho thân, nhưng vẫn có thể cấu thành quý cách Sát Ấn tương sinh. Vì sao vậy? Bởi vì nguyệt lệnh là đất Thai Tức của nhật nguyên, đại biểu “đồ nhà”, đồ trong nhà của mình tự nhiên có thể tùy lúc lấy ra dùng, bất tất phải tìm chổ khác. Cho nên, Sát Ấn trong nguyệt lệnh có thể chuyển hóa lẫn nhau cùng sinh nhật nguyên. Nguyên nhân do Sát Ấn không thấu, mới cho rằng "ám tương sinh".

        Loại cách cục Sát Ấn ám tương sinh này cần Tài tinh sinh Quan Sát, mà lại không được nhiều Tài tinh khiến phá mất Ấn. Như Giáp Ất sinh Thân nguyệt, nếu như thổ khắp trụ, không có mộc sơ thổ (làm tơi mùn đất), thì thổ nhiều chôn kim, cho nên còn cần phải "mộc vượng", ý ở đây chính là lấy mộc sơ thổ, bảo hộ Quan Ấn. Nếu như thổ kim mộc đều cường, thì thuộc quý mệnh "quan bào tất quải thân". Cái hay vi diệu của cách này là ở chữ "ám", nếu như Ấn tinh thấu lộ, Tài đa trái lại phải lo ngại tham tài hoại Ấn.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #16
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Mệnh Âu Dương Tu: Đinh Mùi / Mậu Thân / Ất Mão / Mậu Dần

        Mệnh Chu Gia Mô: Đinh Mùi / Mậu Thân / Giáp Tuất / Ất Sửu

        Hai người đều thuộc cách cục này. Tỉ Kiếp ở mệnh Âu Dương Tu hơi mạnh một chút, cho nên làm quan đến Tể tướng, mà suốt đời còn là lãnh tụ của giới văn học, ảnh hưởng rất lớn đến thế hệ sau. Chu mệnh mặc dù trong Mùi có mộc, hai thổ Tuất Sửu bên trên có Giáp Ất mộc, nhưng không bằng mộc đa mộc cường ở mệnh Âu Dương Tu, nên làm quan chỉ đến Lễ bộ Thượng thư.


        Nhậm Thiết Tiều khi chú thích "Trích Thiên Tủy" đưa ra một mệnh:

        Ất Sửu / Giáp Thân / Giáp Thìn / Kỷ Tị

        Cũng thuộc cách cục Sát Ấn ám tương sinh, mệnh chủ "đăng Hoàng Giáp, yến Quỳnh Lâm, nhập Hàn Uyển, sĩ Hoàng Đường", đại quý xuất chúng. Có thể Nhậm thị luận thành Giáp Kỷ hóa thổ cách, giả sử đúng như thế, bát tự Thân kim đương lệnh, lại có Tị Sửu củng kim, tiết đi thổ khí, mệnh chủ đi hướng Đông mộc vận thì đoán không có cái quý hiển này.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #17
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Một nữ mệnh:

        Đinh Mùi / Mậu Thân / Ất Sửu / Kỷ Mão

        Bát tự ngang ngửa mệnh Âu Dương Tu và Chu Gia Mô, đáng tiếc đại vận thuận hành, Tân Hợi vận Bính Tý niên Thân Tý hợp thủy, hóa Quan làm Ấn, nhưng Ấn lại bị Sửu thổ, Mão mộc khắc hợp, đây là tổ hợp phá cách tiên Ấn hậu Tài biến ra nhục nhã, thực tế mệnh chủ vì mắc tội cố ý gây thương tích bị Tòa án xử phạt 15 năm tù. Sau khi ra tù cách đây vài năm, làm thuê tứ xứ kiếm sống.


        Nam mệnh 1:
        Đinh Hợi / Mậu Thân / Ất Sửu / Nhâm Ngọ

        Mặc dù cũng thuộc Giáp Ất sinh tại Thân nguyệt, nhưng Ấn tinh thấu lộ, không còn là "Sát Ấn ám tương sinh" nữa, đại vận phương nam thì xung khắc Ấn tinh, đi về phía đông thì Ấn lâm tuyệt địa, sách nói rằng: "xung Ấn tắc thân mang tâm loạn" ( xung Ấn thì thân tâm bận bịu rối loạn ) , "Ấn hành tử tuyệt tịnh tài địa, vô cứu chung vi tuyền hạ nhân" (Ấn hành vận đất tử tuyệt hoặc đất Tài tinh thì vô cứu, cuối cùng cũng xuống suối vàng). Cho nên mệnh chủ 6 tuổi gặp năm Quý Tị xung Ấn, mắc bệnh bại liệt, hơi lớn chút thì chống gậy bước chân vào giang hồ, nhiều cay đắng gian nan, về già vô danh vô lợi, không vợ không con.


        Nam mệnh 2:
        Mậu Tuất / Canh Thân / Giáp Tuất / Mậu Thìn

        Bởi Sát tinh lộ ra, không thể luận theo Sát Ấn ám tương sinh, mà cần luận theo Giả tòng Sát cách, đại vận Bắc phương, Ấn tinh thấu thanh, nhưng gặp Tài tinh trong mệnh hồi khắc, cộng thêm Sát đến tử địa, phá hỏng Tòng Sát cách, cũng không thành Sát Ấn cách, cách cách bất nhập, cho nên mệnh chủ tuổi thơ thì mất cha, học hành vô thành, bần khốn đa tai, đến nay vẫn độc thân.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #18
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Ly hỏa phạ trùng phùng,
        Bắc phương phản hữu công,
        Tuy nhiên nghi kiến mộc,
        Vưu khủng đối đề xung.


        Đại Lục bình chú:

        Giáp Ất nhật nguyên sinh tại tháng Thân, hỷ Tài sinh Quan, không nên có Thực Thương nhiều khắc Quan. Nếu như Thực Thương nhiều thì hỷ vận hành phương Bắc, lấy Ấn chế Thương hộ Quan. Mặc dù nói cách cục này mừng gặp được Tỉ Kiếp, vì Quan Sát đương lệnh không sợ Tỉ Kiếp, nhưng vẫn sợ xung khắc đề cương, đề cương hỏng thì phá cách, phá cách ắt không phải mệnh tốt.

        Đoạn này nói "Ly hỏa sợ trùng phùng", hỏa là Thực Thương, Quan cách thấy tức phá cách, điều này dễ dàng lý giải. Nhưng chữ "trùng" là ý gì ? Chẳng lẽ còn cần phải có vài Thực Thương mới có thể khắc phá được một Quan tinh nguyệt lệnh? Sách Tử Bình không phải đã nói Quan cách sợ xung, sợ hợp, sợ hình, sợ nhiều, sợ hỗn tạp, cùng với kị thấy Thương quan đấy sao? Không phải đã nói Thực thần nhất vị tọa chổ vững chắc (hữu căn, đắc lộc,…) cũng tổn hại Quan cách đó sao? Vì sao chổ này còn nói phải trùng kiến Thực Thương mới có thể phá nổi Quan cách? Tra duyệt sách Tử Bình, thấy "Luận chư cách hữu cứu quyết" cho rằng: "Thân hỷ viêm thần phạ thổ tinh" (chi Thân hỷ khí hỏa, nhưng sợ khí thổ), thiệt không dzậy ! hóa ra tháng Thân có tính chất đặc thù, Thân kim hàm thủy, hoặc có thể ví Thân kim có underwear chống lửa, thông thường hỏa bất túc (yếu, không đủ mạnh) thì khắc được, còn nếu như thổ nhiều thì ngược lại Nhâm thủy bên trong bị uy hiếp. Đương nhiên, hỏa nhiều quá thì Thân kim cũng ngại, mặc áo chống lửa vẫn sợ bị nhét vào trong lò luyện.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #19
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nam mệnh 1:

        Giáp Ngọ / Nhâm Thân / Ất Tị / Quý Mùi

        Cách là Ấn nhờ Quan sinh, nhưng địa chi Tị Ngọ Mùi hội hỏa cục có phá Quan tinh không?

        Không phá !

        - Một là, vì can hỏa không thấu ra, không có "đại diện pháp nhân" thì chia rẽ mạnh ai nấy làm, Tị hỏa này vốn là "điệp viên hai mang", thấy kim thủy đương quyền sẽ đảo hướng Tị Thân hợp thủy, còn thấy Ngọ Mùi cũng có thể nhập cùng thế thổ;

        - Hai là, đại vận Tây bắc, Ấn tinh có thể khử Thương cứu Quan. Cho nên, mệnh chủ học hành suông sẻ, nhiều năm đảm nhiệm Chánh văn phòng tòa án cấp cao, Chánh thanh tra huyện, Chánh án tòa, Chủ tịch huyện. Mãi đến vận Mậu Dần xung đề cương liền bị Trung Cộng xử tử trong cuộc thanh trừng phản cách mạng. Chính là ứng nghiệm của hai câu "Bắc phương phản hữu công" và "Vưu khủng đối đề xung".
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #20
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nam mệnh 2:

        Ất Tị / Giáp Thân / Ất Tị / Kỷ Mão

        Thân kim Quan tinh đương lệnh, hai Tị hỏa tuy không thấu can, nhưng không có thổ hóa tiết mà còn được mộc sinh phù, Tị hỏa này chính là kẻ hai mặt, gió chiều nào theo chiều đó, tuế vận mà hỏa vượng thì là hỏa, còn kim vượng liền chuyển theo kim. Mệnh chủ thuở nhỏ hành vận Ngọ hỏa, học hành bất toại, không có sự nghiệp ổn định. Mãi đến Tân vận, vào năm Canh Ngọ 25 tuổi mới vào làm một cảnh sát tép riu ở cơ quan quản lý hộ tịch quê nhà. Ở tại Tị vận thăng làm phó trưởng đồn, rồi Trưởng một phòng ở công an quận. Có thể thấy được Tân Tị vận, Tân kim thấu can, kim vượng lên, Tị hỏa đại thể hướng về kim, cho nên gặp năm Ngọ hỏa không lo trái lại còn khoái chí, đây đúng là ý của "phản hỷ viêm thần". Canh Thìn vận kim cũng vượng, gặp năm Nhâm Ngọ mệnh chủ thăng làm Phó trưởng công an quận. Thìn vận, Thân Thìn hợp thủy, 40 tuổi là năm Ất Dậu, Ất Canh hợp, Thìn Dậu hợp, Tị Dậu hợp, Quan sát trùng trùng Ấn không thể hóa, Thực không thể chế, đại phá cách cục, mệnh chủ đang muốn thăng trưởng công an quận nhưng vì nữ sắc chết uổng mệnh.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 2/4 đầuđầu 1234 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 3
        Bài mới: 10-08-12, 09:09

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •