-
09-04-14, 13:45 #1
Thần phong thông khảo
Thần phong thông khảo
nguồn kimtubinh.net
Quyển nhất
Ngũ tinh chính thuyết loại
Ngũ tinh mậu thuyết loại
Nam tử hợp hôn loại
Tổng luận tử bình mậu thuyết loại
Động tĩnh thuyết
Cái đầu thuyết
Lục thân thuyết
Bệnh Dược thuyết loại
Điêu khô vượng nhược tứ bệnh thuyết loại
Tổn ích sinh trưởng tứ dược thuyết loại
Chính quan cách
Thiên quan cách
Phụ khí mệnh tòng Sát cách
Cổ thuần tạp hữu chế loại
Cận thời thuần tạp đích chế loại
Cổ Quan vi dụng thần tha sát hữu chế lệ
Cổ Quan vi dụng thần tạp Sát hữu chế lệ
Cổ Hu Thiên Quan tạp Chính Quan hữu chế lệ
Cổ thời thuần Thiên Quan hữu chế lệ
Thời thượng nhất vị quý cách
Quan Sát khứ lưu tạp cách
Quyển nhị
Nguyệt chi Chính Tài cách
Phụ khí tòng mệnh tài cách
Thời thượng thiên tài cách
Phụ nguyệt thiên tài cách
Thương quan Thực thần cách
Thương quan thập luận
Ấn thụ cách
Dương nhận cách
Phụ bỉ kiếp kiến lộc cách
Hỉ kiến tài quan lệ
Cổ kiến sát hữu chế lệ
Cổ hội sát vi hung lệ
Chuyên lộc cách
Tạp khí tài quan ấn thụ cách
Phụ thời mộ cách
Kim thần cách
Quyển tam
Phi thiên lộc mã cách
Phụ đảo trùng lộc mã cách
Tý diêu tị cách
Sửu diêu tị cách
Nhâm kỵ long bối cách
Tỉnh lan xoa cách
Lục ất thử quý cách
Lục âm triêu dương cách
Hình hợp cách
Hợp lộc cách
Khúc trực nhân thọ cách
Giá sắc cách
Viêm thượng cách
Nhuận hạ cách
Tòng cách cách
Niên thời thương quan tinh cách
Tòng hóa cách
Lai binh củng tài cách
Tuế đức phù sát cách
Hựu bổ tuế đức phù tài cách
Chuyên tài cách
Nhật đức cách
Nhật quý cách
Khôi cương cách
Lục Nhâm xu Cấn cách
Lục Giáp xu Càn cách
Câu trần đắc vị cách
Huyền vũ đương quyền cách
Tài quan song mỹ cách
Củng lộc củng quý nhị cách
Soan lộc quy thốn cách
Tứ vị thuần toàn cách
Thiên nguyên nhất khí cách
Tam hợp tụ tập cách
Phúc đức cách
Luận đại vận
Luận thái tuế
Ngũ tinh luận
Kim tinh luận
Thuật tinh luận
Thủy tinh luận
Hỏa tinh luận
Thổ tinh luận
Kim bất hoán khán mệnh thằng xích
Bất hoán kim cốt tủy ca đoạnChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
09-04-14, 13:46 #2
Quyển tứ
Thập thiên can thể tượng toàn biên luận
Thập nhị địa chi vịnh
Tổng vịnh
Can chi sở chúc
Thiên can hợp
Địa chi hợp
Địa chi hội cục
Ngũ hành tương sinh
Ngũ hành tương khắc
Thập can lộc
Ngũ hành phát dụng
Địa chi tương xung
Tam hình
Lục hại
Thập nhị chi trung sở tàng pháp
Luận ngũ hành sinh khắc chế hóa
Thần Sát Cát thần loại
Thần Sát Hung thần loại
Khởi bát tự quyết
Niên thượng độn nguyệt
Nhật thượng độn thời
Nguyệt lệnh tường biện
Khởi đại vận pháp
Giang hồ trích cẩm
Nam mệnh tiểu vận định cục
Nữ mệnh tiểu vận định cục
Dương thuận âm nghịch chính vượng tử tuyệt đồ
Địa chi tạo hóa đồ
Thiên can ngũ dương thông biến
Thiên can ngũ âm thông biến
Thiên can Âm dương thông biến diệu quyết
Định cách cục quyết
Tử bình phiếm luận
Thập can tòng hóa định quyết
Thập đoạn cẩm
Thập đoạn hóa khí
Ngũ âm ca
Thiên nguyên nhất tự ca
Vận hối ca
Vận thông ca
Hình khắc ca
Hình thê ca
Khắc tử ca
Đái tật ca
Thọ nguyên ca
Phiêu đãng ca
Nữ mệnh ca
Nguyệt kiến sinh khắc ca
Khán mệnh tiệp ca
Chính quan cách ca
Thất sát cách ca
Tài ca
Ấn thụ ca
Dương nhận ca
Tam kỳ cách ca
Thái ất diệu chỉ pháp
Luận chư cách hữu cứu
Thủ cách chỉ quyết ca đoạn
Tiết khí ca đoạn
Vạn thượng thư quỳnh ki tam bàn phú
Nhai tuyền nam mệnh phú
Nhai tuyền nữ mệnh phú
Giảng mệnh tiệp kính phú
Quyển ngũ
Lục thần thiên
Khí tượng thiên
Vị kính luận
Định chân thiên
Quyển lục
Nhất hành thiện sư thiên nguyên phú
Tiên ky phú
Nhân giám luận
Uyên nguyên tập thuyết
Nhân nguyên tiêu tức phú
Địa chi phú
Bệnh nguyên phúChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
09-04-14, 13:46 #3
Tự
Thần phong tử viết: Chỗ trời trao cho sinh mệnh, nghèo giàu yểu thọ, trước tiên thuộc nhiều về bẩm khí, dù thánh hiền thuộc nhà nho, cũng không có thể dễ dàng thay đổi.
Là do chỗ quân tử dễ lấy đợi mệnh, duy chỉ có không hiểu mệnh, thì không lấy thành quân tử. Nhưng mệnh lý, nghĩ lại nguyên tắc phát sinh từ dòng họ Vua Hiên Viên, mới có xét chữ can chi, đại sư tìm lấy Giáp Tý, liền lấy chỗ sinh năm tháng ngày vào mỗi con người, gọi là Mệnh, cùng với mệnh thiên phú, mà đánh giá một lúc vậy.
Nhưng mà sơ khai không có sách vở nghiên cứu, tới nhà Đường họ Viên mới đầy đủ, mới lấy《 Ngũ Tinh 》 Chỉ Nam thư ( nguyên văn là "Chỉ Nam Ngũ Tinh" ứng với 《 Ngũ Tinh Chỉ Nam 》, cho nên sữa chửa về sau văn ngôn lấy chỗ tên này ). Lữ Tài làm《 Hợp Hôn thư 》, Nhất Hành thiện sư làm Tinh Lịch thư ( Chỉ có chỗ Nhất Hành chắc chắn sữa chữa thành《 Khai Nguyên đại diễn lịch 》) Ngũ Đại Hữu làm《 Lộc Lô 》 thư; Tiền Tống Hữu làm《 Điện Giá 》 thư, Nam Tống Liêu nhà Kim có 《 Kiều Ảo 》 thư, bắt đầu có chỗ Da giáo Luật Tài thư ( chỗ Da giáo Luật Tài nguyên tác có các sách《 Canh Ngọ nguyên lịch 》《 Ngũ Tinh bí ngữ 》), Bùi Đại Du có 《 Cầm Đường hư thực 》, đều lấy năm sinh con người, chỗ thuộc ngũ hành nạp âm, giới hạn thân mệnh làm chủ, là dùng Thất Diệu Tứ Dư.
Tới thời nhà Minh có Từ Quân làm 《 Tử Bình 》 thư ( tên gốc là 《 Uyên Hải Tử Bình 》), chuyên lấy nhật can làm chủ gốc. Nguyệt lệnh là dụng thần, năm giờ làm phụ tá. Ôi! làm Mệnh thư, tới chỗ này là hết vậy.
Vậy nguyên nhân là ở đâu? Cái thuyết Ngũ tinh, chỉ là lấy năm sinh làm chủ, tháng cùng ngày giờ lưu lại ở đâu, hoặc lấy nạp âm làm chủ, can cùng chi lưu lại ở đâu, lý lẽ Tử Bình nếu kỹ càng, duy nhất chỉ được ngày thông nguyệt khí, năm cùng giờ là mạch đập cuối cùng, nhật là thân chủ, nguyệt là sào huyệt, tuế cùng thời là môn hộ, được ở chỗ này mà không quên chỗ khác, thông ở trên mà không quên ở trên, còn lại có ức, bổ chưa đủ, đạo trung chính, cái nào ở chỗ nào là được chính xác?
Ngoài ra xem qua một loạt sách, mục đích có phần hiểu biết, nhìn độc nhất mệnh lý, có 《 Ngũ Tinh Chỉ Nam 》, 〈 Cầm Thâm Thường thư 〉, 〈 Uyên Hải Tử Bình 〉 thư, lý lẽ xuất ra là chân chính, lập pháp tốt, nhưng mà trung gian hơi có nói là không có gốc, thuyết tiến thoái, không có xác định quy định thấy mệnh con người, người đời sau thuận theo chỗ này, lập thuyết càng nhiều, càng phát sinh mê hoặc lòng người, dù có được trao nhận nhưng bất quá chỉ là làm theo sai lầm.
Nhưng nếu hành thư mê đạo, giống như hỏi người mù nguyên tắc là thế nào. Vốn dĩ nghiên cứu dẫn tới tận cùng, đất hẹp, tất cả đều huênh hoang khoác lác thực hiện học thuật, nghe nói quy tắc, giáo lý thì không có trọn vẹn một người có thể đường bệ ngang nhau mà làm trích dẫn ra mấu chốt quan trọng vậy. Than ôi! Không phải chỉ có ở con người, thực tế là do bản thân tự bịa chuyện mà nói vậy, làm con cháu khắc sâu mà than thở ở chỗ này.
Vốn là do tư tưởng nghiên cứu ở con đường này, hơn 40 năm, một lý lẽ bỗng nhiên hiểu được, mới ngộ ra lý lẽ là có chính đồ, quyết đoán không có vượt ra ngoài phân nhánh, lập chính thuyết Ngũ Tinh, Ngũ tinh mậu thuyết, Tử Bình nhiều cách chính thuyết, Tử Bình nhiều cách mậu ( sai lầm) thuyết, Động Tĩnh thuyết, Cái Đầu thuyết, Lục Thân thuyết, Bệnh Dược thuyết, Điêu Khô Nhược Vượng Tổn Ích Sinh trưởng Bát pháp thuyết, nhân mệnh ứng nghiệm thuyết, lấy nhiều chính lý tôn sùng, ý nghĩa càng thêm nhiều mậu thuyết, nhân danh viết: “ Mệnh Lý chính tông” bản in thay đổi, để phân rõ người cùng sở thích, sau đó là có bổ sung được Lục Nghệ (thơ, sách, lễ, nhạc, dịch, xuân thu) nói thêm một ít như vậy.
Lâm xuyên, Tây Khê ẩn dật Trương Nam ghi chép.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
11-04-14, 21:21 #4
Quyển 1
Ngũ tinh chính thuyết loại
An Thân Mệnh Cung, nguyên là lấy Mão an Mệnh, gặp Dậu an Thân, lý lẽ là ở đâu vậy?
Mão thuộc Đông phương chính Mộc, Mộc chủ về Nhân, Nhân chủ Thọ, do đó lấy Mệnh cung ở chỗ này. Dậu thuộc Tây phương chính kim, Kim chủ về Nghĩa, Nghĩa chủ Nghi, do đó lấy cung Thân ở chỗ này. Mệnh cung là lúc đầu thụ thai, cho nên lấy Mộc chủ Nhân, Nhân phát sinh lý lẽ sinh mệnh vậy. Thân cung là sau khi thụ thai, cho nên dùng chỗ Nghĩa, Nghĩa như lý lẽ thành thân vậy, lập thành Thân Mệnh, gốc là ở chỗ này, xuất phát từ chính lý vậy.
Phương pháp sắp xếp các sao, lấy 《Ngũ Tinh chỉ nam》 là Thể. 《Cầm đường》, 《Điện giá》 làm Dụng. Thể là hợp với Tổ tông, tôn kính mà tạo mệnh, Dụng là hợp với quy tắc, là nền tảng làm thành họa phúc. Như 《Kiều ảo》, 《Gia bàn》, 《Bộ Thiên kinh》, đều lấy Mệnh cung làm Tổ tông. Như Dần Hợi thuộc Mộc, sợ kim khắc, hỉ được Thủy sinh. Mão Tuất hai cung thuộc Hỏa, Thìn Dậu hai cung thuộc kim, Thân Tị hai cung Thuộc thủy, Tý Sửu hai cung thuộc Thổ, Ngọ thuộc Thái Dương, Mùi thuộc Thái Âm, quy tắc sinh khắc giống như trước. Riêng Ngọ thuộc Thái Dương, bị Mộc tinh che lấp ánh sáng, lý lẽ này có phần chưa thỏa đáng. Thái Dương là chủ vạn vật, là bầu trời to lớn ở trên muôn vạn thước, Mộc sao có thể che lấp, nhưng hỉ kim thủy kèm theo, lý rất đúng.
Vận hạn ở sau mệnh cung, mà không theo thân là bỏ cái nhà của mình, cái mệnh là thuộc thân trước tiên vậy, sau bào thai, tức lấy mệnh cung bỏ cái nhà của mình. Họa phúc mỗi người, chỉ cần nghiên cứu mệnh cung chăng. Sao có Ân tinh (ngôi sao ban ân huệ)? Sao có Nan tinh ( ngôi sao khó khăn)? Như Nan tinh thủ mệnh thì chủ cả đời cô khổ, Ân tinh thủ mệnh thì chủ cả đời phú quý. Như Mệnh cung mà nghiên cứu không có ngôi sao, lúc này lấy tam hợp cung xem, như tọa Dần thì xem Ngọ Tuất cung vậy. Như không có tam hợp thì xem bốn chính cung. Nhưng bốn chính cung, rất không cận lý, như Mệnh cung sợ kim là Nan tinh, hạn đến cũng sợ vậy. Phàm các cung Tài bạch, Điền trạch đều giống như thế này vậy, hệ thống này là ngũ hành sinh khắc, là thuyết chính lý vậy.
Độ chủ, tức lấy tương ứng độ mộc ( độ là đo lường). Như lập mệnh là Dần cung, quấn lấy cái đuôi hỏa Dần độ, tức lấy thủy khắc hỏa tinh mà độ tinh, là Hoa độ tinh, tức lấy mộc là Ân tinh, nhưng luận độ làm chuẩn, thì lại có một thuyết chỗ này, hoặc Mệnh cung là hỉ, hoặc lại độ chủ là kỵ, một hỉ một kỵ, vì sao lấy chủ? Nhưng chỉ lấy Mệnh cung làm chủ, lý lẽ gần với quy tắc, nếu lại lấy độ luận, là nguyên nhân làm mê hoặc lòng người vậy. Hoa độ thì lấy theo Trương Dịch Cốc 《 Hoa độ ca 》 làm quy tắc. Nếu Nhật, Nguyệt, mộc, hỏa, thổ, kim, thủy là chính thất diệu tinh (mặt trời, mặt trăng và các vì sao đều gọi là diệu, mặt trời, mặt trăng và năm ngôi sao, kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ hợp thành Thất diệu), nếu La tinh thì là thủy nô, Kế tinh thì là thổ nô, Khí tinh thì là mộc nô, Bột tinh thì là thủy nô, đây chính là Tứ dư tinh. Nhưng Thất Diệu tinh mệnh gặp hạn thấy họa có thể ít. Tứ dư tinh mệnh gặp hạn thấy họa thì mãnh liệt. Là sao vậy? Thất diệu chủ tinh thuộc loại Quân tử, Tứ dư nô tinh thuộc loại Bất nhân, như Cáo mượn oai Hùm, đương nhiên là chính lý vậy.
Ngũ tinh có nhiều sách viết, chỉ có 《 Ngũ tinh chỉ nam 》, chỗ lập ra là từ bát tự, hợp cách an thân, an ngôi sao, lý lẽ tiết khí ngũ hành sinh khắc, hệ thống xem mệnh này là ở Môn Hộ ( nguyệt lệnh), không thể không có vậy, còn lại cùng quy tắc bày ra nhiều loại ngũ hành là thuyết sai lầm ở bên trong. Lại như 《 Ngũ tinh 》, 《 Cầm đường 》, 《 Điện giá 》, 《 Gia bàn 》, 《 Bộ Thiên kinh 》 đều thuộc chính lý. Nhưng thuyết Ngũ Tinh, gần với chính lý thì còn rất ít, còn thuyết sai lầm thì rất nhiều vậy.thay đổi nội dung bởi: Thientam, 11-04-14 lúc 21:31
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
11-04-14, 21:22 #5
Ngũ tinh mậu thuyết loại
Nói về kim mộc thủy hỏa thổ, gốc là Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, tức là lấy thủy 1, hỏa 2, mộc 3, kim 4, thổ 5 thứ tự để sắp xếp. Thế hệ sau dựng cảnh tương tự lấy nói xằng bậy tức là lấy Hải trung, Lô trung, Đại Lâm, Lộ Bàng phối kỳ nạp âm ngũ hành làm thơ ca, khiến cho người đời sau có thể lấy để học thuộc lòng. Sao lại nói đời sau xằng bậy lấy thuyết không có lý lẽ như Hải trung, Lô trung, xác lập làm Môn hộ?
Như các loại kinh thư: Tam Xa Nhất Lãm, Vọng Đấu chân kinh, Da luật kinh, Ngọc Tỉnh áo quyết, Lan Thai diệu tuyển, đều không lấy tổ tiên sinh mệnh bản thân làm giới hạn, gần với lý lẽ để nói sự việc, tràn lan khắp nơi đều lấy giang sơn, thủy thạch, đạo phong, đạo vũ mà nói, lại lấy năm sinh con người, lấy thập nhị cầm tinh xứ sở giống nhau để luận sinh mệnh cát hung, sao nói sai lầm vậy!
Cái gốc cầm tinh giống nhau vốn là lấy thân mệnh trong thập nhị cầm thú đều khiếm khuyết như nhau tựa như vậy. Như Chuột thiếu ánh sáng, Trâu thiếu răng, Cọp thiếu ngáy, Thỏ thiếu môi, Rồng thiếu tai, Rắn thiếu chân, Ngựa thiếu con ngươi, Khỉ thiếu lá lách, Gà ít hiền lành, Heo thiếu gân, đều lấy thập nhị cầm tinh giống nhau như vậy, hoàn toàn không quan hệ với can chi bát tự con người. Ngông cuồng lấy cầm tinh giống nhau như thế này mà luận mệnh ư, như khoét thịt con người mà dán vào thịt của mình, thực chất như không cùng quan hệ huyết thống.
Giả như hiện tại trời đất cần phải làm rõ xem bàn về hai mệnh: Canh Thìn, Giáp Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ, bát tự vốn đúng là thân cường Sát yếu, hành Sát vượng địa, về sau được phong địa vị cao quý, mười nghìn căn nhà, lý lẽ là đúng. Xóa bỏ chính thuyết, nói sai lầm là mệnh thuộc con Rồng, được ngày giờ là Đinh Mùi, Bính Ngọ, gọi là Thiên Hà Long, lấy Rồng gặp thủy long là cực quý.
Giả như có một mệnh nghèo, là Canh Thìn, Giáp Thân, Quý Hợi, Quý Hợi, cũng có thể lấy Rồng quay về biển lớn để luận, thế sao lại rất nghèo? là bởi vì bát tự này thủy nhiều, lấy thủy là bệnh, tiếp tục hành vận Bắc phương để cho thủy lại gặp thủy, chính vị trí phương Bắc là Lộc trục Mã, lấy đường nghèo nàn mà kinh sợ vậy.
Mà như con người thuộc Chó Gà Dê, dấu hiệu có mệnh quý nhân, xin hỏi lý luận là ở đâu vậy? Cả hai thuyết đều sai lầm. Một Ngũ Tinh chỉ nam, giải thích ngữ văn đầy rời rạc, lại nghiền nát cám dỗ đến đau xót, cùng với Tiểu nhi, Lôi công, Kim tỏa, đoán Kiều, về nghĩ trăm ngày nơi am tự, tứ trụ con gà bay đến cửa quan. Chỉ lấy đúng một chữ năm sinh, dùng trái phép đến một lúc nào đó để sai lầm cam chịu mỗi ngày mà nói, lại xác lập lời nói nguy hiểm, khóc lóc đoạn tuyệt không quá ba tuổi mà chết, đến ý thức mở ra như thuyết Đoán Kiều, lấy phụ mẫu phải kinh ngạc, cùng không lấy can chi bát tự sinh khắc chế hóa, Tài Quan mà luận. Mà để tìm kiếm chính lý, còn họa phúc thì không ứng nghiệm, chỗ này chỉ đem một chữ để định sinh tử, thực sự là thuyết sai lầm vậy.
Lữ Tài viết sách “Hợp Hôn thư”, sao gọi là lý lẽ ư? Cái hôn nhân con người là do ở ông tơ bà nguyệt, gắn bó mạnh mẽ mà trói buộc chân. Ngày nay, chọn lựa hôn nhân, chọn lựa mệnh, tư tưởng không có qua sự mong muốn quan tâm của phụ mẫu, nam chỉ chọn nữ vậy. Xem Bát tự quý trọng ở hai sao chồng và con, nữ dịch ra nam vậy, bát tự quý ở đạo trung hòa. Sao đoạn văn dưới lại nói nam nữ chỗ kinh tởm này nhiều cách là kỵ, lý lẽ quá sai lầm. Thuyết thấy ở đoạn văn sau. Như tục ngữ nói: Chỗ này là dẫn tới Man kinh ( sách vở sai lầm). Cần đẩy lùi tiêu diệt bỏ đi, cho nên thuyết này là không có lý vậy.
Cốt tủy bị phá hủy vững chắc từ 6 điều hại là: đại bại, bừa bải, bay lên trời, bừa bãi, bát bại, trống rỗng đơn độc thuyết sai lầm. Thuyết này nguyên là họa cho con người không cùng ngày mà tương quan, là thuyết đứt đầu cùng chân, không những xác lập nhiều cách nói trống rỗng mà còn khắc nhiều lãnh thổ, xác lập lời nói nguy hiểm để con người kinh hãi mê muội. Hậu thế vợ chồng ngu dốt, toại nguyên lấy làm chân thực, hoặc có sinh sôi sai lầm, tức là kinh hãi, hoặc có cao minh, cho thấy quá ít ứng nghiệm. khiến cho người càng ngu dốt.
Kèm theo mệnh họa phúc, dâm loạn, cách thức là lấy Bát Bại, Đào Hoa Sát là đạo kỵ, Bát Bại thì lấy Heo, Dê, Chó sủa ở ba tháng mùa Xuân, cái lấy người sinh năm Hợi Mùi Tuất, thấy sinh trong ba tháng, toại nguyện cho thành Bát Bại, đều không thuộc ngày giờ liên tục, đều không luận cùng đạo chồng con. Giả như người sinh ba năm Hợi Mùi Tuất, thấy tháng Thìn, cuối cùng không đúng thì cho là kẻ thù vậy, cũng như Phi Thiên, Địa Tương vậy, tháng Thìn đều làm thất bại cả ba người này vậy. Thuyết Bát Bại, rất là sai lầm vậy.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
11-04-14, 21:23 #6
Lại nói về Đào Hoa Sát, viết: Dần Ngọ Tuất theo Thỏ ( Mão) cũng là sai lầm. Sao lại có thuyết này vậy? Dần Ngọ Tuất thuộc hỏa, hỏa thì lỏa hình, Mộc dục ở Mão, nói là hỏa ở trên Mão, tắm ở nước sợ lỏa thể, tên này xác lập bừa bãi, cũng biết là sai lầm rồi. Ta đã từng thấy nhiều lần là chồng con có phú quý lưỡng toàn, người già, trẻ em mang Bát Bại, riêng phụ mẫu lấy năm mệnh sửa đổi thích hợp cùng đến khi chết thì chồng con mới bày ra sự thật, lấy gia phổ bản thân làm chứng thì chồng lại không bị Đại Bại. Chính Ta thường khảo sát mệnh tạo phụ nữ để xem, kết quả hệ thống hai sao chồng con tinh tú, lý đắc trung hòa, thì quả là thuyết Bát Bại là sai lầm vậy. Hoặc là do gốc Bát tự bị thiên khô. Sao chồng con bị suy giảm, lại mang Bát Bại, là thế gian con người chỉ chưa mang bại, không biết là bát tự vốn là đúng không sai biệt.
Cho nên con người chọn lựa mệnh Nữ chính là lấy Phu tinh làm chủ, Tử tinh làm thứ yếu, trong trụ nếu có Phu tinh, liền lấy Phu tinh mà luận, còn nếu không có Phu tinh, thì tránh tìm cách khác. Nói Phu quý Thê cũng quý, Phu bần Thê cũng bần, phú quý tòng theo chồng, là lý lẽ rất sáng tỏ, sao lấy sao Quan tinh làm chồng? Cái khắc ta chính là Quan tinh vậy. Thì thân ta chịu chế phục bởi chồng, không có dám dâm loạn, không có dám đố kỵ bạo loạn, lại hỉ Phu tinh sinh vượng ở vận, cùng có Tài thần trợ giúp cho chồng, sợ nhất là có Thực thần, Thương Quan ở vận, là khắc phu vậy, nếu phương nhật chủ nhược, Phu tinh thái vượng, lại mang tới 2,3 thì thành nặng, việc này không phải là chồng tốt vậy, là mệnh đàn ông thì hỉ Thực Thần, Thương Quan để chế, đại vận cũng vậy. Nếu bị chế thái quá, thì lại không đủ, quý được ở trung hòa.
Đại để, Nữ mệnh có phu thì có tử, Tử thì tòng theo Phu sinh tồn, không có Phu thì không có Tử, Tử tòng theo tìm kiếm nơi nào? Ngu dốt đã từng muốn tìm kiếm theo sông Kiều đồi trụy, Nữ là vợ con làm ra bát tự không tốt cự tuyệt, như Kỷ Mùi, Đinh Sửu, Giáp Dần, Giáp Tý. Ngu dốt nói dụng Tân kim trong Sửu là Phu tinh vậy, sợ Đinh hỏa trong Mùi, hoàn tòan nhập trong Sửu, phá mất Phu tinh, lại thêm Đinh hỏa thấu xuất thiên can, trong Dần lại có Bính hỏa tiến khí, gốc Phu tinh bị suy, mà chế Phu tinh vượng vậy. Tôi suy ra từ vận, nhập Dần tháng 5 nhất định tử, kết quả tháng 5 bị bệnh đậu mùa mà ngu đần vậy.
Lại như thuyết kỹ nữ, tỳ thiếp dâm loạn, cũng rất là có lý. Cái thân chủ thái vượng, không có phu tinh để chế phục, hoặc lại không có Tài tinh để làm chỗ dựa, thân càng lại chủ huyết khí thái vượng, không có quan khắc chế, không có chồng quản thúc, bên ngoài vượt quá quy cũ chuẩn mực, được yên ổn không phóng tùng, dâm dật thành bừa bãi, thành bôn tẩu ư! Không phải đặc biệt là không có chồng lại còn không có con. Cái bát tự trụ trong không có phu tinh, thì Tử tinh làm sao mà có vậy?
Lại có thân chủ thái nhược, bị Thiên Quan, Chính Quan, 3,4 điểm Phu tinh khắc chế, lại không có Thực thần, Thương Quan để chế phục phu tinh, lại có Tài nhiều để ngăn cản thân chủ, dù viết là Quan Sát làm chồng vậy, quy tắc này không phải phu tinh vậy, chính là đạo tặc khắc thân vậy. Nều có cách này, nhất định cần phải chế phu ở vận.
Lại nếu nhật chủ không có căn gốc, Quan Sát quá nhiều, hoặc tòng theo phu tinh cần hành đến xứ Phu tinh vượng, cái khí mệnh Tòng Sát Tòng Phu, như người bỏ mệnh mà tòng theo cường tặc vậy. Cõng là chủ có phú quý có con nhưng sợ thấy tòng mà tùy tiện. Hoặc nhật chủ có căn là chỉ có Quan Sát thái vượng, lại không có khắc chế, nhiều là làm tỳ nữ, làm kỷ nữ, là việc bất đắc mà lấy theo tòng người vậy. Bát tự loại này đều là thuộc hệ thống dâm loạn. Hoặc bát tự con người có chỗ này là vượng, thân nhược là Bệnh, mà lại có mang Đào Hoa, người ngu dốt không nói là bát tự thiên khô là Bệnh, mà tùy tiện lấy tên là Đào Hoa, các cách này đều sai lầm, người có trí tuệ thì cần phải xem xét kỹ càng.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
11-04-14, 21:25 #7
Nam nữ hợp hôn thuyết
Bắt đầu lan truyền từ thuyết Lữ Tài vụng về, chỉ lấy năm tuổi nam nữ, buông thả mà lập số trời, phối hợp với nhau mà thành, tên gọi là hợp hôn.
Nói liều lập Thiên Y, Phúc Đức là thượng hôn, Du hồn, Quy hồn là trung hôn, Ngũ Quỷ, Tuyệt Mệnh là hạ hôn. Là quá sai lầm vậy.
Có thể xếp đặt chỉ lấy hai năm tuổi mệnh nam nữ, bỏ mất tháng, ngày, giờ mà có thể luận phối hợp hôn nhân ư?
Nếu là có lý, thì thiên hạ bàn hôn nhân, đều lựa chọn thượng hôn trung hôn mà phối hợp, bỏ mất lựa chọn hạ hôn, sách nói dễ mà không dễ, thảo nào ở thiên hạ bẩm sinh người phụ nữ, ngẫu nhiên mà góa bụa vậy.
Sao nói đời sau lại có họa là cô nhi quả phụ ?
Mặc dù phân biệt xuất phát từ chỗ có quan hệ của thời đại, mà cũng do ở bàn bạc hôn nhân rõ ràng vậy. Nhưng bàn bạc hôn lễ, phương diện nhân đạo, cũng không thể không cẩn thận vậy.
Vậy lý lẽ là như thế nào đây?
Chỉ cần xem mệnh nam, mang Tỉ kiên Kiếp Tài nặng, thì trung tâm lựa chọn mệnh phụ nữ phải mang Thương Quan, Thực Thần nặng mà phối hợp. Nếu nữ mệnh mang Thương Quan Thực Thần nặng thì nhất định lựa chọn nam mệnh mang Tỉ kiên Kiếp Tài nặng mà phối hợp. Quan hệ chỗ này chính là lý lẽ hợp hôn vậy.
Sao có thể lấy thuyết Lữ Tài thượng trung hạ tam hôn là thuyết vô căn cứ, không có nơi lý lẽ, mà bàn luận phối hợp hôn nhân vậy ư!
Thuyết Lữ Tài thật là sai lầm, rõ ràng là không đủ tin vậy.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
11-04-14, 21:26 #8
Tổng luận Tử Bình mậu thuyết loại
( Tổng luận về thuyết Tử Bình sai lầm)
Cách viết: như 《 Lạc Lục Tử 》, chuyên lấy Tài Quan làm chủ, chỗ này cũng là thuyết sai lầm. Mặc dù, bản thân con người đều lấy Tài Quan làm chỗ dựa, Tài Quan thái vượng, nhật chủ thái nhược, thì mệnh chủ không đảm nhận được Tài Quan. Giả sử Nhật chủ thái vượng, khí Tài Quan nhẹ, thì Tài Quan chưa đủ cho mệnh dùng. Lấy Tài Quan của Nhật chủ chỉ để tham khảo thêm. Nếu như sách Tử Bình nói: "Tài quan khinh nhi nhật vượng, vận hành tài quan tối vi kỳ." (Tài Quan khinh mà nhật chủ vượng, vận hành Tài Quan là tốt nhất), đến nước này thì nhật chủ có thể đảm nhận là phương pháp quy tắc khi xem mệnh.
《 Lạc Lục Tử 》có nói chỉ cần Tài Quan sinh vượng, không cần xem nhật chủ vượng nhược, sao không phải là sai lầm trầm trọng ư?
Nhật Quý cách, như Giáp Mậu Canh Sửu Mùi, đất Ất Tị Tý Thân các loại vậy, chỗ này thì có lý " .
Tuy viết Thiên Ất Quý nhân, ở trên nhật chủ lâm đến Quý nhân, hoặc lấy Nhật Quý mà luận mệnh là sai lầm. Nhưng, thuyết Quý nhân, tên gọi có liệt kê nguồn gốc, tuyển chọn cũng không thể vượt quá lý lẽ. Cho dù là cùng với Ngũ Tinh Tiểu nhi, thuyết như nhau chứa nhiều quan hệ sai lầm, xằng bậy. Tuy viết tới Nhật chủ, không luận Tài Quan Ấn tinh, chỉ có lấy Quý nhân làm chủ, thật là giả dối, hoang đường. Mà gốc lập thuyết chứa nhiều quý nhân, chẳng qua là bay vào khoảng không mà lập, không có căn cứ xác lập, sao mà có thể tin đây? Lục Ất Thử quý cách, cũng giống như chỗ này. Là thuyết sai lầm không nghi ngờ vậy.
Nhật Đức cách, có 5 ngày: Giáp Dần, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Tuất vậy. Tại sao hiện ra là Đức vậy? Không có nghiên cứu ngọn nguồn, không tuân theo nguồn gốc, gặp mà lấy tên là Nhật Đức, chẳng phải là thuyết sai lầm về Tử Bình ư?
Khôi Cương cách, lấy Nhâm Thìn, Canh Tuất, Canh Thìn, Mậu Tuất, ở trên đến đất Tứ Mộ, lấy là Khôi Cương, khó nắm đại quyền, cũng không theo lý lẽ. Tại sao ở trên đến đất Tứ Mộ là có thể nắm giữ uy quyền? Chỗ này đối với thuyết Tử Bình cũng rất sai lầm vậy.
Lục Nhâm xu Cấn, là dụng Dần trong chứa Giáp mộc, có thể hợp với Kỷ thổ, là Quan của Nhâm; nói dụng Dần trong có Bính hỏa, có thể hợp Tân kim, là Ấn của Nhâm. Đều là thuyết bịa đặt, quả là quá sai lầm vậy. Đại để cùng với trước đây nói Củng Lộc, Phi Thiên, Lộc Mã, cũng tương tự chỗ này. Thuyết này lại càng không phải, cho nên dùng tên gọi sai lầm vậy.
Lục Giáp xu Càn, nói ở trên phải là Môn Hộ của trời, nói người sinh ngày Giáp đến chỗ này, gọi là xu Càn. Giả như can ngày khác sinh đến ở trên Hợi, sao không lấy là xu Càn vậy? Nhưng mà Thiên Môn cùng chỉ tốt khi có xu hướng đến Nhật chủ là Lục Giáp. Nhưng mà địch thân thành Thiên Môn, vốn không có thể được vào Môn Hộ, nhưng Càn chính là ở địa phận của hướng Tây Bắc, tương tự Môn Hộ ở trên trời, sao có thể luận họa phúc nơi người? Thuyết này là sai lầm vậy.
Câu Trần đắc vị, lấy Mậu là Câu Trần, là một lý lẽ vậy. Nói Đắc vị là đến Tài Quan vậy, nếu Mậu Kỷ thân chủ không nhu nhược thì có thể gánh lấy Tài Quan vậy, thì nói là vị trí Câu Trần vậy. Là đương nhiên. Nếu Mậu Kỷ khí nhược đến đất Tài cung quá vượng, có thể là Tài đa Thân nhược, có thể là Sát trọng thân khinh, nếu lấy Câu Trần đắc vị là tốt, thì sao không khỏi sai lầm?
Huyền vũ đương quyền, cũng giống như vậy.
Tòng Cách cách, là nói nhật can Canh Tân, thấy Thân Dậu Tuất đầy đủ, hoặc Tị Dậu Sửu đầy đủ, chỗ này phần đa là bác tạp, gốc không phải thuần túy có thể nhìn thấy, cùng với Nhâm Quý Nhuận Hạ cách lý lẽ giống nhau, hai cách này nhiều vậy thay, chưa từng có phú quý, nhưng cần phân biệt để lấy lý lẽ mà khước từ. Chỉ có Khúc Trực, Giá Sắc hai cách đa số là phú quý, hỏa cách thấy đủ Tị Ngọ Mùi, cũng là thấy tốt. Do vậy tùy theo mà tôn trọng chỗ chân chính, mà bài trừ những lý lẽ sai lầm vậy.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
11-04-14, 21:27 #9
Động Tĩnh thuyết
Sao gọi là Động vậy? Thể thuộc dương, dương chủ động. Cho nên hành Thiên mạnh mẽ. Thành tuân theo xoay chuyển vây quanh trái đất mà không có điều kiện. Do đó con người lấy theo 8 thiên can thấu lộ ở trên, là Động vậy. Như thiên can bát tự là Giáp mộc, chỉ có thể khắc vận ở trên thiên can Mậu thổ vậy, không có thể khắc Mậu thổ tàng ở trong Tị vậy. Đại khái lấy Động để tấn công thành gần gũi, giống như nam nhân được công kích nam nhân vậy, không công kích chỗ khuê phòng bên trong của nữ nhân vậy. Nhưng tuy không thể công kích người, mà cũng có thể động xa làm kinh sợ, nhưng không thể lấy tai họa thực sự vậy. Như nữ nhân thấy nam nhân đến tấn công, tuy không thể đánh thêm vào thân thể, mà ý chỗ này là cũng có thể làm sợ hãi. Như trong vận Thân được địa chi có Canh kim, cũng không thể công kích ta trong bát tự có thiên can thấu Giáp mộc vậy. Vốn là lấy thiên can động, chỉ có thể công kích được thiên can động, mà không thể công kích địa chi là tĩnh vậy, lý là rõ ràng.
Sao gọi là Tĩnh vậy? Thời kỳ nghĩ ngơi là thuộc âm, âm chủ tĩnh, cho nên Địa nhận theo thuận, lấy phương tĩnh cố định mà luôn không đổi. Do đó, lấy bát tự con người, có chi ẩn tàng ở bên dưới, là Tĩnh vậy. Như địa chi bát tự có Canh kim, chỉ có thể khắc vận ở trên địa chi có Giáp mộc, mà không thể khắc vận ở trên thiên can có Giáp mộc vậy. Đại khái lấy tĩnh công tĩnh thành thân thiết, như nữ chỉ có thể công kích được nữ nhân vậy, không thể công kích nam nhân ở bên ngoài vậy. Nhưng dù không thể bị công kích, ý cũng có thể động xa mà làm kinh sợ vậy. Như vận ở trên có địa chi là Canh kim, cũng không thể phá ta nếu bát tự thiên can là Giáp mộc vậy. Vốn dĩ địa chi là tĩnh, chỉ có thể được công kích địa chi tĩnh, mà không thể công kích thiên can động vậy, lý là rõ ràng. Lại như Thìn Tuất Sửu Mùi là bốn địa chi của vật, chính là thiên địa bốn phương thu tàng về khố, rất kiên cố, giả như bát tự địa chi có Thìn ở nơi Mậu thổ, Ất Mùi ở Quý thủy vận, hoặc là hành Dần, Dần bên trong tuy có Giáp mộc, cũng không thể phá Mậu. Lại vận hành Dậu, Dậu trong tuy có Tân kim cũng không thể phá Ất. Lại có thể sinh hành đến Ngọ, Ngọ trong tuy có Kỷ thổ cũng không thể phá Quý. Không thể không có phá vậy, đại để trong Khố, ổ khóa là rất bền chắc, chính xác chữ Tuất đến động xung khai, liền giống như có rồi chìa khóa để mở khóa, mà xuất nhập Mậu thổ, Ất mộc, Quý thủy đi ra. Như chữ Sửu sẽ xung chữ Mùi, mà không thể công kích vật gì khác. Cho nên viết Tạp khí Tài được xung, chính là ý này vậy.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
11-04-14, 21:27 #10
Cái đầu thuyết
Sao gọi là Cái Đầu vậy?
Như toàn thân con người, toàn thân chỉ có mỗi cái đầu là một thân là nguồn gốc vậy. Đầu cùng mặt nối liền, tai mắt và mũi gắn liền chỗ này, sử dụng cái đầu mà nói toàn bộ vậy. Nếu ở dưới bụng và tứ chi, hơi có không tốt thì có thể lấy quần áo để trang sức cái không tốt vậy, nếu vật có nhiều cái đầu, phát sinh thấy ở bên ngoài, thì là động vật. Không phải như bụng và tứ chi nơi tàng chứa trong bụng, không đủ là khinh trọng vậy. Đại để bát tự con người cũng như vậy.
Trong Bát tự ở trên có 4 chữ là Đầu, ở dưới địa chi tứ trụ là bụng và tứ chi. Trong chi là chỗ tàng chứa các vật, là ngũ tạng lục phủ vậy, như phần bụng thanh tú, bắt đầu phát ra ở đầu mặt, liền là tài năng phát sinh rực rỡ lộ ra bên ngoài, một đời giàu sang, nghèo hèn, chỉ thấy được ở bên ngoài đầu và mặt. Như bát tự sợ Thương Quan, Thương Quan này tàng chứa ở bên trong, thì ở trên không đủ sợ, như ở trên dưới đều thấu Thương Quan này, thì ở trên đầu mặt đã thấy rồi, có thể nào che dấu? Phàm vật có chỗ hại, lộ ra ở đầu mặt, thì là động vật, là có thể tác hại. Thông thường hành vận nếu bát tự nhật can là Ất, dụng Bính Đinh hỏa là Thương Quan, nhật can Ất bị tổn thương nặng, liền lấy Canh kim Quan tinh là bệnh, nếu bát tự ở trên thấy Canh kim rồi, liền lấy Bính Đinh là thần tật bệnh. Như thiếu niên hành đến Nhâm Thân, Quý Dậu vận, thì không phải là vận tốt. Bởi vì Nhâm Quý thủy đóng ở bên trên đầu Thân Dậu, vốn là Nhâm Quý thủy cái đầu rồi, nên là không tốt vậy. Về sau hành đến Giáp Tuất, Ất Hợi vận, rõ là tốt, do Giáp Ất mộc là cái đầu vậy. Lại như hành vận Bính Tý, Đinh Sửu, cũng tốt, là do hành Bính Đinh hỏa là cái đến khắc Canh vậy, tuy bên dưới địa chi có Hợi Tý Sửu là thủy, mà thủy lại bị Bính Đinh cái đầu rồi cho nên không có thể làm hại. Lại như nhật can là Canh Tân, hỉ thần là 4 chữ Giáp Ất Bính Đinh, Canh Tân Nhâm Quý 4 chữ là bệnh thần, hành vận trông thấy Giáp Ất Bính Đinh các chữ cái đầu liền tốt vậy. Như trông thấy Canh Tân Nhâm Quý, đó là phá mệnh, tuy vận ở trên địa chi có Giáp Ất Bính Đinh, cũng bị Canh Tân Nhâm Quý cái đầu rồi, chỗ này địa chi tuy có Giáp Ất Bính Đinh, cũng không thể lấy phúc được, là do cái Canh Tân Nhâm Quý, ở bên trên mặt, xuất ra đầu không được.
Xem bát tự lấy Cái Đầu này là trông thấy rõ, liền nhận biết cả đời con người tốt hay xấu, đây vốn là bí quyết chân truyền vậy.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Tưởng Đại Hồng tái truyền đệ tử La Nhân Tuấn đích khẩu quyết——Thất Tinh đả kiếp dữ ta
By thoitu in forum Phong Thủy ITrả lời: 0Bài mới: 05-06-13, 16:33 -
Dụng thần Tứ trụ và Phong thủy???????????
By athaiathai in forum Tử bìnhTrả lời: 0Bài mới: 18-01-13, 20:37 -
Kỳ môn phong thủy khẩu quyết
By thoitu in forum Phong Thủy ITrả lời: 15Bài mới: 02-08-12, 09:29 -
Thần Khảo Âm Trạch
By hoa mai in forum Phong Thủy ITrả lời: 15Bài mới: 11-05-11, 01:18 -
Xin các bác mách cho em địa chỉ thầy xem phong thủy
By morality in forum Tư vấn phong thủyTrả lời: 2Bài mới: 18-08-10, 22:40