Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối
    kết quả từ 21 tới 30 trên 36
      1. #21
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Bát nguyệt Quan tinh vượng
        Giáp phùng thu khí thâm
        Tài thần kiêm hữu trợ
        Danh lợi tự nhiên hanh.


        Đại Lục bình chú:

        Giáp mộc sinh tại tháng tám, Dậu kim Quan tinh đương lệnh, đắc thời thì vượng, mặc dù vượng cũng không được khắc, ngược lại cần Tài sinh. Điều này thuyết cân bằng luận không thể giải thích được, vì sao? Bởi vì chỉ cần Quan tinh không nhiều, không có Sát hỗn cục, vô xung vô hình, vô Thực Thương khắc hợp, lại có Ấn hóa Quan sinh Thân thì cấu thành cách cục, đó chính là mệnh số tốt đẹp theo lời Nguyệt Đàm Phú: "Quan vượng Tài diệc vượng, phú quý áp hương đảng". Vì vậy, Bảo Pháp ghi: "Phùng Quan khán Tài", có Quan mà vô Tài Ấn thì gọi là "cô Quan vô phụ", phá cách; còn hữu Ấn vô Tài mặc dù thành cách nhưng quý khí không lớn, ít cơ may phát tài. Như một viên quan không có quyền quyết định chi tiêu ngân khố, chỉ là một hư quan không có tiếng nói.

        Mệnh của học giả Ngô Mai (*):

        Giáp Thân / Quý Dậu / Giáp Tý / Canh Ngọ

        Mặc dù Quan Sát vượng thành cách, nhưng bát tự vô Tài, đại vận lại là Bắc phương thủy địa, Tài tinh vẫn vô khí, Quan vô Tài sinh, cách cục không cao. Mệnh chủ một bụng thi thư, bác học đa tài, nhưng đi thi Cử nhân ba lần đều không đậu, buộc phải làm trợ tá cho người ta. Sau chán nản, lần lượt đến Đại học Đông nam, Đại học Trung Sơn, Đại học Quang Hoa, Đại học Kim Lăng giảng dạy. Mặc dù Sát trọng thì danh tiếng lớn, ngay cả các nhân vật tên tuổi nổi danh khắp thiên hạ như Chu Tự Thanh (1898-1948), Điền Hán (1898-1968), Trịnh Chấn Đạc, Tề Yến Minh, Mai Lan Phương, Du Chấn Phi, v.v... đều là tiểu đồ đệ của ông, nhưng bản thân ông bởi vì bát tự không có Tài để mà hoàn thành ước nguyện.

        Chú thích:

        (*) nhà biên kịch, nhà thơ, nhà văn, nhà giáo dục, nhà bình luận và sáng tác hí kịch nổi tiếng Trung Quốc.


        Một nam mệnh:

        Quý Tị / Tân Dậu / Giáp Tý / Giáp Tuất
        Canh thân - Kỷ mùi - Mậu ngọ - Đinh tị - Bính thìn - Ất mão

        Quan Ấn cách, tiếc rằng Tuất Tài không thể trực tiếp sinh Quan tinh, quý khí giảm mạnh. Người viết đã từng đoán cho hai người cùng bát tự này, một người là trạm trưởng Trạm phòng dịch huyện, người kia là bí thư một cơ quan hành chánh, đều là quan lại chức vụ nhỏ, không phát về tài.


        Còn mệnh Ông Phương Cương:

        Quý Sửu / Tân Dậu / Giáp Tý / Giáp Tuất
        Canh thân - Kỷ mùi - Mậu ngọ - Đinh tị - Bính thìn - Ất mão

        Bát tự này khác hai bát tự trên chỉ một chữ, bảy chữ còn lại và đại vận đều giống nhau. Song, Ông Phương Cương làm quan đến chức Nội các Đại học sĩ, đại quan nhất phẩm, khác biệt do một chữ Sửu này. Sửu là thấp thổ Tài tinh, hành vận nam phương thì có khả năng hối hỏa sinh kim, vả lại do hàm kim nên hành vận đông phương mộc cũng không sợ mộc khắc, vì lẽ đó cái quý của mệnh Quý Sửu vượt xa hai mệnh Quý Tị.


        Mệnh của Hoàng Dĩ Lâm:

        Đinh Tị / Kỷ Dậu / Giáp Tý / Mậu Thìn

        So với mệnh Quý Tị và Quý Sửu sai biệt không nhiều, khác nhau chỉ là nhiều Tài hơn một chút so với mệnh Quý Tị, nhưng lại không bằng mệnh Quý Sửu vốn có sẳn chữ Sửu tác dụng to lớn, cho nên cũng là mệnh quý, làm đến Tri phủ Vũ Xương (thuộc tỉnh Vũ Hán ngày nay), đúng là cái quý của mệnh thấp hơn mệnh Quý Sửu mà đứng trên mệnh Quý Tị.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #22
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Khúc trực sinh xuân nguyệt,
        Canh Tân can thượng phùng,
        Nam Ly suy phú quý,
        Khảm địa khước vi hung.


        Hoàng Đại Lục bình chú:

        Sách "Mệnh học tân lương", phần Ngũ hành vượng suy ca ghi rằng:

        "Giáp Ất nhật can hỷ sinh xuân,
        mộc tại xuân sinh chi diệp vinh.
        Như ngộ Nhâm Quý thân vô dụng,
        cánh ngộ Canh Tân lợi danh thành...

        …mộc cường bất phạ kim đao tiễn,
        Bính Đinh hỗn tạp đa bần tiện."

        Ý nghĩa tức là Giáp Ất mộc sinh tại mùa xuân, Tỉ Kiếp hung thần đương quyền, phải được Quan Sát khắc chế để hình thành Nguyệt Kiếp dụng Quan cách, như thế thì tất nhiên danh thành lợi tựu (danh tiếng, lợi lộc đều có). Nhưng nếu đồng thời có cả Canh Tân Quan Sát lại có Bính Đinh Thực Thương chế Quan Sát, hoặc Nhâm Quý Ấn tinh thấu can hóa tiết Quan Sát, vậy là phá hỏng cách Nguyệt Kiếp dụng Quan, cho nên mới nói: "Bính Đinh hỗn tạp đa bần tiện", "như ngộ Nhâm Quý Thân vô dụng". Nếu như Thực Ấn không thấu, cấu thành Nguyệt Kiếp dụng Quan cách, thì hỷ mệnh cục có Tài Thương Quan, ở đây tức là đoạn trước đã nói: "nhất kiến Tài Quan, tự nhiên phát phúc". Không chỉ có như thế, đại vận đi nam phương thì Tài đáo vượng địa, Tài vượng có khả năng tiết Tỉ Kiếp mà sinh Quan Sát, cho nên viết: "Nam Ly suy phú quý". Sợ là sợ hành đại vận bắc phương, Tài vào tuyệt địa, kim trầm thủy hương, Tỉ Kiếp ngang ngược càn rỡ, nên nói "Khảm địa khước vi hung". Đương nhiên, nếu như Quan Sát chế Kiếp quá nặng, hành vận bắc phương sinh phù Tỉ Kiếp đang nhỏ nhoi cũng là việc tốt, tóm lại cần phải khử bệnh của cách.

        Nếu như không có Quan Sát chế Kiếp, vậy thì thấu Nhâm Quý Ấn tinh thì có thể cấu thành chuyên vượng cách, hoặc là thấu Bính Đinh Thực Thương cũng có thể cấu thành Thực Thương tiết tú cách, cả hai đều thuộc cách cục văn tú (nhân tài văn học, nghệ thuật).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #23
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Mệnh Dận Tự:

        Tân Dậu / Tân Mão / Giáp Ngọ / Tân Mùi
        Canh dần - Kỷ sửu - Mậu tý - Đinh hợi

        Con trai thứ tám của hoàng đế Khang Hy, xưng là Bát Gia. Tứ trụ này là Dương Nhận dụng Quan cách. Kỷ Sửu vận 27 tuổi, vào Mậu Tý niên, Tài vượng sinh Quan, mệnh chủ tuân mệnh làm Đại nội tổng quản. Sau xoay chuyển nhanh chóng bởi Tý Sửu hợp, Dậu Sửu hợp và xung Dương Nhận, mệnh chủ bị Khang Hy trách mắng tính cách nhu nhược gian dối, vọng tưởng đại chí, bãi trừ thân phận bối lặc (dân tộc Mãn, họ của vua nhà Thanh), giáng xuống làm tông thất không dùng đến. Thẳng đến Đinh vận 41 tuổi vào năm Tân Sửu, có Đinh hỏa kiềm chế Quan Sát đang quá mạnh, mới được tin tưởng giao việc lại lần nữa, phong làm Thân vương, Thủ tướng sự vụ kiêm đảm nhiệm Thượng thư Phan viện (đối ngoại). Năm 42 tuổi nhập Hợi vận, Dương Nhận đắc sinh phù, Quan tinh đáo tử địa, nan chế Kiếp Nhận, mệnh chủ tùy tiện làm càn, nhiều lần bị Ung Chính trách mắng, hai lần bị giáng chức. Cuối cùng vào 45 tuổi năm Ất Tị bị Ung Chính dùng Tứ thập điều đại tội (qui định bốn mươi tội lớn) cho bắt giam lại, cắt bỏ tư cách con vua, tước bỏ tông tịch, cải tên thành "A kỳ lạp" (con heo thúi), tháng chín cùng năm bệnh chết trong ngục. Thật sự là "Khảm địa khước vi hung".



        Mệnh Trình Tiềm (1883-1968):

        Quý Mùi / Ất Mão / Giáp Tuất / Tân Mùi

        Dương Nhận dụng Quan cách. Hay ở chổ Quan tinh đắc gốc Nhận tại nhật chi thông qua Mão Tuất hợp mà chế nguyệt Nhận một cách chặt chẽ, thành cách và thuộc cao cách. Quý thủy Ấn thấu vô căn, lại có Tỉ Kiếp hóa tiết, thành ra cách không tổn hại gì. Càng đẹp hơn, Địa chi đa thổ, tuy hành thủy vận cũng không thể trực tiếp tiết hao Quan tinh, nên mệnh chủ vào Nhâm Tý vận 34 tuổi Bính Thìn niên đảm nhiệm Chủ tịch tỉnh Hồ Nam. Năm sau Đinh Tị thấu Thương quan, thua trận phải bỏ chức. Năm 38 tuổi Canh Thân đảm nhiệm Thứ trưởng lục quân trong chính phủ Quảng Châu (Chính phủ Tôn Trung Sơn). Tân Hợi vận 46 tuổi Mậu Thìn niên đảm nhiệm Chủ tịch tỉnh Hồ Nam lần nữa.

        Chú thích:

        Wikipedia

        Trình Tiềm (1883-1968), một vị tướng phục vụ hai triều đại Trung Hoa. Sau khi hoàn tất việc tại một trường tư thục và thi đỗ vào năm 1889, Trình đến Nhạc Lộc thư viện tại Trường Sa. Tại đây ông bắt đầu tìm hiểu được tình hình chính trị đương thời và quyết định bỏ văn học võ. Năm 1903, khi 21 tuổi, ông được nhận vào trường quân sự Hồ Nam. Không lâu sau, năm 1904, ông du học Nhật Bản, rồi gặp Hoàng Hưng và Tống Giáo Nhân, các lãnh tụ Quốc dân đảng tương lai, và trở nên hứng thú với lý tưởng của họ; do đó năm 1905, Trình gia nhập Đồng minh hội của Tôn Dật Tiên, quyết lật đổ nhà Thanh và hiện đại hóa nước Trung Hoa.

        Tốt nghiệp năm 1908, Trình trở về Trung Hoa, được giao nhiệm vụ huấn luyện Tân quân tại Tứ Xuyên. Sau khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, Trình tham gia Khởi nghĩa Vũ Xương; rồi tham gia Trận Trường Sa ngay sau đó.

        Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Trình được bổ nhiệm làm Đốc quân Hồ Nam. Tuy nhiên, khi Viên Thế Khải âm mưu thao túng Dân Quốc, Trình định khởi nghĩa nhưng thất bại, phải chạy sang Nhật Bản, rồi gia nhập Quốc dân đảng và vào học tại Đại học Waseda.

        Không lâu sau, Viên Thế Khải khôi phục đế chế, dẫn đến Chiến tranh Hộ quốc; Trình trở về Hồ Nam tham gia lực lượng khởi nghĩa của Thái Ngạc. Trong phong trào Hộ pháp, ông được bổ nhiệm làm tư lệnh quân đội Trường Sa, rồi Thứ trưởng Chiến tranh trong Chính phủ Quảng Châu của Tôn Dật Tiên. Ông được cử huấn luyện quân đội tại Quảng Châu, rồi tham gia Chiến tranh Bắc phạt. Từ năm 1925-1927, ông là Tư lệnh Quân đoàn 6, và trong một thời gian ngắn giữ chức Chủ tịch Chính phủ tỉnh Hồ Nam năm 1928. Năm 1926, ông cũng được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân đảng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #24
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Một nam mệnh:

        THỰC QUAN THỰC
        Bính Ngọ / Tân Mão / Giáp Ngọ / Bính Dần

        Vốn thuộc Dương Nhận dụng Quan cách, chỉ vì Quan tinh không có gốc, không có nguồn, Thực Thương tịnh thấu, khử Quan mà dụng Thực. Đại vận nam phương, Thực Thương khử sạch Quan tinh, mệnh chủ làm làm đến chức Phó thị trưởng (Phó chủ tịch UBND thành phố). Ứng với câu "nam Ly suy phú quý".

        Một nữ mệnh:

        THỰC QUAN ẤN
        Bính Tuất / Tân Mão / Giáp Thân / Quý Dậu
        Canh dần - Kỷ sửu - Mậu tý - Đinh hợi

        Trụ này vốn thuộc Dương Nhận dụng Quan cách, nhưng bởi vì Ấn Thực tịnh thấu, cách cục không thanh thuần, vận hành khảm địa (khảm thủy), Nhận trọng nan chế, mệnh chủ sự nghiệp, học hành đều không thành. Năm 11 tuổi thời liền mắc bệnh tâm thần, lúc tỉnh lúc điên. Đinh Hợi vận, năm 41 tuổi (Đinh Mão), Hợi Mão hợp Nhận, xung khắc Dậu kim và Quý thủy, mệnh chủ lần thứ hai tái phát bệnh tâm thần, năm kế Mậu Thìn hợp mất Quý thủy, uống nhầm thuốc trừ sâu mà chết. Đây là loại mệnh thuộc về "Bính Đinh hỗn tạp đa bần tiện".

        Mệnh của Hoàng Quang Thăng:

        THƯƠNG QUAN THỰC
        Bính Dần / Canh Dần / Ất Dậu / Đinh Sửu

        Nguyệt thấu ra Thực Thương, tức lấy Thực Thương này làm dụng, thành cách Thực Thương chế Sát, làm quan đến chức Hình bộ Thượng thư. Mệnh này vì sao "Bính Đinh hỗn tạp" mà không "bần tiện"? Nguyên nhân ở chổ mệnh này không thuộc cách Nguyệt Kiếp dụng Quan.

        Mệnh của Lưu Kiến Quần:

        ẤN KIẾP KIẾP
        Quý Mão / Ất Mão / Giáp Tý / Ất Sửu

        Dương Nhận trùng điệp vô chế, phải chăng thuộc về mệnh phá cách "như ngộ Nhâm Quý thân vô dụng"? Không phải ! Bởi vì Tỉ Kiếp vô chế vô tiết, ngược lại còn có Ấn sinh, liền cấu thành Khúc Trực chuyên vượng cách. Cho nên mệnh chủ sự nghiệp, học hành thuận buồm xuôi gió, làm quan đảm nhiệm nhiều chức viện trưởng các viện của Trung Hoa dân quốc như Quốc phủ giám sát viện, Khảo thí viện, Ngũ viện (tương đương năm bộ thuộc chính phủ), v.v....
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #25
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:

        Giáp Ất sinh tam nguyệt,
        Canh Tân Mùi Tuất tồn,
        Sửu cung Nhâm Quý vị,
        Hà lự kiến vô căn.

        (Giáp Ất sinh tháng ba, sinh tồn được với Canh Tân Mùi Tuất; còn sinh tháng Sửu và có Nhâm Quý, sao phải lo rầu vô căn chứ !)


        Đại Lục bình chú:

        Giáp Ất mộc sinh tháng Thìn, Tỉ Kiếp càng vượng, nhất là Ất mộc sinh tại Thìn nguyệt, chính là Dương Nhận đương quyền. Bởi vậy cũng hỷ Canh Tân Tuất Mùi vốn là Quan Sát Tài tinh, so với tháng Dần Mão thì khác nhau không nhiều. Thường trường hợp này cũng kị Ấn nhiều.

        Còn như Giáp Ất mộc sinh tại tháng Sửu, mộc cũng lâm Quan Đới, Nhâm Quý Ấn tinh tại Sửu cũng hữu khí, thì không sợ Giáp Ất mộc vô căn, cũng như hỷ Quan Sát. Cho nên sách Uyên Hải Tử Bình, thơ quyết Thập Nhị nguyệt kiến hậu ghi rằng: "Giáp mộc sinh cư Sửu nguyệt trung, vô căn kim thủy bất hiềm hung".


        Mệnh của Dư Triều Quý:

        KIẾP SÁT SÁT
        Ất Mùi / Canh Thìn / Giáp Tuất / Canh Ngọ

        Nguyệt thấu Dương Nhận, có Sát tinh Canh kim chế nó, thành cách Nguyệt Kiếp dụng Sát. Vô Ấn tiết Sát, có Thương mà không thấu nên cách cục thanh thuần. Mệnh chủ khi 16 tuổi liền tòng quân, sau làm quan đến bậc nhất phẩm Tổng binh trấn Hải Môn (thuộc huyện Hải Thông, tỉnh Giang Tô). Đúng là quý mệnh "Canh Tân Tuất Mùi tồn".



        Chú thích:

        Dư Triều Quý (1835-1904), tự Đỉnh Thần, người Tân Châu, Hồ Bắc. Năm 1851, Hồng Tú Toàn khởi nghĩa chống nhà Thanh tại Kim Điền (sử gọi là cuộc Khởi nghĩa Kim Điền), Dư liền tòng quân hưởng ứng, sau do mẫn cán lập công được thăng Lan Linh Thiên Tổng (chỉ huy một nghìn quân, chức vị tương đương tứ phẩm đô ti). Năm 1862, phụng mệnh đem quân trấn áp khởi nghĩa nông dân ở Chiết Giang, liên tục hạ được các thành Kim Hoa, Đồng Lư, Thiệu Hưng, Lan Khê, Phú Dương, được Tả Tông Đường khen ngợi, theo đó thăng tam phẩm giữ lại Chiết Giang, từ đây Dư cũng thiện hải chiến. Tháng 02/1864 bình được Dư Hàng, thuộc Hàng Châu, được thăng quan nhị phẩm Phó Tướng, tức Tiến thủ đức Thanh...


        …Tiểu sử oai hùng còn dài…

        Đến tháng 07/1897 thì từ chức, tháng 8 về kinh được vua Quang Tự hai lần tiếp kiến, năm này quay lại Định Hải nhậm chức quan nhất phẩm Đề đốc Tổng binh. Năm 1900 chiến tranh Nga - Nhật bùng nổ, theo phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, phụng mệnh "Cần Vương". Năm 1904 chiến tranh Nga - Nhật bùng nổ, tuy lâm trọng bệnh nhưng ông vẫn thống lĩnh quân sỹ ngày đêm luyện tập trấn giữ, cố thủ. Năm này ông mất ngay trong nhiệm sở chỉ huy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #26
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nam mệnh 1:

        QUAN QUAN TÀI
        Canh Dần / Canh Thìn / Ất Mùi / Kỷ Mão

        Có Quan vô Ấn, dường như không thành cách, chỉ vì nguyệt lệnh Dương Nhận, liền cấu thành Nguyệt Kiếp dụng Quan cách. Nhưng Quan tinh vô căn, tam hội Kiếp cục, Tài tinh thụ chế, Thương quan vô lực, cách cục không cao. May mắn có Canh kim cái đầu (trùm đầu), Kiếp Nhận thời không thể tùy tiện làm càn. Cho nên mệnh chủ sự nghiệp, hôn nhân đều rất ổn định, vẫn có chức vụ kế toán tại một cục.



        Nam mệnh 2:

        SÁT SÁT THƯƠNG
        Canh Dần / Canh Thìn / Giáp Thân / Đinh Mão

        Kiếp Nhận không thấu, vốn có Canh kim cái đầu cũng không sao cả, nhưng can giờ thấu Đinh hỏa chế Sát, thành thử Kiếp Nhận ở vào trạng thái vô chế, đây là một mệnh phá cách sự nghiệp vô thành, tiền tài bất tụ. Mệnh chủ không học được liền đi làm lính. Chưa hết hai năm (quân ngũ), liền bị loại ngũ. Hồi hương làm nông nhưng lại không an phận, liền làm bậy. Vào vận Giáp Thân, năm Quý Dậu chế hóa cùng xuất hiện phá cách, Quan Sát công thân nên bị tù một năm. Vận Đinh Dậu, năm Đinh Sửu, Sát trọng hữu chế, lừa được người ta trị giá tài sản hơn trăm ngàn đồng, tiêu xài hoang phí hết sạch ngay sau đó. Về sau vẫn chuyên lừa gạt bịp bợm, sống một cuộc sống cùng cực, nghèo khổ.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #27
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Một nữ mệnh:

        QUAN QUAN THƯƠNG
        Canh Tuất / Canh Thìn / Ất Mão / Bính Tuất

        Đây cũng là Bính hỏa khử Quan không hoàn toàn, khiến cho Kiếp Nhận vô chế, thành mệnh phá cách. Mệnh chủ trình độ văn hóa tiểu học, không nghề nghiệp chức vụ, thỉnh thoảng đi làm thuê. Vận Đinh Sửu, chồng mắc bệnh tâm thần, không có tiền điều trị, cuộc sống lâm vào cảnh khốn cùng liền dứt áo bỏ đi hành nghề mại dâm kiếm sống, không hẹn ngày về.


        Nam mệnh 3:

        ẤN KIẾP SÁT
        Quý Mùi / Ất Sửu / Giáp Tuất / Canh Ngọ
        Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu - Canh thân - Kỷ mùi - Mậu ngọ

        Giáp mộc sinh tại tháng Sửu mặc dù vô căn, nhưng do Giáp mộc tại Sửu là đất Quan Đới, lại có Quý thủy Ấn tinh thấu can, cấu thành cách Ấn nhờ Sát sinh. Cho nên, mệnh chủ sự nghiệp thuận buồm xuôi gió, tại kim vận giữ chức vụ lãnh đạo một huyện, danh cao lộc dày, đủ uy phong hơn hai mươi năm (vận Tân dậu, Canh thân).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #28
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Mộc mậu nghi kim hỏa,
        Thân suy quỷ tác hình,
        Thời phân tây dữ bắc,
        Khinh trọng biện đông tây.

        ( Mộc tốt cần kim hỏa,
        Thân suy bị quỷ hình,
        Thời phân Tây cùng Bắc,
        Nặng nhẹ phân Đông Tây)

        Đại lục bình chú:
        Tiếp theo đoạn văn trên, nói Giáp Ất mộc sinh ở mùa Xuân, nếu như mộc nhiều mộc vượng, lại vui mừng có Quan Sát chế Tỉ Kiếp, hoặc Thực Thương hóa tiết Tỉ Kiếp. Đương nhiên, nếu là Quan Sát quá nhiều, chế Kiếp thái quá, thì Quan Sát sẽ tấn công thân, khiến mệnh chủ không bần cũng yểu. Lại như kim cũng nhiều, hỏa cũng vượng, cũng có thể cấu thành Thực Thương chế Sát cách, chỉ cần phân rõ Quan Sát và Thực Thương ai nhẹ ai nặng, phân rõ đại vận là phương Đông hay là phương Tây, là có lợi cho Quan Sát hay là có lợi cho Thực Thương.

        Mệnh Sử Di Viễn: Giáp Thân/ Bính Dần/ Ất Mão/ Tân Tị.
        Thuộc mệnh mộc thịnh có chi là kim hỏa, mệnh chủ ở vận Mậu Thìn năm Đinh Mùi gặp Tài sinh Quan Sát tì được Tiến sĩ. Vận Tân Mùi năm Mậu Thìn làm quan tới chức Thừa tướng, độc quyền triều chính. Lại có một nam mệnh có bát tự y như vậy, tốt nghiệp đại học có tiếng, vận Tân Mùi làm quan tới chức Bí thư Tỉnh ủy, trở thành chư hầu một phương.

        Một nam mệnh: Nhâm Thân/ Nhâm Dần/ Ất Mão/ Đinh Sửu.
        Cũng thuộc mệnh mộc thịnh có kim hỏa. Nhưng mà Dần Thân xung, Đinh hỏa lại bị Nhâm thủy hợp hóa thành Kiếp, cách cục rất thấp. Mệnh chủ văn hóa tiểu học, chỉ có công tác ở Trạm phát điện ở nông thôn, bình thản như nước, chẳng có được một điểm chấm trong vòng tròn.

        Một nữ mệnh: Kỷ Dậu/ Đinh Mão/ Ất Dậu/ Ất Dậu.
        Nguyệt Kiếp dụng Sát cách. Nhưng mà một Kiếp lại có ba Sát chế, lại còn gặp xung khắc, chỗ này lại thuộc nơi gọi là "Thân suy quỷ tác hình" mệnh như bị nhào nặn. Mệnh chủ từ bé thân thể suy nhược nên nhiều bệnh tật, vận Mậu Thìn năm Canh Thân, 11 tuổi liền mắc bệnh gan mà chết yểu. Có thuyết luận cân bằng nói, mệnh này thân nhược không thắng Tài Sát, mới đưa đến đoản mệnh. Như vậy, chúng ta hãy trở lại xem một chút phía trước chỗ mệnh của Vệ Lập Hoàng: Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Ất Tị/ Ất Dậu. Cũng là có vài Sát chế một Kiếp, nhưng mệnh chủ ở đại vận Mậu Tuất năm Đinh Sửu, gặp chuyên nhất Tài Sát thăng quan làm Tổng Tư lệnh một đoàn quân, Tỉnh trưởng tỉnh Hà Nam. Như vậy giải thích như thế nào chứ? Chính vì lẽ đó mà xung hay không xung nguyệt lệnh, vấn đề phá hay không phá cách, thì không có thể giải thích như câu "Thân suy quỷ tác hình" .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #29
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Thời thượng bào thai cách,
        Nguyệt phùng ấn thụ thông,
        Sát quan vận hành trợ,
        Chức vị liệt tam công.

        Đại lục bình chú:
        Gọi là "Thời thượng bào thai cách" còn gọi là "Nhật thời bào thai cách", 《 Uyên Hải Tử Bình 》trong và ngoài có 36 cách đều không dùng, duy chỉ có《 Tam Mệnh thông hội 》có một chương luận là "Bào thai phùng ấn thụ" . Cách này yêu cầu nguyệt lệnh cùng can giờ phải là Ấn thụ, và can giờ Ấn thụ ở vị trí thai tại chi ngày. Trong sách đưa ra ví dụ: Canh Dần/ Tân Mão/ Bính Thân/ Ất Dậu, nói mệnh này nguyệt lệnh có Mão mộc và can giờ Ất mộc đều là Ấn tinh, mà Ất mộc ở chi ngày Thân lại là ở vị trí Thai. Thế nhưng, nhật nguyên Bính hỏa sinh ở giờ Dậu, chỉ có thể là giờ Đinh Dậu mà không phải là giờ Ất Dậu, đương nhiên là một ví dụ sai. Trên thực tế, nhật nguyên Bính hỏa có can giờ là Ấn thụ chỉ có giờ Giáp Ngọ và giờ Ất Mùi, mà ở chi ngày lại vừa đúng nằm ở vị trí Thai thì chỉ có ngày Bính Thân giờ Ất Mùi. Có lẽ do cổ nhân sao chép nhầm, trong sách nguyên bản có thể là giờ Ất Mùi. Nhật nguyên Đinh hỏa thì chỉ có ngày Đinh Dậu giờ Giáp Thìn. Nhật nguyên mộc thì chỉ có ngày Giáp Ngọ giờ Nhâm Thân, ngày Ất Tị giờ Quý Mùi. Nhật nguyên thủy thì có ngày Nhâm Dần, giờ Tân Sửu, giờ Tân Hợi, cùng với ngày Quý Mão giờ Canh Thân. Nhật nguyên kim thì có ngày Canh Tý giờ Mậu Dần, ngày Tân Hợi giờ Kỷ Sửu và giờ Kỷ Hợi. Nhật nguyên thổ chỉ có ngày Mậu Tý giờ Bính Thìn, ngày Kỷ Hợi giờ Đinh Mão. Loại mệnh cục này chính xác là không lấy nguyệt lệnh thủ dụng định cách mà có thể hưởng lộc lâu dài đứng hàng Tam Công ư? Đừng ngại, chúng ta đi tìm các ví dụ thực tế như sau:

        Mệnh Thái Loan: Bính Thân/ Mậu Tuất/ Tân Hợi/ Kỷ Sửu.
        Làm quan tới Huyện Ủy Kiến Dương, hàng cửu phẩm.
        Nam mệnh 1: Đinh Dậu/ Quý Mão/ Đinh Dậu/ Giáp Thìn.
        Một bí thư Thị ủy, làm quan ở văn phòng, không có thực quyền.
        Nam mệnh 2: Bính Tuất/ Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Tân Sửu.
        Làm quan tới Phó trưởng Huyện.
        Nam mệnh 3: Canh Dần/ Nhâm Ngọ/ Mậu Tý/ Bính Thìn.
        Là trưởng tộc không mẫu mực, cả ngày chỉ ăn nhậu chơi bời, cuộc sống sung sướng, đậy đủ, 35 tuổi bệnh chết.
        Nam mệnh 4: Nhâm Thìn/ Bính Ngọ/ Mậu Tý/ Bính Thìn.
        Là Nông dân, và làm cả đèn cầy, chỉ là đồng tiền mua bán nhỏ, không phát tài.
        Nam mệnh 5: Giáp Thân/ Mậu Thìn/ Canh Tý/ Mậu Dần.
        Lão thái nông, bần khốn.
        Nữ mệnh 1: Quý Mão/ Giáp Tý/Ất Tị/ Quý Mùi.
        Vận Bính Dần xuống phía Nam làm thuê, lưu lạc làm kỹ nữ, 20 tuổi năm Quý Hợi chết do bệnh phổi.
        Nữ mệnh 2: Giáp Dần/ Mậu Thìn/ Canh Tý/ Mậu Dần.
        Làm nữ uốn tóc và bán dâm.

        Tường thuật 8 mệnh ở trên đều là cách Bào Thai, nhưng không có người nào làm đến vị trí Tam Công, đại đa số đều thuộc về gia tộc bần khốn. mặc dù thế giới to lớn, nhất định có thể tìm ra vài người có cách Bào Thai đại phú, đại quý, thế nhưng các mệnh này tại vì sao lại là mệnh nghèo chứ? Đáp án chỉ có một, đó là không thể chỉ bằng một Thời thượng có Bào Thai đều luận quý. Loại này có nguyệt lệnh là cách cục Ấn thụ, thông thường chỉ cần có vận Sát Quan trợ giúp, ít nhiều thì cũng có được một điểm quý khí, vì vậy mà thuật lại ba mệnh ở trên là tiểu quý cũng không phải là ngày giờ có Bào Thai thì mới quý. Nếu không, thì không có cách nào giải thích các mệnh tạo này không quý mà trái lại là bần yểu được. Ví dụ thực tế chứng minh, loại này Tử Bình không thủ cách, không đủ tin để dùng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #30
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Nhị tý bất xung ngọ,
        Nhị dần bất xung thân,
        Nhị ngọ bất xung tý,
        Nhị thân bất xung dần.

        Đại lục bình chú:
        Giải thích về cách cục cơ bản, tác giả mới bắt đầu nói đến bát tự sinh khắc, chế hóa, một vài vấn đề chi tiết, trọng điểm thông thường là chỗ mệnh thư không có luận cùng vấn đề liên quan. Chỗ này là mượn Tý Ngọ xung và Dần Thân xung để thuyết minh một quy tắc sinh khắc, tức là: một không xung hai. Tại sao một không xung hai chứ? Người ta nói phủ nhận, chê cười, chẳng lẽ hai người chẳng lẽ hai người không đánh được một người ư? Thực ra là lý giải đối với chữ "Xung" nghĩa gốc của nó vẫn chưa đúng. Gốc của chữ Xung nghĩa là chỉ đối diện với phương vị xung khắc. Thí dụ như thiên can có Bính Nhâm xung, Đinh Quý xung, mà không có Mậu Nhâm xung và Kỷ Quý xung, nguyên nhân thì là phương vị của Mậu và Nhâm, Kỷ và Quý cũng không phải là đối diện, do đó mới không xung. Giống như kim nam châm không thể cùng lúc chỉ cả hai hướng Ngọ. Mời xem ví dụ thực tế:

        Nam mệnh 1: Canh Tý/ Kỷ Mão/ Đinh Dậu/ Kỷ Dậu.
        《 Nguyệt Đàm phú 》 nói: "Độc Ấn phùng Tài, định đoán hồn quy địa ngục." là đúng mệnh này. Nếu như hai Dậu có thể xung một Mão, như vậy, mệnh chủ e rằng khi sinh ra đời cùng tháng cùng năm có tháng Dậu đều bị chết yểu, thế nhưng lại không có, thậm chí cùng với bệnh nặng lâu dài cũng không có. Đến 15 tuổi gặp vận Canh Thìn năm Ất Mão, hai Mão xung hai Dậu, mệnh chủ mắc bệnh ban đỏ mụt lở loét thì mới chết. Mão mộc là gan, Tý thủy là máu, Mão hình Tý và Dậu xung Mão, gan huyết đều tổn thương, cho nên mắc bệnh.
        Nam mệnh 2: Kỷ Hợi/ Nhâm Thân/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất.
        Ấn dựa Quan sinh cách. 21 tuổi vào vận Kỷ Tị, bởi vì lưu niên một đường kim thủy, Tài tinh không đủ để xác lập, mệnh chủ khó mà thành hôn. Đến 28 tuổi năm Bính Dần, một Tị xung một Hợi, còn lại ở dưới thì một Hợi cùng với Thái tuế Dần mộc tác hợp, Chính Tài tiến vào Thê cung, lại còn Dần Tị Thân tam hình cưỡng chế Thân kim xung Dần mộc, mệnh chủ mới có hỉ hoa chúc ( Tân hôn). Năm sau Đinh Mão, Hợi Mão hợp, vợ chồng bình an vô sự. 30 tuổi năm Mậu Thìn, Thìn Tuất xung, mở to khố thủy, nhiều thủy xung Tị hỏa, vợ bị tai nạn xe cộ mà chết.
        Nữ mệnh 1: Ất Dậu/ Mậu Dần/ Canh Thân/ Giáp Thân. Dần mộc Thiên Tài là phụ tinh nắm lệnh, đã bị Kiếp Nhận quá nặng bao vây tấn công, may mắn ở hai Thân không xung một Dần, lại thêm Dần mộc ôm Bính hỏa quyết tử mà kháng cự, nếu không, mệnh chủ lúc ra đời e rằng sẽ bị tang cha. Tại sao lúc sau này Thân kim mới khởi phát xung Dần mộc chứi? Là do gặp đại vận hợp khử một Thân kim vậy. Quả nhiên, ở trong vận Kỷ Mão, Canh Thìn cha bình an không có việc gì, mà khi đến vận Tị, hợp khử một Thân, đồng thời lại có tam hình Dần mộc, song song là hợp Dậu kim Dương Nhận chuẩn bị công kích Dần mộc, lưu niên Ất Mão xung động Dương Nhận, người cha bệnh gan mà chết.
        Nữ mệnh 2: Đinh Dậu/ Quý Sửu/ Đinh Mùi/ Canh Tuất. Có trụ tháng và ngày Sửu Mùi xung, vì Dậu Sửu hợp mà giải xung. Nhưng bát tự Thất Sát không có chế, ẩn tàng tai họa là rất lớn. 21 tuổi vận Mão năm Mậu Ngọ, Mậu Quý hợp, Ngọ Mùi hợp, Thất Sát được chế mà thành hôn. Năm sau vận chuyển Bính Thìn, lưu niên Kỷ Mùi, trực tiếp cùng với đề cương thiên khắc địa xung, em gái chồng bị người cưỡng dâm, người em gái phải khởi tố, tên cưỡng dâm phẩn nộ mà hạ sát cả gia đình người chồng ( bản thân chồng, em chồng và cả cha mẹ)! Là năm do có 2 Mùi xung một 1 Sửu, là do trước có Dậu Sửu hợp giải xung vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 3
        Bài mới: 10-08-12, 09:09

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •