Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 5/18 đầuđầu ... 3456715 ... cuốicuối
    kết quả từ 41 tới 50 trên 177
      1. #41
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Đinh Dậu, Bính Ngọ, Đinh Sửu, Tân Hợi. Phúc kiến Bùi Ứng Chương thượng thư, lấy Kiến Lộc cách.
        Nam viết:
        Đinh hỏa viêm hỏa nhật chủ cường,
        Cần nhất Tài khố tọa tàng dưới.
        Dậu Sửu kim cục nhiều tọa Sát,
        Tây phương vận lý tính danh dương.

        Nhật chủ Đinh Sửu, xem can tháng hội hỏa cục, chi hội kim cục. Tài năng sinh trưởng, chính là quý ẩn tàng ở trong chi có ác, Bính Tân hợp quý khí, hợp nhật can Tài có thể sinh sát, lợi danh hiển đạt Tây phương tài lộ, mà vạn dặm bay cao, tự bản thân thơm mát, công danh hiển đạt, thọ không thể kể, địa vị quyền cao làm chấn động đến vua. Cha mẹ bị mất, vợ chồng phân ly, mãi về sau mới được ba con đoàn viên, là mệnh phúc thọ song toàn vậy.

        Bính Dần, Canh Tý, Nhâm Tý, Tân Hợi. Thư Lâm Tràng Hoàn ngũ công phú quý, Giả Thương Quan cách.
        Nam viết:
        Nhâm thủy trọng nặng khí có dư,
        Tuế thời có mộc thổ Nam chi.
        Mộc trong có Quý Canh Tân bệnh,
        Vận đến Đông phương có dư nhiều.

        Nhâm Tý nhật can, sinh ở tháng 11, thiên can lại có Canh Tân, kề trợ thân cường. Nhâm thủy là sao quý, tú khí tòng sao mà tiết? Cái hỉ có Dần Hợi hai mộc, Mong chờ một mạch mà sinh, lưỡng mộc loại tụ có tình. Nhâm thủy thấy mộc, mà tiết kỳ chân tinh, tú khí phân rõ ở mộc. Mộc suy thành bệnh, lại càng có Tân phù kim, ở xa muốn khắc mộc, nhưng vận Canh Tân kim, cũng không thể khắc địa chi mộc tĩnh này vậy. Vừa đến Đông phương Dần Mão Thìn Ất, suy mộc được nơi này nhưng bởi vì khô mộc gặp xuân vậy, thì phú quý không phong phú mà có ở về sau. Vận nhập Tị có Canh kim làm tổn mộc, suy ra là kỳ bất lợi, nhập Ngọ Mùi Thân địa, Ngọ trong có Kỷ thổ, mà lại làm tổn Nhận, lý thì chết cũng có thể hiểu vậy.

        Ất Tị, Quý Mùi, Mậu Tý, Quý Sửu. Khê Hồ Tích tam công phú mệnh, Giả Thương Quan cách.
        Nam viết:
        Mậu ở Mùi nguyệt thổ càng cường,
        Hỉ nhất kim thành Tị Sửu phương.
        Thổ dày thấy kim nhiều tú khí,
        Nhật ngại chuyển vận hỏa đến sinh.

        Mậu thổ sinh tháng Mùi, là thổ vượng cực kỳ vậy. Nhưng Thìn Tuất Sửu Mùi là thần tứ thổ, nhưng Thìn thổ mang mộc khí khắc, Tuất Sửu thổ mang kim khí tiết, Mậu thổ này tuy vượng mà không vượng cho nên Mậu đến chỗ này là Tam Vị đủ, nhiều thì lấy Giá Sắc cách, không mất trung hòa. Như tháng Mùi thổ hỏa khí vậy, thấy hỏa lấy sinh cho nên thổ là cực vượng vậy. Như thổ lâm chỗ Mùi nguyệt, thấy tứ trụ thổ trọng, lấy nhiều làm hỏa viêm thổ táo, không thể là xem Giá Sắc. Nhưng đến tháng này thuộc thổ, thấy kim thành cục, không quý cũng phú vậy. sách nói: "Thổ phùng quý vị kiến kim đa" cuối cùng là luận quý. Như tạo này thiếu niên hành Ngọ vận ở trên bỏ vì hỏa thương kim vậy. Vừa đến vận Tân Tị, Canh Thìn, suy kim được chỗ vượng, tài phát hàng vạn đồng. lại đến Dần vận, Giáp Thìn niên, tôm nhái đều bệnh mà chết, giống như coi không có nhà, là do hỏa khắc suy kim vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #42
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Ất Tị, Đinh Hợi, Nhâm Ngọ, Canh Tuất. Vượng biến thành nhược cách.
        Nam viết:
        Nhâm đến Hợi nguyệt thủy khó gánh,
        Tài Sát trọng nặng chịu tai ương.
        Thủy vượng cũng cần là thấy thổ,
        Nếu làm thổ nặng họa khó đương.

        Nhâm thủy lại sinh ở tháng Hợi, vốn là thủy vượng vậy. Nhưng tứ trụ hỏa thổ đều trọng nặng, can năm Tị xung Hợi lộc, thiếu niên xuất gia, Bính Tuất vận rất nghèo, do hỏa thổ dày vậy; Ất Dậu, Giáp Thân, Quý vận, kim thủy có khí, gốc lấy Thương Quan rất kiêu ngạo, rất làm oai là phúc, y phục lại có thể an thân. Vừa đến Mùi vận, hỏa thổ đại vượng làm tổn kim, năm Đinh Dậu tháng năm hỏa vượng mà chết. Phàm Giáp Ất sinh tháng Dần Mão Thìn nhiều kim, Bính Đinh sinh tháng Tị Ngọ Mùi nhiều thủy, Canh Tân sinh tháng Thân Dậu Tuất nhiều hỏa, Nhâm Quý sinh tháng Hợi Tý Sửu nhiều thổ thì đều là không bần thì yểu. Nhưng hỉ có hai điểm khắc thần, nhiều khắc đều không tốt, rất ứng nghiệm vậy. Chỗ này là thấy ở ngoàiTử Bình, cần thí nghiệm nhiều lần vậy.

        Kỷ Dậu, Bính Dần, Giáp Tý, Ất Sửu. Lưu Khánh Nhị đạo nhân, mộc suy kim vượng cách.
        Nam viết:
        Giáp mộc sinh Dần mộc trên suy,
        Đầu mùa mộc non sợ kim khí.
        Tuy nhiên có hỏa sợ kim mất,
        Thủy vận sao kham hỏa lại nguy.

        Giáp mộc sinh ở tháng Dần, đầu mùa Mộc hỏa đang còn sơ sinh. Thuật thổ suy ra kỳ Mộc hướng xuân sinh, mộc hỏa thông minh có quý. Sao nói là Mộc non không thắng kim chế, mà Dậu Sửu hợp thành kim cục, ban đầu hành Bắc phương thủy sinh mộc khí, ăn mặc giao phó rất tốt đẹp. Vừa đến Tây phương kim vượng vận, lấy lều cỏ mà sinh sống, mà thân bị tê liệt, Dậu vận mà chết, như chỉ có một điểm kim ở trên thì đỡ hơn vậy.

        Kỷ Tị, Bính Dần, Giáp Dần, Ất Hợi. Lưu Hàn thập nhất công, kim mộc tương đình cách.
        Nam viết:
        Giáp sinh Dần nguyệt kể là khinh,
        Mộc non kim nhẹ đượcc lưỡng đình.
        Vận nhập Tây phương kim liền thắng,
        Trung hòa khí mất thiếu yên tĩnh.

        Giáp mộc sinh Dần, tứ trụ mộc kim, tục xem thì nói mộc đa kim thiếu vậy. Không biết là tháng Dần khí còn hàn lạnh, mộc thần mềm yếu dễ gãy, mộc không thể thắng kim, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất vận, sinh mộc, tài phát hàng vạn. Tây phương Thân Dậu Tuất, gặp trì trệ mà mạng vong vậy.

        Tân Mão, Tân Sửu, Đinh Mão, Quý Mão.
        Nam viết:
        Đinh sinh Sửu nguyệt là thổ thần,
        Mão mộc tam trọng khắc quá chi.
        Hỉ có tam kim đến khắc mộc,
        Một phen bệnh nặng một phen chữa.

        Đinh sinh tháng Sửu, mệnh này rất khó tìm dụng thần, cái Sửu trong có một Kỷ thổ vậy, được có ba điểm Ất mộc gần thân khắc chế, chỗ này thì dụng Kỷ thổ là dụng thần, Ất mộc là bệnh vậy, rõ ràng. Cái được ba điểm Tân kim, lại đến khắc mộc vậy, một bệnh một dược, thích hợp nghiên cứu tuổi thọ lẽ nào là chỗ này vậy. Cả đời chỉ được Dậu vận 5 năm, là vận cực tốt. Cái chữ Dậu xung khứ Mão trong có Ất mộc là bệnh vậy, vận nhập Đông phương mộc vượng, 80 tuổi có thừa mới mất.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #43
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Ất Mão, Kỷ Sửu, Đinh Hợi, Nhâm Dần. Phủ thành Lý Nguyên lục công, thổ khinh mộc trọng cách.
        Nam viết:
        Đinh sinh Sửu nguyệt thổ thần rõ,
        Hỏa thổ Thương Quan cách tự thành.
        Chỉ sợ mộc kim đến khắc thổ,
        Tiếp hành mộc vận họa không khinh.

        Đinh sinh tháng Sửu, Kỷ thổ thấu xuất, chính là lấy Thương Quan, dụng thổ là rõ ràng. Ban đầu hành Bính Tuất, hỏa đến sinh thổ, tài rất là toại nguyện. Đại vận nhập Ất, mộc đến khắc thổ, phá mất Thương Quan mà chết. Bởi vì gốc có Ất Mão kề thân, lại có Dần Hợi hai mộc lấy trợ giúp, cho nên lại tiếp thấy Ất vận, chính là gốc vận hội có chỗ để hại thân, làm sao yên ổn mà không chết ư?

        Nhâm Thìn, Tân Hợi, Giáp Tuất, Bính Dần. Lâm Xuyên Ngô Khai lục công phú mệnh, Giả Thương Quan cách.
        Nam viết:
        Giáp mộc tuy suy cũng có căn,
        Bính Dần thời thấu hỏa thần xinh.
        Hỏa hư có sáng thành chân cách,
        Kim thủy nguyên nhân làm gây bệnh.

        Giáp mộc được sinh ở Hợi, năm Thìn mộc khí nắm căn, Giáp mộc giờ Dần đắc lộc. Tứ trụ mộc đều đắc khí, lại có Nhâm thủy sinh cho, Giáp mộc thì biến nhược thành cường, trông thấy thời thượng Bính hỏa, thấu hoàn mỹ cũng kề thân, thì Giáp mộc tình tư hướng Bính hỏa là dụng thần vậy. Thì lấy Nhâm hỏa là phá Bính là bệnh, Tân kim là phá cách cũng là bệnh, sớm hành Nhâm Tý, Quý Sửu, nặng hơn bình thường, phá hư Bính hỏa dụng thần. Trông thấy Đông Nam, có mộc có hỏa, có thổ khắc thủy, có hỏa khắc kim, bệnh thần cùng mất, càng vang lừng, đến Canh Thân kim thủy phá cách mà chết vậy.

        Đinh Sửu, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Mão. Giả Thương Quan sợ Ấn.
        Nam viết:
        Nhâm đến Hợi nguyệt thủy mênh mông,
        Mộc thấu thiên can lấy Giả Thương.
        Sửu trong kim khí không đủ ở,
        Tây phương kim vận cực khó nhận.

        Nhâm thủy sinh Hợi, tuy có nguyệt thượng Tài hư, bị thời thượng Quý thủy động, tuy có mộc là Thương Quan, mộc tháng mười gốc khô lá rụng. Gốc có Sửu trong có Tân kim làm tổn mộc, vừa đến Tây phương Dậu vận, hội khởi kim đến làm tổn mộc. Bệnh hoạn tê liệt, cùng lấy đủ hành làm ăn mày, mà lại thông minh, Thương Quan tiết khí mà chết vậy.

        Bính Tý, Đinh Dậu, Nhâm Thân, Tân Hợi. Trần Đô Gia quý mệnh, thời thượng Giả Thực Thần, thủy thanh kim bạch cách.
        Nam viết:
        Kim thủy trong thanh kỳ hai chữ,
        Thời quy Nhật Lộc lý theo nhau.
        Phân rõ thủy hỏa là chân tú,
        Hoàng Các danh cao ở thế gian.

        Nhâm sinh tháng Dậu, hai chữ kim thủy đều trong thanh, khí kim thủy có dư, hai chữ Mộc Hỏa không đủ. Kim tuy có dư mà hỉ thiên can có Bính Đinh, xa đến làm tổn kim vậy. Hỉ không có địa chi Ngọ hỏa, thực tế là khứ phá Ấn, cho nên Ấn được lưỡng toàn tốt đẹp, Nhâm thủy khí tuy có dư, hỉ Hợi trong có Giáp mộc, tiết kỳ tinh anh vậy. Quý như thế, Bính mất sáng, ám loại bỏ Canh kim, mà tồn hại khởi Hợi ở trên Thực Thần. Cho nên tháng tám mộc khí điêu tàn, kỳ bệnh là rất nặng, do đó lấy bệnh nặng gặp kim là đại quý vậy. Vận nhập Đông phương, bổ sung khởi hai chữ thủy hỏa mà bước lên Hoàng Các vậy, là phù hợp. Chỗ này chính là thiên địa sinh mệnh lấy thanh, cho nên là quý nhân thiên hạ vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #44
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Giáp Tuất, Tân Mùi, Kỷ Dậu, Kỷ Tị. Ngô Đô Hà nhập bát công, Giả Thương Quan phú mệnh, kim khinh hỏa trọng cách.
        Nam viết:
        Kỷ đến Mùi thổ nóng bốc hơi,
        Thấy hỏa sinh thân tăng tráng thần.
        Thổ vượng hỉ kim cần tiết khí,
        Dưỡng kim hỉ thủy định siêu quần.
        Kỷ thổ sinh ở tháng Mùi, hỏa thổ viêm nóng mà bốc hơi, kỳ Kỷ thổ khí nóng vượng thịnh, lại càng có hỏa khí sinh cho, thổ trông thấy Kỷ Dậu cả hai đủ hội tụ, cũng thấu Dậu kim, Kỷ thổ thì tiết tú khí cho ở trên kim mà mất. Lấy Bính Đinh hỏa làm thần tổn thương kim. Nhâm Thân, Quý Dậu vận tốt, Giáp tuất luận tai họa, cùng Bắc phương dụng thủy khứ hỏa, tài phú. Vừa đến Dần vận, hội thành hỏa cục, phá kim mà chết.

        Mậu Thân, Kỷ Mùi, Mậu Ngọ, Tân Dậu. Phủ thành Chu Hoài lỗ khoa quý mệnh, thổ kiến kim cách.
        Nam viết:
        Mậu đến Mùi nguyệt thổ trọng nặng,
        Táo thổ càng sợ hỏa khí hồng.
        Thời Tuế hỉ xem kim thổ tú,
        Vận hành Tây Bắc đến mây xanh.
        Nhật ở tháng Mùi, là cách hỏa viêm thổ táo. Được giờ Tân Dậu, Kim Thần thấu xuất, năm Thân cung có thủy phá hỏa, chỗ này lấy hỏa là bệnh, thủy là phúc vậy. Đại vận nhập Nhâm, được Nhâm đến khắc hỏa, phóng xuất Tân kim, bẻ Quế cung trăng, là lý lẽ tự nhiên vậy. về sau hành Bắc phương thủy vận càng tốt đẹp. Phàm Mậu Kỷ thổ vượng, thấy kim nhiều là cực kỳ thông minh tú khí, là mệnh lấy thanh lấy quý vậy.

        Quý Mão, Giáp Dần, Bính Ngọ, Mậu Tuất. Lâm Xuyên Viên ứng long, nguyên quý Giả Thương Quan, thổ khinh mộc trọng.
        Nam viết:
        Bính hỏa sinh Dần thành hỏa cục,
        Hỏa sinh Mậu thổ tiết tinh nguyên,
        Không kham suy thổ nặng gặp mộc,
        Sớm bước cung trăng mất thiếu niên.
        Bính hành nhật chủ, kết thành hỏa cục, hỏa vượng. Nguyên trong Dần có Mậu thổ, trong Ngọ có Kỷ thổ, lại vừa Thời thượng thấu xuất Kỷ thổ, Bính hỏa thân vượng, chỗ này thấy thổ mà hảo tiết kỳ tinh anh vậy. Chính là có bệnh phương thành quý cách. Thoát khỏi Tân gặp Quý Dậu lưu niên, khắc khứ Giáp mộc bệnh thần, cho nên sớm bước lên cửa Thi Hương, năm Giáp Tuất nhập Hợi vận, gốc có Giáp mộc, được sinh ở Hợi, chính là phá Thương Quan làm tổn hại Thọ nguyên mà chết. Cái tháng Dần gặp Mậu Kỷ, mang chữ mộc vậy, mà thổ thần cực suy, rất sợ vượng mộc đến khắc, nhập Hợi vận Giáp mộc được sinh, mà chết là rõ ràng, nếu mược thiên can năm, như hành Canh Tuất vận, Canh kim khắc khứ Giáp mộc quý không thể nói vậy. Phàm nhật can vượng thấy có Thực thần, Thương Quan. Tuy ở ngày giờ cũng chỉ lấy Thương Quan xem, là sao? Phàm nhật can vượng, tinh khí giữ đầy đủ, thấy có nơi thông tiết huyết khí thì theo tú khí, Tử Bình không thể chấp nê chỉ lấy Nguyệt lệnh ở trên dụng thần. Như nhật chủ suy nhược thấy Ấn tinh cùng Dương Nhận, thân nhược thì thân thiện với Ấn thụ Dương Nhận vậy, thân vượng thì tự thân với Thực thần Thương quan vậy. Như dụng Thực thần Thương quan, chỉ cần Thực Thương hội tụ một chỗ có tình, không thích ngăn cách, như trước mùa Hạ thì mệnh dụng mộc là vậy. Như tạo này, đa số không hiểu tác dụng thổ, chỉ lấy Quan Ấn. Nếu dụng Quan Ấn, như Mão Hợi vận không ngu dốt vậy. Chỗ này thì dụng suy thổ, thấy mộc khắc là rõ ràng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #45
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bính Dần, Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Mão. Ngô Đô phó hậu am công, mộc hỏa Giả Thương Quan, mộc đủ Dần Mão Thìn.
        Nam viết:
        Giáp mộc trọng nặng vượng khí sâu,
        Mộc đến dụng hỏa thấu Xuân tới.
        Trụ trong hỉ nhất Nhâm là bệnh,
        Hỏa thổ trọng gặp thường khác loại.
        Giáp mộc sinh tháng Thìn, nói đủ Dần Mão Thìn Đông phương mà tú khí, hỉ có năm giờ Bính Đinh hỏa hư thấu xuất. Lấy mộc hỏa làm Giả Quan, thấu xuất Nhâm thủy, phá hỏa là bệnh thần, vận hành Nam phương, hỏa suy đắc địa thành tốt, tuy có Thân Dậu sinh thủy phá hỏa, cũng hỉ có Bính Đinh cái đầu. Mậu Kỷ vận, thổ có thể phá thủy, phóng khởi dụng thần, về già càng tăng sức sống, phúc thọ lưỡng toàn, chỉ sợ Bắc phương thủy phá dụng thần vậy.

        Bính Thân, Quý Tị, Tân Mão, Nhâm Thìn. Giả Thương quan dụng địa Kiếp.
        Nam viết:
        Tân kim sinh Tị thủy trọng nặng,
        Hình phá Quan tinh thủy có công.
        Thân Tị lưỡng Canh đến tác dụng,
        Vận hành Thân Dậu ung dung vui.
        Tân sinh tháng Tị, vốn là dụng Bính hỏa, sao nói gần thân có Thân, phá Bính rõ ràng. Can năm Bính hỏa, vốn là Quan hư có thể dụng, giờ có Nhâm thủy phá, do là bỏ Bính mà tòng thủy vậy. Lấy thủy là Thương Quan hư nhược, năm tháng có 2 Canh, hội tụ có tình, chính là lấy kim thủy Thương Quan dụng Kiếp vậy. Hành Thân Dậu Tỉ Kiếp được sinh, an vui mà hưởng. Nhập Mậu Kỷ phá khứ Giả Thương Quan, động nhiều khinh lận, nhập Hợi sinh Tài, đại vận 66 tuổi, Canh kim Kiếp thần mà chết.

        Đinh Mùi, Nhâm Dần, Ất Sửu, Đinh Hợi. Mộc hỏa Thương Quan Quan bất túc cách.
        Nam viết:
        Ấm mộc sinh Dần tiến xin thời,
        Lại kiêm tam Ấn sinh trùng chi.
        Tài Quan tới vận nặng trọng hỉ,
        Thủy hỏa tới gặp Thực đáng buồn.
        Ất sinh tháng Dần là mộc tiến khí, lại thông ba mộc sinh thân, bất đắc dĩ Tỉ Kiếp trọng nặng tranh tài mà Tài thì không đủ vậy. Bốn hỏa chế Sát thái quá, sớm hành Bắc phương không tốt, hỉ Canh Tân kim cái đầu, phá Kiếp bảo tồn Tài tinh, lấy vận Tài vượng sinh Quan, có làm Tỉ Kiếp khiếp sợ. Hành Hợi vận, Nhâm thủy sinh Tỉ Kiếp, tranh Tài bất đắc dĩ, lại hợp Bính Tý niên, hỏa chế kim mà thủy sinh mộc, sách nói: "Mộc hỏa thương quan quan yếu vượng." Dụng thần chịu khốn đốn, tại họa gây ra mà chết vậy.

        Mậu Dần, Kỷ Mùi, Bính Tuất, Ất Mùi. Quý Nữ mệnh lấy chân Thương Quan dụng Ấn cách.
        Nam viết:
        Hỏa gặp Giá Sắc tiết tinh thần,
        Lại hỉ trụ trong có Ấn thụ.
        Suy Ấn tối cần trọng thấy Ấn,
        Bao Ấn lưỡng quốc khởi thường nhân.
        Bính hỏa sinh tháng Mùi, tứ trụ thổ khí trọng nặng, tiết nhược khí Bính hỏa, chính là lấy hỏa thổ Thương Quan, thân nhược do tự thân với Ấn thụ vậy. Nguyên gốc Ấn tinh suy nhược, vận hành đến đất Ấn vượng. Chồng con đều được hai nước phong tặng. Đại vận nhập Sửu, Tân kim phá Ất mà chết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #46
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Ấn thụ cách

        Nam viết: Chính Ấn, Thiên Ấn cách giống như phụ mẫu sinh thân, nghĩa là nhật chủ được kỳ sinh trợ.
        Sách nói: " Tháng sinh Ấn thụ lợi cho Quan vận, sợ nhập đất Tài, Tài chính là phá khí Ấn vậy". Chỗ này sách nói như đường cùng, không phải là đạo biến thông vậy. Nhưng tứ trụ có Ấn tinh quá vượng, nhật chủ có khí, Ấn nhiều sinh thân, như nhân nguyên bản khí vượng, lại thêm bổ sung dược, sinh có thể tồn tại ư? Chỗ này thì bản thân dụng thấy tàn sát để phá Ấn vậy. Tứ tài thiếu, nhất định cần ở trên vận có Tài thần là tốt. Lại như nhật chủ căn khinh, Ấn tinh lại nhược, rất sợ Tài tinh, gọi là Tham Tài tổn Ấn, là phù hợp vậy. Lại có chân Ấn, giả Ấn, như người sinh ngày Bính, sinh ở tháng Hợi, hoặc dụng tháng Hợi trong có Giáp mộc lấy giả Ấn địa vậy. Tháng mười mộc khí, gốc hư kết thành là rụng thì chỗ này là mộc suy, cần hành đến đất Đông phương mộc vượng, lấy để phụ trợ cho khí gốc, thì thành Khô miêu đắc vũ ( mầm khô gặp mưa rào), bỗng nhiên mà hưng thịnh, sợ Tị Dậu Sửu vận, xung khắc khí mộc, càng sợ hành Tây phương gốc của Thân Tân, thiên can địa chi đều đủ, thì tổn thương càng nặng. Như thiên can được Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh cái đầu, tuy có họa cũng nhẹ, lại như nhật chủ là Bính Đinh, đến Dần Mão là đất nhiều gốc, gọi là Chân Ấn vậy. Như Ấn nhiều thì không sợ Tài tinh; nhật chủ khinh như chỉ có 1,2 điểm Ấn, cũng sợ Tài vậy.
        Nói chung, mộc không có thể thắng kim, gọi là Ấn thụ bị thương. Nếu như vinh hoa chẳng bao lâu mà lấy Chân Giả Ấn biện luận thì không thể không cứu. Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực thần, Thương Quan, sáu thần này chính là nhật can Nguyệt lệnh. Ngoài chính cách còn có Dương Nhận cách! Hệ thống này là Nhật Nguyệt tương thông. Xuất ra ngoài chỗ này, hoặc là Tài Quan bị hư vô, hoặc là hình hợp Tài Quan, hoặc là ám củng Tài Quan, hoặc là xung xa Tài Quan, vốn cũng là cận lý. Giới thiệu một vài đoạn văn nhỏ như sau:

        《Kế Thiện thiên 》nói: Quan hình không phạm, Ấn thụ Thiên Đức, năm tháng ngày giờ đều đồng nhất cung phân ra. Cho nên thông cách giải nói nhưng mà tứ trụ trong đều có thì chính là Mệnh cung giống nhau mà phân ra, không nên như nhau. Như Giáp Dần, Bính Dần, Bính Dần, Đinh Dậu, là Thiên Đức ở Đinh, Nguyệt Đức ở Bính, Ấn thụ ở Dần. Như Canh Thân, Canh Thìn, Canh Tý, Nhâm Ngọ, vốn là Thiên Đức Nguyệt Đức đều có ở Nhâm, Ấn thụ ở Thìn, Thiên Đức cùng Ấn thụ , Mệnh cung giống nhau là càng lưu thông. Xâm phạm nghiêm ngặt Mệnh thư là sao Thiên Nguyệt nhị Đức, ở Nhật thượng là đích xác, chỗ khác thấy không cần lấy Đức mà luận.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #47
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Cổ ca nói:
        Nguyệt gặp Ấn thụ hỉ Quan tinh,
        Vận nhập đất Quan phúc tất thanh.
        Đến vận Tử tuyệt thân bất lợi,
        sau hành Tài vận trăm không thành.

        Bổ túc: Giáp Ất sinh ở tháng Hợi Tý, Bính Đinh sinh ở tháng Dần Mão, Mậu Kỷ sinh ở tháng Tị Ngọ, Nhâm Quý sinh ở tháng Thân Dậu, Canh Tân sinh ở tháng Thìn Tuất Sửu Mùi hoặc ở tháng Tị Ngọ đều là Nguyệt gặp Ấn thụ vậy. Như tứ trụ trong có gốc Quan tinh, chính là Quan Ấn tương sinh, phương thành quý nhân, thành Ấn thụ cách là chỗ tốt nhất vậy. Nếu hành vận đất Quan thì phát phúc là thanh trong về sau. Hành tử tuyệt vận, nhẹ thì tai ách bệnh tật, tổn thương nặng thì tử vong tang phục. Nếu hành đất Tài thì là Tham Tài phá Ấn, tai họa đủ điều.

        Lại nói:
        Trọng nặng sinh khí nếu không Quan,
        Thường lấy thanh cao kỹ nghệ xem.
        Quan Sát không đến không có lộc,
        Tóm lại có kỹ nghệ cũng cô hàn.

        Bổ túc: Nguyệt sinh nhật can, trụ năm giờ đều có Ấn thụ, vốn là sinh khí trọng nặng vậy, có Quan mà suy ra phương thành quý. Như không có Quan Sát, không phải là kỹ nghệ lưu thông thì quay lưng lại là bình thường. Tóm lại, kỹ nghệ thanh cao cũng không miễn được cô đơn, suy nhược, mà lấy hàn vi. Vì Ấn thụ vượng mà Tử tức hiếm là dừng lại.

        Lại nói: Ấn thụ can đầu trọng thấy Tỉ, như hành vận trợ thêm nhất định thương thân. Cách này không có tuyệt vời, vận nhập đất Tài phúc là chính xác.

        Bổ túc: Tháng sinh Ấn thụ, can đầu trọng nặng, vừa thấy Tỉ kiên Ấn thụ, lại hành vận Ấn vượng, nhất định thương thân. Vì mộc dựa vào thủy sinh, thủy thịnh thì mộc trôi nổi, phép gặp Nhâm Quý thủy trôi nổi, nhật chủ không có gốc thì uổng phí mức độ của mùa sinh. Ấn vượng gặp Tài chính là phát triển, cần nhập vận đến đất Tài chính là có thể phát phúc phát lộc, như thủy thịnh mộc trôi, nhất định cần hành bại vận, lấy thổ chế thủy thì thực vật cây cối sẽ có rễ là phúc, là chỗ tuế vận như hành Tài vượng vậy, ngược lại là hung biến thành cát mà gặp Vương hầu là vậy. 《 Cách giải 》nói chỗ câu Ấn thụ sợ nhập Tài hương không có thể ôm cố chấp là vậy.

        Lại nói:
        Ấn thụ Quan tinh vượng khí thuần,
        Thương quan gặp nhiều tinh thần chuyển.
        Như hành tử tuyệt cùng Tài địa,
        Không cứu thì về nơi suối vàng.

        Bổ túc: Ấn gặp Quan tinh, như biết chỗ hỉ thì là vượng khí thuần vậy. Thương Quan gặp nhiều, gặp như chỗ kỵ, thì không thể miễn chuyển mà không có sức sống vậy. Nguyên đoạn văn cũ là như vậy, mà hoặc là sửa đổi vượng khí thành vận khí, sửa Thương Quan thành Thiên Quan, để chuyển tinh thần thành có tinh thần thì không phải vậy.

        Lại nói:
        Ấn tinh thiên lệch là Kiêu thần,
        Trong trụ hỉ nhất thấy Tài tinh.
        Thân vượng phương gặp vốn là phúc,
        Thân suy Kiêu vượng càng vô tình.

        Bổ túc: Ấn tinh thiên lệch như Giáp sinh tháng Hợi, Ất sinh tháng Tý các loại. Không có Thực thì là Thiên Ấn, có Thực thì là Kiêu thần. Trong trụ thấy Thiên Tài Chính Tài thì cát, cho nên nói Thiên Ấn gặp Tài thì phát, lại nói Thiên Tài có thể lợi ích [ thọ ] , gặp năm thân vượng thì cát. Nếu thân nhược gặp Kiêu vượng thì thành họa. Chỗ gọi là Kiêu thần hưng thịnh mà sớm bị chết yểu vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #48
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        《Lạc Dịch phú 》nói: Ấn đến vị trí Tử tức, con cái được vinh. Kiêu ở vị trí tổ tông, thì phá hại cơ đồ tổ tông.
        Bổ túc: Hoặc nói Kiêu ở vị trí Tổ tông, thì phá hại cơ đồ tổ tông rất nặng, rất ứng nghiệm. Xem《 Lục Thân luận 》nói: "Ngày giờ có Sát Nhận gặp Kiêu, một nửa nói là vợ con ly tán" có thể gặp. 《 Cách Giải 》lại tiếp tục nói vị trí Kiêu ở vị trí tổ là phá cơ nghiệp tổ.

        《 Ngọc Hạp phú 》nói:
        Hoa Cái, Văn Tinh cùng cộng hội,
        Quan trì thành Ngũ bá lương thần.

        Bổ túc: Văn tinh là Ấn thụ vậy. Cho nên《 Thông Minh thiên 》nói: "Ấn thụ văn hoa vậy", chứ không phải Văn Xương là văn.

        《 Thốn Kim thiêm 》nói:
        Ấn thụ không hỉ gặp Lâm Quan,
        Cùng không mừng lại gặp Đế Vượng.
        Bát tự gặp Tài không chỗ dụng,
        Hành Tài không lợi tự dưng mất.

        Bổ túc: Lâm Quan là nhật can hành đến đất Lâm quan, Ấn gặp thì bệnh, cho nên nói không mừng thấy Lâm quan, Đế vượng. Là can hành đến đất Đế vượng, Ấn gặp thì chết, cho nên nói gặp cùng không vui, trong bát tự phát sinh thấy Tài tinh, hỉ thấy Quan tinh, như hành đến đất Tài vượng thì là Tham Tài phôi Ấn là gặp tai họa đủ điều. Như nơi hành đến đất tử tuyệt, tài vượng thì không có cứu trái lại là thành người nơi dưới suối vàng.

        《 Vạn Kim phú 》nói:
        Hạng nhất hạn đến quê Ấn thụ.
        Vận hành sinh vượng phải tốt vinh.
        Đất Quan hội hợp Thiên Quan chức.
        Tử tuyệt đứng đầu là họa tai.
        《Uyên Nguyên ca 》nói:
        Có Ấn không Tài là mối phúc,
        Hỉ gặp vị Quan sợ đến Tài.
        Chủ người bao quát văn chương giỏi,
        Một lúc Đan Trì hướng mang theo.
        ( Đan Trì: Chữ Đan là màu đỏ, cung điện đời xưa đều chuộng sắc đỏ, cho nên gọi sân hè nhà Vua là Đan Trì)

        《Vân Lý phú 》nói: Thủy phiếm giả hoạt mộc.

        Bổ sung: cách nói này là cách thủy phiếm mộc phù vậy. Như Giáp mộc sinh ở Hợi, thì như không. Ất mộc tử ở Hợi, thủy trôi mộc nổi, sợ không có hội tụ.

        Lại nói: Thủy thịnh thì mộc nổi không định, nếu hành thổ vận là phương vinh.
        Bổ sung: Đoạn văn ở trên luận âm mộc, chỗ này thì luận dương mộc. Nói Giáp mộc quy ở tử, là đất thủy bại, trong trụ thủy Ấn thái thịnh, mất thổ không có chỗ dừng. Sinh mệnh gặp phải thì chủ trôi nỗi không có định hướng, thích hoa thích tửu, mệnh không thành. Gặp thổ vận thì dừng được thủy, phát phúc là vinh.

        Lại nói: Tham Thực thông minh sợ mệnh dụng Kiêu thần là có bệnh.
        Bổ sung: Như nhật tọa Kiêu thần, hoặc can chi có Kiêu Ấn nặng, vận gặp Thực thần, nhất định chủ ngheo nàn mà sinh bệnh, lại mang theo hình pháp, lấy tai nạn bất ngờ. Cho nên 《 Áo Chỉ phú 》nói: "Năm, tháng, giở trong có Thiên Ấn, cát hung chưa nảy sinh. Đại vận, Tuế quân gặp Thọ tinh, tai ương lập tức đến"

        Lại nói: Mệnh dụng Kiêu thần, nhà giàu tự lo liệu quản lý.

        Lại nói:
        Thiên can hai Bính,
        Địa chi toàn Dần,
        Lại thêm sinh Ấn,
        Thấy chết gặp hung.

        Lại nói:
        Nhâm Quý nhiều kim,
        Khí sinh Dậu Thân.
        Thổ vượng thì quý,
        Thủy vượng thì nghèo.

        Lại nói:
        Quý nhật Thân đề,
        Tuế thời Dần Mão.
        Niên Sát nguyệt Kiếp,
        Lấy là cô thê.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #49
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Kỷ Hợi, Ất Hợi, Ất Sửu, Đinh Hợi. Lâm xuyên Hoàng Lương tam công phú mệnh, thủy trọng khinh.
        Nam viết:
        Thủy khí trọng nặng ở địa chi,
        Mộc phiêu, Thủy phiếm sẽ theo đâu?
        Cần nhất thổ vận đến khắc thủy,
        Tài bạch kim châu mừng có dư.

        Ất mộc sinh tháng Hợi, trọng nặng khí thủy theo trôi nỗi, sớm hành Quý Dậu, Nhâm Thân, mộc nhiều thấy thủy là bất lợi, vừa nhập 4 vận Tân Mùi, Canh Ngọ, Kỷ Tị, Mậu Thìn, thổ ngăn thủy lưu, tài phát hàng vạn đồng, chính là Ấn thụ nếu nhiều thì cần có Tài vậy.

        Đinh Hợi, Tân Hợi, Ất Hợi, Đinh Hợi. Lưu Tam tam công, cách cục thủy đa phiêu mộc.
        Nam viết:
        Ất sinh Hợi nguyệt thủy trọng nặng,
        Sát Ấn phân rõ tổ nghiệp lớn.
        Mậu Kỷ vận trong tuy phát phúc,
        Tái hành thủy vận tuổi thọ hết.

        Ất mộc sinh tháng Hợi, thủy khí trọng nặng, nhưng mà hỉ thuần túy, gốc thủy không bị cái đầu. Được Tổ Tài phong phú, Kỷ Dậu Mậu vận, rất nổi tiếng, Dậu địa Sát khinh được lộc vậy. Vốn Sát tinh thấy thủy, nhiều tiết khứ mất sức sống, sát nhược nhập Dậu được lộc, sống chết rất nhiều. Vừa vào Thân vận, Nhâm thủy thái vượng, thủy đến làm phiếm mộc mà chết.

        Nhâm Dần, Tân Hợi, Đinh Tị, Tân Hợi. Lưu Anh Thiên cửu công phú mệnh, cách cục suy Ấn sợ Tài.
        Nam viết:
        Đinh hỏa đến sinh can Hợi nguyệt,
        Mộc thần loại tụ hỉ tương liên.
        Trụ trong sợ nhất kim thành bệnh,
        Vận nhập Đông phương phúc lộc toàn.

        Đinh hỏa sinh ở tháng Hợi, hỏa thần suy nhược, hỉ có can năm thấu xuất Nhâm thủy, Đinh nhâm hóa mộc ở Hợi là loại tụ mộc thần, dụng thần không cần. Được Tị cung có Canh đến làm tổn mộc, thì Kim là bệnh rõ ràng. Vận hành Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh vận, khô mộc gặp Xuân, lại hỉ có hỏa phá Canh kim lưu tồn mộc, phú hưởng an nhàn. Nhập Tị cường tặc phá hại nhà, gặp họa con mất, cái sợ Tị trong có kim đến khắc mộc vậy. Ngọ Mùi mộc tử mất thọ.

        Ất Sửu, Tân Tị, Kỷ Tị, Canh Ngọ. Phong thành Tôn Thế Hữu bố chính quý mệnh, vượng biến thành nhược dụng Ấn cách.
        Nam viết:
        Kỷ thổ tuy nhiên tọa đất vượng,
        Trọng nặng khí kim tổn tinh dương.
        Vượng trung biến nhược đến thân Ấn,
        Sát vận ứng biết giúp Miếu Lang.
        ( Cái điện trước cung vua, vì thế nên mọi sự cử động của vua đều gọi là Miếu; Lanh là hành lang. )

        Kỷ thổ tuy sinh tháng Tị, vốn là khu vực hỏa sinh. Sao nói kim khí trọng nặng? Kỷ thổ thấy kim là tiết kỳ tinh khí, dựa vào có tam trọng hỏa khí, nói chung là thổ thích ấm mà sợ hàn, thì Kỷ thổ thân thiện với hỏa là Ấn thụ. Vận hành Kỷ Mão, Mậu Dần, Sát tinh thái vượng, cho nên nói là Ấn khinh dựa vào có Quan Sát để sinh cho nên đến địa vị là phương làm vương bá. Tây nội vận hỏa khinh, là do cần phải bổ sung để bắt đầu hỏa đến. Đại vận nhập Tý thấy Tài mà phá Ấn, Tài chính là vợ vậy, bởi vì do vợ mà gặp họa vậy. Cái gốc không có thủy chỉ có hỏa thổ, thì Đông phương thủy vận là không tốt, chỗ này thì thổ hư mà thích hỏa, sợ thủy làm tổn thương hỏa, Tý vận chết là rõ ràng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #50
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nhâm Tuất, Nhâm Dần, Đinh Mão, Mậu Thân. Sùng Nhân phương vũ thập lăng trì tử, Tham Tài phôi Ấn.
        Nam viết:
        Đinh hỏa sinh Dần mộc khí nhu,
        Tài đến xung Ấn liền thành lo.
        Tái hành Tài vận tai khó miễn,
        Thẳng đợi lăng trì chết mà thôi.

        Đinh hỏa nhật can, sinh ở Lập Xuân sau hai ba ngày, khí còn hàn lạnh mà mộc lại còn rất non nớt. Chính là Mộc nộn hỏa suy, không hợp có năm tháng hai điểm Nhâm thủy, lại tiếp thấy thấp hỏa, thấp mộc, thời thượng Thân cung là Canh kim xung mất nộn mộc. Mà có Tuất thấu xuất rồi, chi năm Mậu thổ thấu xuất, can tháng là chân thổ, chính là lấy hỏa thổ Thương Quan dụng Ấn, không hợp suy Ấn bị thương. Vừa vào vận Tị, Canh kim được sinh ở Tị, phá mất Ấn suy, bởi vì đánh chết Nhạc An Đông, thuật lại người nói số mệnh có nhiều chữ Nhâm, thì trở thành vũ lực, thẩm vấn là lăng trì. Khác hẳn các tội trạng mà nguy hiểm. Cái thấu xuất Thương Quan, thân suy dụng Ấn, Ấn lấy thụ thương, cho nên phạm cực hình này.

        Ất Hợi, Quý Mùi, Đinh Mão, Giáp Thìn. Phủ thành quá Hoàn Cửu công, mộc vô kim chi cách.

        Nam viết:
        Đinh sinh Mùi nguyệt hỏa dương uy,
        Thấy mộc trọng sinh không biết hỏa.
        Đại hỉ Canh Tân làm tổn mộc,
        Tiếp hành mộc vận vốn không nên.

        Đinh hỏa sinh tháng Mùi, hỏa thần vượng, lại thấy mộc nhiều, trái lại là trợ giúp viêm nóng thêm mãnh liệt. Ban đầu hành vận Tân Tị Canh, mộc nhiều thấy kim mà khắc, hành Tài có phần phải theo đuổi. Nhưng mà tứ trụ gốc không có một điểm kim khí, Tài thần không có gốc, sinh Tài mà không khắc hết thông suốt. Hành là thê, hành Dần Mão trợ giúp Tỉ Kiếp cướp thê. Đến chỗ này thì loại bỏ vợ mà xa con, thân gặp bất lợi, chẳng lẽ không phải mệnh đến như thế ư?

        Tân Mão, Tân Mão, Mậu Dần, Nhâm Tý. Mệnh khứ Quan lưu Sát đồng Ấn.
        Nam viết:
        Khứ Quan lưu Sát lý phân rõ,
        Chủ nhược phân rõ dụng Ấn tinh.
        Vận nhập Nam phương Phu Tử vượng,
        Gặp Thân phá Ấn họa đến cùng.

        Chi năm lưỡng trọng vị trí Ất là phu tinh, gặp thiên can lưỡng Tân khứ, chỉ đơn độc dụng Dần trong có hai chữ Giáp Bính. Sớm hành vận Nhâm Quý, trùng điệp làm tổn hại con, là Nhâm Quý thương tổn Ấn vậy. Nhập Tị, Bính hỏa được lộc, sinh con mà chồng mạnh, Nam phương hỏa vượng, tài hưởng an phúc. Thoát khỏi Giáp gặp hoạn tật mà chết, là do Nhâm thủy phá Ấn vậy.

        Ất Mão, Mậu Dần, Bính Tuất, Ất Mùi. Phú Nữ mệnh, vô phu nhập cách.
        Nam viết:
        Bính hỏa sinh Dần thổ thấu thiên,
        Không chồng nhập cách phúc liên miên.
        Thân suy cần vào Nam phương vận,
        Dụng Ấn phân rõ khởi ngẫu nhiên.

        Bính hỏa sinh tháng Dần, Dần đúng ở Cấn thổ, Mậu không lại có thổ, can tháng có Mậu thổ thấu xuất, tháng Dần hỏa hư, thổ tiết tinh anh thái quá, chính là lấy hỏa thổ Thương Quan dụng Ấn. Cái Thương Quan suy dụng Ấn, gốc là hỉ có trong trụ không thấy Phu tinh. Gốc nếu có Phu hành Nam phương vận, nhất định là chủ cô bần, chỗ này thì gốc không có Phu tinh, thì không luận Phu vậy, cho nên Nam phương vận, trợ giúp phu sinh con mà giàu có. Lại lấy hỏa hư có chiếu sáng, vừa vào vận Thân, thấy kim phá mộc mà chết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 5/18 đầuđầu ... 3456715 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 0
        Bài mới: 05-06-13, 16:33
      2. Dụng thần Tứ trụ và Phong thủy???????????
        By athaiathai in forum Tử bình
        Trả lời: 0
        Bài mới: 18-01-13, 20:37
      3. Kỳ môn phong thủy khẩu quyết
        By thoitu in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 02-08-12, 09:29
      4. Thần Khảo Âm Trạch
        By hoa mai in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 11-05-11, 01:18
      5. Xin các bác mách cho em địa chỉ thầy xem phong thủy
        By morality in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 2
        Bài mới: 18-08-10, 22:40

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •