Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối
    kết quả từ 21 tới 30 trên 37
      1. #21
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Tiến khí thoái khí,
        Mệnh vật tương tranh,
        Tiến khí bất tử,
        Thoái khí bất sinh.

        Đại lục bình chú:
        Ngũ hành vượng suy là do đắc căn cùng đắc khí cũng không phải để quyết định. Đắc khí cũng không phải lấy quyết định ở Nguyệt lệnh. Như mộc ở Hợi là trường sinh, trong Hợi có gốc mộc, là đã đắc căn lại đắc khí, ở Tý là đất mộc dục, thì chỉ đắc khí mà chưa đắc căn, ở Sửu là đất quan đới, cũng chỉ là đắc khí mà chưa đắc căn. Mộc ở Hợi là trường sinh, trước khi sinh ra, tất nhiên có một quá trình thai nghén rồi sinh dưỡng, gọi là Tiến khí, tức là mộc ở Tuất. Mộc ở Thìn tuy là suy, nhưng trong Thìn có thủy mộc, suy mà có lực, không phải là đúng suy. Mộc ở Tị thì hoàn toàn mất đi căn khí, gọi là Thoái khí, mới là đúng suy. Ngay lúc ngũ hành ở nơi trạng thái tiến khí , dù có vô căn, nhưng ở ngay lúc đầu Xuân là mầm mống thực vật, giúp cho hạt giống tiếp thụ ánh sáng cùng với mưa và sương mà sinh rễ nảy chồi, cho nên viết là Tiến khí bất tử. Ngũ hành lúc ở nơi trạng thái thoái khí, giống như sau mùa Thu lá vàng khô cháy, dù có bón phân tưới nước, cũng không thể hồi xanh chuyển vượng, cho nên viết là Thoái khí bất sinh. Vạn vật mừng sinh mà ghét tử, cho nên viết là Mệnh vật tương tranh.

        Mệnh Lê Nguyên Hồng: Giáp Tý/ Giáp Tuất/ Đinh Tị/ Giáp Thần. Nguyệt lệnh Tuất thổ tàng can không thấu, tức là lấy bản khí Mậu thổ làm dụng, cách thành Thương quan phối Ấn. Giáp mộc ở tháng Tuất tuy là vô căn, nhưng là tiến khí, tử mà không tử, gặp sinh liền khởi. Hỉ vận đến đất thủy mộc, được chỗ thích hợp, cho nên mệnh chủ học nghiệp có thành, đường quan lộ sáng tỏ, nhậm chức 2 đời tổng thống Dân quốc.

        Mệnh Từ Càn: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Ngọ/ Kỷ Sửu. Trùng điệp Thương quan, hỉ gặp hai Ấn khắc chế, tuy nhiên cuối Thu mộc rụng, nhưng Giáp mộc ở tháng Tuất là tiến khí, gặp sinh mà khởi, cách thành Thương quan phối Ấn. Trong vận Đông phương, Ấn tinh đắc địa, mệnh chủ nhận chức Quan Bố chính ở Sơn tây.

        Nam mệnh 1: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Thân/ Mậu Tuất. So với mệnh Từ Càn kém không có mấy, chỉ khác ở chi ngày có một chữ. Mệnh chủ sau khí tốt nghiệp chuyên môn sư phạm, một lúc thẳng tiến nhận chức giáo sư Trung học. Vận Mậu Dần, sau khi vợ đánh bạc thua mất hơn 10 vạn, tính đánh bạc vẫn không thay đổi, tiếp tục lấy mệnh ra đánh cuộc, và bị thua luôn, mệnh chủ chỉ còn biết là bỏ vợ. Ai ngờ vợ lại phản kháng, nói rằng anh ta ăn hối lộ phạm pháp, kết quả mệnh chủ buộc phải mất luôn cả công việc. Tại sao mệnh anh ta chỉ có thay đổi một chữ Thân kim mà danh vọng thì không thể như cái hình bóng của Từ Càn vậy? Bởi vì Tài tinh căn sâu, liền có thể hồi khắc tuế vận gặp đến Ấn tinh, do đó phá hoại cách cục Thương quan phối Ấn, cho nên, mệnh chủ lại gặp mất đi rất nhiều cơ hội thăng thiên, không thể phát quý. Lại cũng do Thê cung Tài hoại Ấn, cho nên là do vợ phá hoại sự việc.

        Nam mệnh 2: Nhâm Tý/ Ất Tị/ Bính Dần/ Nhâm Thìn. Sát Ấn đều thấu, cách luậnẤn dựa vào Sát sinh. Tiếc là Ấn tinh sinh ở tháng Tị là thoái khí, tuy có Sát sinh mà khó lấy sinh khởi. Mệnh chủ xuất thân ở một nông gia bần khốn, từ nhỏ tới lớn đều không thích đọc sách, mới mười mấy tuổi liền liên can tới việc trộm cắp. Vận Mậu Thân, năm Quý Dậu, là tham Tài hoại Ấn, do tội cưỡng gian mà bị xử lấy cực hình.

        Nam mệnh 3: Nhâm Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Kỷ Hợi. Cũng là Sát Ấn đều thấu thành Ấn dựa Sát sinh cách. Do Ất mộc thoái khí, cách cục cực thấp, cho nên mệnh chủ không có đi học, cả đời lại ở vùng địa đầu biên cương mà đánh nhau, cuộc sống quá ư là bần khốn. Tốt ở Ấn tinh vô căn, đến vận Tây phương kim liền Tài tinh không thể phá Ấn, cho nên, mệnh chủ do cố thủ bổn phận, không đến nỗi làm người tà đạo.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #22
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Tiến khí thoái khí,
        Mệnh vật tương tranh,
        Tiến khí bất tử,
        Thoái khí bất sinh.

        Đại lục bình chú:
        Ngũ hành vượng suy là do đắc căn cùng đắc khí cũng không phải để quyết định. Đắc khí cũng không phải lấy quyết định ở Nguyệt lệnh. Như mộc ở Hợi là trường sinh, trong Hợi có gốc mộc, là đã đắc căn lại đắc khí, ở Tý là đất mộc dục, thì chỉ đắc khí mà chưa đắc căn, ở Sửu là đất quan đới, cũng chỉ là đắc khí mà chưa đắc căn. Mộc ở Hợi là trường sinh, trước khi sinh ra, tất nhiên có một quá trình thai nghén rồi sinh dưỡng, gọi là Tiến khí, tức là mộc ở Tuất. Mộc ở Thìn tuy là suy, nhưng trong Thìn có thủy mộc, suy mà có lực, không phải là đúng suy. Mộc ở Tị thì hoàn toàn mất đi căn khí, gọi là Thoái khí, mới là đúng suy. Ngay lúc ngũ hành ở nơi trạng thái tiến khí , dù có vô căn, nhưng ở ngay lúc đầu Xuân là mầm mống thực vật, giúp cho hạt giống tiếp thụ ánh sáng cùng với mưa và sương mà sinh rễ nảy chồi, cho nên viết là Tiến khí bất tử. Ngũ hành lúc ở nơi trạng thái thoái khí, giống như sau mùa Thu lá vàng khô cháy, dù có bón phân tưới nước, cũng không thể hồi xanh chuyển vượng, cho nên viết là Thoái khí bất sinh. Vạn vật mừng sinh mà ghét tử, cho nên viết là Mệnh vật tương tranh.

        Mệnh Lê Nguyên Hồng: Giáp Tý/ Giáp Tuất/ Đinh Tị/ Giáp Thần. Nguyệt lệnh Tuất thổ tàng can không thấu, tức là lấy bản khí Mậu thổ làm dụng, cách thành Thương quan phối Ấn. Giáp mộc ở tháng Tuất tuy là vô căn, nhưng là tiến khí, tử mà không tử, gặp sinh liền khởi. Hỉ vận đến đất thủy mộc, được chỗ thích hợp, cho nên mệnh chủ học nghiệp có thành, đường quan lộ sáng tỏ, nhậm chức 2 đời tổng thống Dân quốc.

        Mệnh Từ Càn: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Ngọ/ Kỷ Sửu. Trùng điệp Thương quan, hỉ gặp hai Ấn khắc chế, tuy nhiên cuối Thu mộc rụng, nhưng Giáp mộc ở tháng Tuất là tiến khí, gặp sinh mà khởi, cách thành Thương quan phối Ấn. Trong vận Đông phương, Ấn tinh đắc địa, mệnh chủ nhận chức Quan Bố chính ở Sơn tây.

        Nam mệnh 1: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Thân/ Mậu Tuất. So với mệnh Từ Càn kém không có mấy, chỉ khác ở chi ngày có một chữ. Mệnh chủ sau khí tốt nghiệp chuyên môn sư phạm, một lúc thẳng tiến nhận chức giáo sư Trung học. Vận Mậu Dần, sau khi vợ đánh bạc thua mất hơn 10 vạn, tính đánh bạc vẫn không thay đổi, tiếp tục lấy mệnh ra đánh cuộc, và bị thua luôn, mệnh chủ chỉ còn biết là bỏ vợ. Ai ngờ vợ lại phản kháng, nói rằng anh ta ăn hối lộ phạm pháp, kết quả mệnh chủ buộc phải mất luôn cả công việc. Tại sao mệnh anh ta chỉ có thay đổi một chữ Thân kim mà danh vọng thì không thể như cái hình bóng của Từ Càn vậy? Bởi vì Tài tinh căn sâu, liền có thể hồi khắc tuế vận gặp đến Ấn tinh, do đó phá hoại cách cục Thương quan phối Ấn, cho nên, mệnh chủ lại gặp mất đi rất nhiều cơ hội thăng thiên, không thể phát quý. Lại cũng do Thê cung Tài hoại Ấn, cho nên là do vợ phá hoại sự việc.

        Nam mệnh 2: Nhâm Tý/ Ất Tị/ Bính Dần/ Nhâm Thìn. Sát Ấn đều thấu, cách luậnẤn dựa vào Sát sinh. Tiếc là Ấn tinh sinh ở tháng Tị là thoái khí, tuy có Sát sinh mà khó lấy sinh khởi. Mệnh chủ xuất thân ở một nông gia bần khốn, từ nhỏ tới lớn đều không thích đọc sách, mới mười mấy tuổi liền liên can tới việc trộm cắp. Vận Mậu Thân, năm Quý Dậu, là tham Tài hoại Ấn, do tội cưỡng gian mà bị xử lấy cực hình.

        Nam mệnh 3: Nhâm Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Kỷ Hợi. Cũng là Sát Ấn đều thấu thành Ấn dựa Sát sinh cách. Do Ất mộc thoái khí, cách cục cực thấp, cho nên mệnh chủ không có đi học, cả đời lại ở vùng địa đầu biên cương mà đánh nhau, cuộc sống quá ư là bần khốn. Tốt ở Ấn tinh vô căn, đến vận Tây phương kim liền Tài tinh không thể phá Ấn, cho nên, mệnh chủ do cố thủ bổn phận, không đến nỗi làm người tà đạo.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #23
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Đề cương hữu dụng,
        Tối phạ hình xung,
        Xung vận tắc cát,
        Xung dụng tắc hung.

        Đại lục bình chú:
        Nguyệt lệnh đề cương là chỗ đất ở của dụng thần, là hạt nhân đầu mối then chốt của cách cục, Nguyệt lệnh bị phá thì cách cục cũng theo đó mà bị phá, cách cục vừa bị phá, nhẹ thì nghèo hèn, bệnh tật, hình tang, nặng thì không chết cũng tàn tật, cho nên đề cương rất sợ hình xung. Trước tiên là mệnh cục, nếu như đề cương bị xung phá, đa số là mệnh nghèo, chết yểu. Tiếp theo là đại vận, xung phá đề cương thì hung họa lập tức đến. Tiếp nữa là lưu niên, dưới tình huống giống nhau, cách cục nếu thành, đại vận không quay lưng, thì không sợ lưu niên hình xung đề cương, trừ phi lưu niên cùng với kị, cừu thần hợp nhất thành thế lực lớn mạnh, đủ để xung phá đề cương.

        Gọi là "Xung vận tắc cát, xung dụng tắc hung" ý là , có người lý giải là xung cùng quan hệ giống như bị xung, thực ra không phải vậy, bất luận là xung hay là bị xung, cuối cùng đều vẫn phải lấy lực lượng quyết định thắng bại, vượng cường xung suy nhược, thì suy nhược làm xung khởi vượng cường. Nên đại vận xung nguyệt đề, giống như nguyệt lệnh được tả hữu hộ vệ mà vững như thành đồng, đại vận có cái đầu, tiệt cước hoặc có một quân đội chiến đấu hăng hái mà lực yếu, thì đại vận không thể phá cách, gọi là dụng xung vận, lấy cát luận. Trái lại, nếu như là nguyệt lệnh hoặc có cái đầu, tiệt cước hoặc có một quân đội chiến đấu hăng hái, đại vận cùng mệnh cục hoặc lưu niên tập kết thành trận chiến dữ dội, thì tất có thể xung phá đề cương, gọi là vận xung dụng, lấy hung luận.

        Đại vận xung đề cương, mỗi người chúng ta ai cũng có ở lúc khoảng 50 tuổi đến 60 tuổi đều có một bước đại vận như vậy, nhưng ai ở trong bước đại vận này đều phải gặp có đại nạn sinh tử chứ?
        Không phải vậy, dưới đây có 5 tình huống thì không có đại nạn:
        (1) Dụng xung Vận;
        (2) Nguyệt lệnh dụng thần nhập khố không thấu, gặp đại vận xung hình xuất khố;
        (3) Không sử dụng nguyệt lệnh dụng thần, hoặc mệnh có hai cách, thì không sợ xung đề cương phá cách;
        (4) Đại vận cùng mệnh cục hình thành hợp cục có lợi, giải trừ nguy hiểm xung đề cương phá cách;
        (5) Được lưu niên tới giải cứu.

        Mời xem ví dụ thực tế:
        Mệnh Vương Thế Trinh: Bính Tuất/ Canh Tý/ Giáp Thân/ Tân Mùi. Thiên can là Sát cần Thực chế cách, địa chi là Ấn dựa Sát sinh cách. 56 tuổi vào vận Bính Ngọ, cùng với đề cương là thiên khắc địa xung, 62 tuổi năm Mậu Tý, Thân Tý hợp mà xung Ngọ, gọi là xung vận, lấy cát luận, mệnh chủ trong 1 năm 2 lần chuyển biến, từ chức Phó Đô Ngự Sử thăng lên Binh Bộ Thị Lang, lại thăng lên Hình Bộ Thượng Thư. 64 tuổi năm Canh Dần, Dần Ngọ Tuất tam hợp hỏa cục xung nguyệt lệnh, gọi là xung dụng, thì lấy hung luận, mệnh chủ ở năm này bị bệnh chết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #24
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Mệnh Vu Khiêm: Mậu Dần/ Đinh Tị/ Quý Mão/ Nhâm Tuất. Tòng Sát cách. Trung niên đến vận Canh Thân, Tân Dậu, hợp Tài thành Ấn, biến thành Ấn dựa Sát sinh cách, mệnh chủ đường quan lộ huy hoàng, từ thất phẩm lên hàng tam phẩm, nhận chức quan tuần phủ Hà Nam. 56 tuổi vào vận Quý Hợi, cùng đề cương là thiên khắc địa xung, Mậu Quý hợp hỏa, Hợi Mão hợp mộc lại sinh hỏa, vẫn lấy Tòng Sát cách luận. Bất lợi 59 tuổi gặp năm Đinh Sửu, Tị Sửu củng kim, phá mất Tòng Sát cách, nhưng do Ấn tinh không thấu mà khó lấy kết thành Ấn dựa Sát sinh cách, cho nên mệnh chủ đã mưu đồ phản nghịch bị tội xử tử.

        Mệnh Chu Tất Đại: Bính Ngọ/ Bính Thân/ Kỷ Mão/ Kỷ Tị. Thương quan phối Ấn cách. 59 tuổi vào vận Nhâm Dần, cùng với đề cương thiên khắc địa xung, chỉ vì Dần Ngọ hợp mà chế Thương quan, không tổn hại cách cục, cho nên mệnh chủ có hỉ mà không có lo sầu, 60 tuổi năm Ất Tị thăng chức Sứ mật vụ ở trung ương, 62 tuổi năm Đinh Mùi lại hựu thăng quan thành Quang Lộc đại phu, được Thừa Tướng, 64 tuổi năm Kỷ Dậu lại thăng chức là Tả Thừa tướng, phong làm Quốc Công. Thẳng đến 70 tuổi thăng quan Văn Điện Đại học sĩ, lấy Ích Quốc Công về hưu.

        Mệnh Hoàng Quang Thăng: Bính Dần/ Canh Dần/ Ất Dậu/ Đinh Sửu. Nguyệt lệnh thấu Thương, Dậu Sửu hợp thành Sát, cấu thành Thực Thương chế Sát. 60 tuổi vào vận Bính Thân, cùng đề cương thiên khắc địa xung, 61 tuổi năm Đinh Mão xung dậu kim, chế Sát quá nặng, mệnh chủ lấy chức Hình Bộ Thượng Thư cáo lão về hưu. 65 tuổi năm Tân Mùi, vào đại vận Thân, lưu niên thấu Sát, tăng cường lực cho Sát tinh, mệnh chủ tái nhậm chức Hình Bộ Thượng thư. 66 tuổi năm Nhâm Thân, lưỡng Thân xung lưỡng Dần, mệnh chủ lại xin được về hưu hồi gia, sau thọ đến 80 tuổi. Tại sao đều giống nhau là xung khắc đề cương, mệnh chủ chỉ là mỗi việc xin về hưu, không có đại tai đại nạn chứ? Bởi vì đề cương vượng cường, lấy hợp lại mộc hỏa, Thân kim không đủ để xung phá đề cương, nhưng hoặc nhiều hoặc ít đối với đề cương có tổn hại ở mức độ nhất định, cho nên là họa không lớn.

        Mệnh Lý Bằng: Mậu Thìn/ Quý Hợi/ Ất Hợi/Bính Tuất. Khí Ấn tựu Tài cách. 52 tuổi vào vận Kỷ Tị, cùng đề cương thiên khắc địa xung, Tị hỏa là hỉ thần, nếu bị xung mất thì tất nhiên có họa. Tra lưu niên lúc sau 57 tuổi, lần lượt là Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, toàn là mộc hỏa thổ, không phải là thổ chế phục thủy, lại là mộc hóa tiết thủy, hợi thủy cuối cùng không thể xung hại Tị hỏa. Duy chỉ có năm Kỷ Tị, hai Tị xung hai Hợi, nguy cơ lộ rõ, nhưng thiên can mệnh cục tuế vận có ba thổ chế phục Hợi thủy, trong Tị có Mậu thổ cũng tương đối có lực, có khả năng bảo vệ Tị hỏa, do đó Hợi thủy không còn có khả năng xung hại Tị hỏa, cho nên "Lục tứ dân vận" rất lớn cũng không có thể mang theo anh ta là vị trí Thủ tướng để ầm ầm hạ xuống dưới. Chỗ này hoàn toàn là nhờ chỗ có lưu niên giải cứu cách gây nên.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #25
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Tam giả thấu lộ,
        Nhật can yếu cường,
        Ký căn hữu lực,
        Phúc lộc vinh xương.

        Đại lục bình chú:
        Văn bản ở trên có hai chữ "Tam giả" là "Tam kỳ", xem ý nghĩa trên dưới của đoạn văn, chính là nói nguyệt lệnh, chưa nói đến cách cục cụ thể, tác giả không phải bỗng nhiên luận đến cùng với nguyệt lệnh không có chỗ quan hệ gọi là "Tam kỳ cách", mà là nối tiếp đoạn văn ở trên để thảo luận nguyệt lệnh, do vậy, nguyên văn tất nhiền là "Tam giả", tức là chỗ chi tháng tàng ba can. Nếu như chi tháng ba can cùng thấu, thì đề cương nhất định năng, do vậy yêu cầu "Nhật can yếu cường, ký căn hữu lực" (Nhật can nếu cường, nhờ căn có lực), mới có thể đảm nhận khởi dụng thần loại Tài Quan, nhận được phúc lộc.
        Gọi là "Tam kỳ", tức là Tam Kỳ quý nhân, là một loại Thần Sát. Trên trời (Thiên can = Thiên nguyên) có tam kỳ là Giáp Mậu Canh, dưới đất (địa chi = địa nguyên) tam kỳ có Ất Bính Đinh, người ( nhân nguyên = can tàng trong địa chi) được tam kỳ là Nhâm Quý Tân.

        Thí dụ như Nhật can là Giáp, can tháng là Mậu, can năm là Canh, địa chi có Tuất Hợi là Thiên Môn, tức là thiên can có Tam Kỳ quý nhân. Có thuyết là: "Nhân mệnh trị thử tam kỳ quý, tam nguyên cập đệ quan quần anh. Bất tác bồng lai tam đảo khách, dã ứng kim điện ngọc giai hành" (Sinh mệnh gặp Tam kỳ quý nhân, ba đời đỗ đạt đứng đầu quần hùng. Không làm khách của Bồng lai Tam đảo, thì cũng được bước lên bậc thềm của cung vàng điện ngọc) .

        Thực sự như vậy ư? Chúng ta đừng ngại đi tìm hiểu một vài mệnh thực tế để xem::
        Nam mệnh 1: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Dần/ Giáp Tuất. Mệnh này mù chữ, là lão nông bần khốn.
        Nam mệnh 2: Canh Tý/ Mậu Dần/ Giáp Tuất/ Giáp Tuất. Mệnh văn hóa bậc Trung chuyên, là kỹ sư nông nghiệp bình thường.
        Nam mệnh 3: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Dần/ Ất Hợi. Mệnh văn hóa bậc Cao trung, chuyên nhất làm thuê.
        Nam mệnh 4: Canh Tý/ Mậu Dần/ Giáp Tuất/ Ất Hợi. Mệnh văn hóa bậc Cao trung, gia tộc lao động bình thường.
        Nam mệnh 5: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Ngọ/ Bính Dần. Mệnh Tiền Nhược Canh, Tiến sĩ, làm quan chức Lâm Giang Tri phủ, trung niên ngồi tù 37 năm.

        Trên là tường thuật năm mệnh, mệnh Tam Kỳ thực ra thì không chỉ có nói rằng là loại này không lấy phương pháp cách cục để luận mệnh, là không thể đáng tin.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #26
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Mệnh Đỗ Nguyệt Sênh: Mậu Tý/ Canh Thân/ Ất Sửu/ Nhâm Ngọ. Nguyệt lệnh Tài Quan Ấn cả ba đều thấu, nhưng can năm Mậu thổ cái đầu khắc Tý thủy, thời thuơ ấu Ấn tinh bị tổn hại, rõ ràng là mệnh chủ sớm gặp tang cha mẹ, học nghiệp không thành. Nhưng bát tự có can giờ Ấn thấu thành cách, thì rõ ràng là mệnh chủ sau trung niên sự nghiệp gặp phải một lúc thành tựu. Kết hợp xem đại vận, trung niên là Giáp Tý vận, Giáp mộc có thể khử Mậu thổ hộ Ấn cứu cách, khử Tài đắc Tài, tất nhiên là danh lợi đại phát. Thực tế, mệnh chủ 3 năm tang mẹ, 5 năm tang cha, chỉ đến học đường vài tháng. Từ nhỏ đã từng bán trái cây mà sống. Sau vận Quý Hợi, sự nghiệp mệnh chủ dần dần có thế lực, vận Giáp Tý nhảy lên đỉnh cao, thành người đứng đầu số 1 số 2 ở đất Thượng Hải, đồng thời anh ta còn đảm nhận Viện Hành chính Tham nghị (Đời nhà Minh, dưới quan bố chánh, quan thông chánh, có chức quan tham nghị. Nhà Thanh, dưới quan thông chánh cũng là quan tham nghị. Thời kỳ dân quốc, tham nghị thường là chức vị nhàn tản), chức vụ Bộ Tổng Tư lệnh Thiếu tướng Tham nghị, phú quý song toàn. Ngẫm lại xem, mệnh này Nhật can Ất mộc hư phù vô căn, ở vận Giáp Tý cũng không có căn, lại không phải là tòng cách, tại sao mệnh chủ có dạng phúc lộc vinh xương chứ?

        Mệnh Mao Thuận Sinh: Canh Ngọ/ Bính Tuất/ Giáp Thân/ Mậu Thìn. Nguyệt lệnh Sát Thực Tài cả ba đều thấu, nhật nguyên thất lệnh, lại không có cường căn, lại còn không có Ấn sinh, nhưng do Thực thần chế Sát cấu thành cách cục, chỉ cần Thực thần đến vượng địa, liền có thể phát phúc. Trong vận Canh Dần, Dần Ngọ Tuất tam hợp Thực thần cục, chế Sát mà sinh Tài, mệnh chủ làm lương thực cùng làm ăn mua bán thịt heo, dần dần đại phát, về sau mua 22 mẫu đất tốt, bản thân còn làm ra "Mao nghĩa thuận đường" lưu thông tiền phiếu, trở thành giàu nhất ở địa phương.

        Mệnh Tôn Hóa Long: Giáp Thìn/ Bính Dần/ Tân Hợi/ Mậu Tý. Nguyệt thấu Tài Quan Ấn tam kỳ, nhật nguyên vô căn, vô khí. Đến vận Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Ấn tinh đắc địa có thể hóa Quan sinh thân, về sau mệnh chủ được Tiến sĩ, làm quan tới Phó sứ Án sá, đặc trách giám sát ở Sơn Tây. Làm quan 30 năm.

        Mệnh nam: Kỷ Sửu/ Bính Dần/ Canh Dần/ Giáp Thân. Cũng là nguyệt lệnh Tài Quan Ấn đều thấu, cùng với mệnh Tôn Hóa Long gần giống nhau, mệnh này nhật nguyên có Sửu Thân là căn, Ấn tinh cũng có lực, nhưng mệnh chủ này chỉ là Phó cục trưởng Cục Ti pháp một Huyện, làm quan thất phẩm, mức độ phú quý kèm theo quan tứ phẩm đặc trách giám sát ở Sơn Tây, còn kém xa một đoạn. Tại sao Nhật nguyên có cường căn mà không bằng không có căn chứ? Nguyên nhân là do Sát cần Ấn hóa, Sát nặng Ấn nhẹ thì cách cao, mà mệnh Kỷ Sửu có Ấn tinh tương đối nặng, lại đến Tây phương kim vận Sát tinh lại càng nhẹ, cách cục liền thấp hơn so với mệnh của họ Tôn từ 2-3 bậc, cho nên không bằng họ Tôn. Cho nên đây không phải là vấn đề nhật nguyên cường nhược, mà vấn đề là giữa Sát cùng với Ấn.

        Hết tập 2
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #27
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        ( Tập ba )

        Chính văn:
        Thập can hóa thần,
        Hữu ảnh vô hình,
        Vô trung sinh hữu,
        Phúc lộc nan bằng.

        Đại lục bình chú:
        "Thập can hóa thần" tức Giáp Kỷ hóa thổ, Ất Canh hóa kim, Bính Tân hóa thủy, Đinh Nhâm hóa mộc, Mậu Quý hóa hỏa. Ý tứ của bản văn chỗ này là Thập can hóa thần là “Hữu ảnh vô hình” ( có ảnh mà không có hình), "Vô trung sinh hữu” (trong không có sinh xuất hiện), khó lấy làm bằng chứng mà suy đoán phúc lộc. Nói cách khác, hóa khí cách có thể không luận. Cho nên, tác giả về sau để xuống dưới có mấy câu, đoạn văn ở dưới liền không luận tiếp cùng với hóa khí cách.
        Chẳng lẽ Thập can hợp hóa lại theo “Hữu ảnh vô hình”, “vô trung sinh hữu”, thật sự cũng không thể suy đoán phúc lộc ư? Chỗ này không có hợp với quan điểm của Tử Bình.
        Tử Bình 《 Hỉ Kị thiên 》nói: "Hữu kiến bất kiến chi hình, vô thời bất hữu" (Hình có thấy hoặc không thấy, không có thời thì không có).
        《 Uyên Hải Tử Bình 》thì có các loại như "Đảo xung cách", "Tỉnh lan cách", "Triều dương cách" , đều là cách cục Hữu ảnh vô hình, Vô trung sinh hữu, nhưng đều là có thể lấy dựa vào vô hình mà suy đoán ra phúc lộc.
        《 Thần Phong thông khảo • Thập Can tòng hóa định quyết 》 thì chỉ ra rất rõ là : "Phàm khán bát tự, tiên minh tòng hóa vi bản. Tòng hóa bất thành, phương luận tài quan. Tài quan vô thủ, phương luận cách cục. Phi cách phi cục, vô túc luận hĩ. Nhược nhân mệnh tòng hóa thành cách cục, tất vi phú quý chi mệnh. Phú vân: hỏa hư hữu diễm, mộc thịnh đa nhân, đắc tòng đắc hóa, định hiển thanh danh chi sĩ, cố dã" (Phàm xem bát tự, trước tiên cần phải rõ bản chất của tòng hóa. Tòng hóa không thành, mới luận Tài Quan. Không có Tài Quan, mới luận cách cục. Không cách, không cục, không đủ luận vậy. Nếu như mệnh tòng hóa thành cách cục, nhất định là mệnh phú quý. Phú nói: Hỏa hư có sáng, mộc thịnh thì giàu lòng nhân ái, được tòng, được hóa, định là quan hiển lộ thanh danh, là vậy). Ý tức là xem bát tự trước tiên cần phải xem tòng hóa cách, tòng hóa cách không thành, mới luận Tài Quan chính cách. Chính cách không lấy được, mới luận ngoại cách. Mệnh không nhập cách, thì không đủ để luận. Chỉ cần bát tự tòng hóa thành cách, nhất định là người phú quý. Cho dù bát tự sợ hỏa nhiều mà ánh sáng quá mãnh liệt, hoặc là mộc thịnh mà dừng lại không có tiết, nhưng nếu có thể cấu thành tòng hóa cách, thì tất nhiên là làm quan công danh hiển đạt.

        Một thuyết hóa khí cách phúc lộc khó có bằng chứng, một thuyết hóa khí cách phú quý là tất nhiên, chúng ta tin cái nào chứ? Xem kết quả thực tế sau:

        Nữ mệnh 1: Đinh Tị/ Quý Mão/ Quý Dậu/ Mậu Ngọ. Thiên can Mậu Quan không có Ấn hóa, không thể cấu thành Quan Ấn cách. May mắn ở Mậu Quý gần kề, tháng ở Mão mà giờ ở Ngọ, có thể cấu thành Mậu Quý hóa hỏa cách. Trong Bính Ngọ hỏa vận, khắc khử Dậu kim Ấn tinh, hóa hỏa thành công, mệnh chủ mua bán kinh doanh đồ trang phục, phát tài gần 1000 vạn. Nếu như lấy thân nhược hỉ Ấn luận, thì tất nhiên giải đoán sai lầm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #28
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nữ mệnh 2: Đinh Mùi/ Nhâm Tý/ Đinh Mão/ Quý Mão. Mệnh này nếu lấy theo cách thông thường là luận Quan Ấn cách, thì Quan không có Tài sinh, đại vận lại là Đông phương Quan tinh ở đất tử tuyệt, Ấn nặng Quan nhẹ, là có thể nói quả quyết là không có phú quý. Nhưng Đinh Nhâm hợp mộc, lấy hóa khí cách xem, thì vận Đông phương là chỗ thích hợp, bản thân mệnh chủ có một phen thành tựu. Thực tế, mệnh chủ ở trong vận Đông phương buôn bán rượu, phát tài hơn 100 vạn.

        Nam mệnh 1: Bính Ngọ/ Đinh Dậu/ Tân Mùi/ Bính Thân. Nếu như lấy Nguyệt Kiếp dụng Quan cách luận, thì đại vận là Bắc phương thủy địa, Quan Sát gặp tử tuyệt, tất nhiên là không thể phú quý. Nhưng mà, mệnh chủ ở hai vận Canh Tý, Tân Sửu 20 năm, kinh thương thành công, phát tài tính ra cả 100 triệu. Tại sao mệnh chủ có thể ở vận Quan Sát gặp tử tuyệt mà đại phát tài chứ? Nguyên nhân chỉ có một, đó là bát tự cấu thành Bính Tân hóa thủy cách, lấy Quan Sát là bệnh, đại vận thủy thổ có thể khử bệnh cách cục, do đó mời có gặp kết quả này.

        Nam mệnh 2: Đinh Mùi/ Tân Hợi/ Bính Tý/ Đinh Dậu. Mệnh này Tài Quan quá nặng, nếu lấy thân nhược hỉ Ấn Tỉ mà luận, thì mệnh chủ kị hành Tây phương kim vận mà hỉ hành Nam phương hỏa vận. Nhưng mà sự thực là, mệnh chủ ở trong vận Tây phương kim Sát kẻ địch lại lập công, làm quan tới chức Thiếu tướng. Vào vận Nam phương gặp năm Kỷ Sửu tức là chiến bại bị bắt, sau này toàn bộ vận lý Nam phương mệnh chủ đều trải qua ở trong nhà giam. Tại sao lại như vậy chứ? Bởi vì mệnh cục kim thủy đắc thế, cấu thành Bính Tân hóa thủy cách. Vận Kỷ Dậu, Mậu Thân, thiên can Mậu Kỷ thổ tiết hỏa sinh kim, địa chi Thân Dậu kim tiết thổ sinh thủy, khử mất hóa thủy cách là bệnh của cách cục, cho nên mệnh chủ mới có vũ chức xuất chúng. Nam phương vận phá mất hóa thủy cách, cho nên thân hãm vào nhà lao.

        Nam mệnh 3: Quý Tị/ Kỷ Mùi/ Đinh Mão/ Nhâm Dần. Bát tự có Quan Sát vô căn, không thấy Tài tinh, đại vận lại nghịch hành Đông phương Thực Thương vượng địa, loại mệnh này chẳng lẽ gặp phú quý ư? Theo lẽ thường là không gặp. Nhưng vì Mão Mùi hợp mộc, Đinh Nhâm hợp mộc, cấu thành Đinh Nhâm hóa mộc cách, cho nên mà mệnh chủ ở trong vận Mậu Ngọ, Đinh Tị, Bính Thìn không có chỗ biểu hiện, ở trong vận Ất Mão mộc vận trở thành chủ doanh nghiệp nỗi tiếng ở địa phương, tài phát tính ra hơn 100 vạn.

        Tường thuật 5 mệnh kể trên, hóa khí cách vẫn còn tồn tại, chỉ cần hợp hóa thành công, vận hành không trở mặt, đều là mệnh hoặc phú hoặc quý. Hóa thần không phải là Hữu ảnh vô hình, Vô trung sinh hữu , mà là hai loại ngũ hành sau khi hợp hóa mà thành vật, giống như trong sinh hoạt hiện tại hàng loạt sản phẩm hợp thành một dạng sản phẩm phổ biến mà tồn tại chân thực.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #29
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Chính văn:
        Thập ác đại bại,
        Cách trung sở kị,
        Nhược ngộ tài quan,
        Phản thành phú quý.

        Đại lục bình chú:
        "Thập ác đại bại" là một loại Thần Sát. Phàm bát tự có trụ ngày là Giáp Thìn, Ất Tị, Nhâm Thân, Bính Thân, Đinh Hợi, Canh Thìn, Mậu Tuất, Quý Hợi, Tân Tị, Ất Sửu ở 1 trong 10 ngày này, là phạm thần sát "Thập ác đại bại". Tại sao người sinh ra trong 10 ngày này từ trong bụng mẹ bỗng chốc liền dính vào loại hung thần ác sát chứ? Cổ nhân giải thích nói, là bởi vì người sinh ra trong 10 ngày này Lộc gặp phỉa Tuần Không, thí dụ như người sinh ngày Giáp Thìn, Ất Tị, Giáp Lộc ở Dần, Ất Lộc ở Mão, mà trong tuần Giáp Thìn thì Dần Mão là Không vong, cho nên người sinh ngày Giáp Thìn, Ất Tị liền gặp "Lộc nhập Không Vong". Tác giả cho rằng loại "Lộc" này là đại biểu quan lộc, y lộc, một khi gặp Tuần Không, liền thuộc về mệnh không mang hai chữ y lộc là mệnh bần tiện, mà tuyệt đối không thể tránh khỏi, cho nên lấy tên là "Thập ác đại bại" . Tất nhiên, tác giả lại cho rằng, nếu như loại thần sát này gặp hai chữ Tài Quan, thì trái lại trở thành phú quý, lại được thần sát rất tốt.
        Vấn đề là, hai chữ "Tài quan" này tác giả là chỉ Nguyệt lệnh là hai cách Tài Quan, hay là chỉ bản thân ngày hôm đó do mang Tài Quan? Nếu như là vế thứ hai, như vậy, 10 ngày kể trên thì có 5 ngày là Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Thân, Canh Thìn, Ất Sửu là mang Tài tinh, còn 2 ngày Đinh Hợi, Tân Tị lại mang Quan tinh, là rất rõ ràng, tác giả chỉ rõ không phải loại tình huống này, mà là chỉ rõ tình huống nguyệt lệnh là Tài Quan.

        Loại thần sát này thật ra có thể sợ như vậy ư? Nếu như nguyệt lệnh không gặp Tài Quan, thì mệnh thật là ngày "Thập ác đại bại" ư? Mời xem ví dụ thực tế:

        Mệnh họ Vương chuyên kinh doanh địa sản: Giáp Thìn/ Bính Dần/ Giáp Thìn/ Bính Dần. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhưng mệnh chủ nghề nghiệp là kinh doanh địa sản, phát tài đếm khoảng 10 triệu. Tượng loại này là "Thập ác đại bại" chỉ sợ là rất nhiều người hoang tưởng đều suy nghĩ là có.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #30
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Mệnh Tôn Thừa Tông: Quý Hợi/ Giáp Dần/ Giáp Thìn/ Nhâm Thân. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhưng mà mệnh chủ 41 tuổi năm Giáp Thìn là bảng nhãn cao trung, làm quan ở Hàn lâm. Về sau làm quan tới Binh Bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ.

        Mệnh Lưu Nghiêu Khanh: Quý Tị/ Tân Dậu/ Canh Thìn/ Giáp Thân. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", thế nhưng, mệnh chủ lại ở 32 tuổi năm Ất Sửu được Tiến sĩ, nhận chức Ngự Sử tới giám sát đường Vân Nam, vừa có thanh danh, vừa có hiếu.

        Mệnh Từ Hi: Ất Mùi/ Đinh Hợi/ Ất Sửu/ Kỷ Mão. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhưng mà mệnh chủ chính là không có bảng hiệu đứng sau rèm Hoàng Đế, danh vọng của mệnh nữ này trở thành Phượng Hoàng e rằng đều hoan hỉ loại "Thập ác đại bại" sao?

        Mệnh nam: Đinh Hợi/ Mậu Thân/ Ất Sửu/ Nhâm Ngọ. Nguyệt lệnh dù có Tài Quan, nhật nguyên cũng là phạm "Thập ác đại bại", nhưng mệnh chủ lúc 6 tuổi đã vì bệnh tê liệt, sau thành tàn tật. Sau khi 16 tuổi một mực lang bạt ở bên ngoài, đến già cũng không đến nỗi làm mang tiếng cho họ hàng, cả nhà đều không thành đạt. Tại sao chỗ này mang "Thập ác đại bại" mệnh có Tài Quan lại không có chút nào là gặp phú quý chứ? Không phải, là do nguyên nhân khác, là do Đinh Nhâm hợp nhất, phá mất Quan Ấn cách, lại thêm đại vận nghịch hành, Ấn tinh lại hành đất tử tuyệt, cách không thành, cho nên mới có sự việc không thành.

        Có thể thấy, "Thập ác đại bại" cũng không có chỗ tên gọi biểu thị kinh khủng như vậy, nó chỉ là một loại thần sát bình thường. Giống như chỗ 《 Tử Bình Chân Thuyên 》nói, thần sát cũng không ảnh hưởng tới ngũ hành vượng suy, cường nhược, cũng không ảnh hưởng tới cách cục thành bại, cao thấp. Do vậy, chúng ta không thể sử dụng thần sát để suy đoán nhân mệnh phú quý hay bần tiện. Mệnh phạm"Thập ác đại bại" , không nên sợ hãi, cũng không nên vui mừng, nhất thiết đều phải xem cách cục thành bại hay cao thấp mà nói. Mệnh mang "Thập ác đại bại" mà người bần tiện, nhất định là do bát tự không thành cách cục; mệnh mang "Thập ác đại bại" mà người phú quý, nhất định là do bát tự thành cách, thành cục, cả hai đều cùng không có liên quan tới ngày "Thập ác đại bại" .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 3
        Bài mới: 10-08-12, 09:09

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •