Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 6/18 đầuđầu ... 4567816 ... cuốicuối
    kết quả từ 51 tới 60 trên 177
      1. #51
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Dương Nhận cách phụ Tỉ Kiếp, Kiến Lộc cách

        Nam viết: Dương Nhận cách, Lục Dương nhật can ở vị trí Dương Nhận vậy, Lục Ấm nhật can không có vị trí Nhận.
        Nhưng mà Thuyết dụng Nhận, lý là chưa nghiên cứu thì ngu muội mà không biết vậy. Sách nói Dương Nhận không xung có thể đạt đến hàng cực phẩm. Cái Giáp nhật sinh ở tháng Mão, Giáp thấy Mão trong có Ất mộc, như huynh thấy đệ, thì có thể phân chia tổ tài của ta, đoạt lấy tổ nghiệp của Ta. Lại thêm năm, ngày, giờ trong có mộc lại có khí, sao mà dụng Ất mộc tiếp tục trợ giúp Ta ư? Như vậy thì không dụng Nhận vậy, mà lấy Nhận là bệnh thì dụng Canh kim Thất Sát. Nếu khứ Nhận, trùng điệp có Tài Quan Thất Sát thì nhật can tuy vượng sẽ biến thành nhược, chỗ này thì Giáp Nhận là dụng thần. Nếu hành Dậu vận, xung khứ Nhận tinh, giống như con người suy nhược không có lực, đều cần phải có em đến phù trợ, lệnh bị Dậu kim giết chết em của ta vậy, thì chủ gặp việc cực hung, gặp họa cọp rắn sát thương vậy. Nếu như đợi đến chỗ này thì cần phải có vận Ấn thụ, Nhận tinh của Ta phát sinh vậy. Tỉ kiên vận, lấy trợ khởi cho Nhận tinh. Lại không có Sát thì Nhận không hiện, không có Nhận thì Sát không có uy. Nhật chủ vượng, được Sát để hợp khứ kỳ Nhận tinh. Nhưng Sát là con người, Nhận là khí, Nhận Sát đình quân, phần đa làm nên hình luật trong quân đội là quan vinh hiển, nếu nhật chủ nhược thì Nhận làm trợ giúp, thấy Quan Sát nhiều, chế khứ Nhận, phần đa chủ là kẻ chờ cướp nàng hầu, nhưng Dương Nhận cách, cùng Kiến Lộc cách có phần hơi giống nhau. Nhưng mà Kiến Lộc không nói Nhận, cái ngày ở nguyệt lệnh đều giống nhau về hình thể thuần hòa vậy. Tứ trụ thái vượng, lại lộ xuất ra Đinh hỏa gần thân, là Nhận càng rực cháy thì thân lấy Quan yên ổn mà không được chỗ ư? Như mệnh Hạ Trụ Châu là rất ứng nghiệm..

        Kiến Lộc cách là nhật chủ được đất Lộc, không phải là quan lộc vậy. Sách nói Nguyệt lệnh Kiến Lộc, phần đa không có Tổ ốc, mà không nói rõ lý lẽ, con người dụng Tài là Mã, dụng Quan là Lộc, giả như Giáp nhật sinh tháng Dần, Giáp lấy Tân là Quan, Kỷ thổ là Tài, Tài Quan đến Dần là đất tử tuyệt. Con người thì lấy Tài làm Tổ nghiệp, lấy Quan là phúc thần, Tổ là phúc thần đều là nguồn gốc, cách này đa số là không có Tổ nghiệp là rất nghiệm. Vốn là Giáp nhật sinh Dần, nhưng ở trên chính là bỏ Giáp mộc, Tài Quan lại để trống, lại yên ổn mà có Tổ ốc ư! Can năm nêý thấy Lộc này, cùng chủ Tổ nghiệp trôi nỗi. Thấy mang theo cách này, đa số là chủ hình thê, cùng Dương Nhận cách giống nhau. Như Giáp nhật thấy Dần, Dần trong có Giáp mộc đến khắc thê vậy. Như tứ trụ có khí thái vượng, không thong thả mà Kiến Lộc cách, cần có Quan Sát khắc chế kỳ Lộc, cần Tài tinh để thành thân vượng mà cầm. Nếu có một ít năm, ngày đúng hưng thịnh, Tài Sát quá nhiều, tức là biến vượng thành nhược cũng cần có Ấn vận để sinh phúc thần, cần vận chuyển động để trợ khởi cho Lộc vậy. Lại như ngày vừa thấy Tài Quan, tự nhiên mà phát phúc. Thân vượng, gốc là bỏ ruộng đất nhà cửa mà bên trong không có Tài Quan, hì không có tổ nghiệp, nếu thân vượng thì có thể đảm nhận tài, khởi không phải tay trắng mà thành gia ư?
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #52
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bổ sung: Nói về Dương Nhận thì ở trời là Tử ám tinh, chuyên hành chém giết, trừng phạt. Ở đất thì là Dương Nhận sát, là trước Lộc một vị trí vậy. Hỉ có Thất Sát phục dưới, thì Dương Nhận khởi ở bên cạnh Tuất, phát phú phát quý, đa số là làm tướng sói.
        Cho nên 《 Thiên Lý Mã 》nói: "Dương nhận thiên quan hữu chế, ứng chức chưởng vu binh quyền."
        《 Tam Xa Nhất Lãm 》cũng nói: "Dương Nhận nếu cùng sinh khí, bậc cửa bên trong bất cứ ai cũng nắm quyền, kỵ phản phục ngâm";
        Sách nói: Gặp ngâm thì phản Nhận, tuế vận cùng mệnh giống nhau, như Mão thấy Mão, Dậu thấy Dậu vậy. Gặp thì nhất định hung, tức là tuế vận cùng đến tai ương lập tức gặp vậy. Sao gọi là vặn ngâm? Chính làvị trí xung kích vậy. Như Dậu xung Mão Nhận, Mão xung Dậu Nhận vậy. Đến chỗ gặp, tức là Dương Nhận xung hợp với Tuế quân bỗng nhiên họa đến vậy, kỵ Dậu Nhận tam hợp với tuế quân, Lưu niên thấy Tuất, mà Mão Nhận thành tam hợp, lưu niên thấy Kỷ Sửu, mà Dậu Nhận tam hợp, như lưu niên thấy Tuất, mà gặp Mão là lục hợp, lưu niên thấy Thìn, mà Dậu là lục hợp, con người năm đó gặp thì họa nhất định đến rất nhanh, tức là Dương Nhận hợp Tuế Quân, đột nhiên họa đến là vậy. Kỵ Khôi Cương hình hại, hoàn toàn không có Quan Ấn, phúc thần tương trợ thì thành họa, có Quan Ấn, phúc thần tương trợ thì lại thành phúc, hóa thành có quý.

        Sao gọi là Dương Nhận? như Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là ngũ dương có Nhận, Ất Đinh Kỷ Tân Quý là ngũ âm không có Nhận, nói tên là Dương Nhận, như trong mệnh có Nhận, không thể liền nói là hung, nói chung là cùng Thất Sát giống nhau. Phàm có Nhận thì đa số có phú nhân, hỉ nhất là thân vượng tọa Lộc, hợp Sát có chế, Sát Nhận lưỡng toàn, là mệnh phi thường.

        《Tam Xa Nhất Lãm 》nói: Dương Nhận có 2 hoặc 3 cách. Có Kiếp tài Dương Nhận, như Giáp thấy Ất vậy, không lợi ở Tài Quan cách. Bảo vệ Lộc mà kéo dài Nhận, như Giáp thấy Mão vậy, đại lợi ở Quy Lộc cách. Vì thế nói như vậy là xác thực.
        Nếu Ất thấy Bính, gọi là Đảo Lộc Dương Nhận, thì không phải vậy. Cái Kỷ thấy Bính, danh là Bối Lộc Thương quan, thành đại lợi ở nơi Khứ Quan lưu Sát. Danh là Bối lộc Dương nhận, cách giải rất là miễn cưỡng. Cũng là thuyết Ất thấy Bính, sợ không chịu, đúng vậy.
        Lại nói: Kiếp Tài nhiều cách, đại kỵ Tài Quan càng nặng, tuy nhiên cũng có lúc dùng.

        《Hỉ Kỵ thiên 》nói: Nhật can vô khí, thời gặp Dương Nhận không là hung.
        《 Kế Thiện thiên 》nói: Quân tử đúng cách, cũng phạm Thất Sát Dương Nhận. Lại nói: Giáp lấy Ất muội gã làm vợ cho Canh, hung thành cát. Chỗ này xem ra lại không thể chấp nhất mà luận vậy.
        《Hồng Phạm 》nói Dương Nhận hỉ đoạt của cải mà hóa quỷ.
        Lại nói: Thân yếu mà tài phong phú, thì hỉ có Dương Nhận khiến cho đệ thành trợ giúp.
        《Toát yếu 》nói Dương Nhận sợ xung mà cần hợp.
        《 Dịch Giam 》nói Dương Nhận trọng nặng thì nhất định khắc thê.
        《Thốn Kim phú 》nói Kiếp tài thương phụ lẫn thương thê.
        《 Vạn Kim phú 》nói: Kiếp nếu trọng gặp thì người yểu thọ.
        《Nguyên Lý phú 》nói: Sát Nhận lại hiện quân đình, địa vị đến Vương hầu. Sát Nhận nặng mà không có chế, thân thành quan lại.
        Lại nói: Nam nhiều Dương Nhận nhất định trùng hôn.
        Lại nói: Dương Nhận không hỉ hình xung.
        《 Vạn Thượng Thư phú 》Quan tinh mang theo Nhận, chấp chưởng uy quyền vạn tướng.
        Lại nói: Thương Quan có Nhận, làm tướng công hầu. Lại nói: Ấn Nhận tương đương, quan cao cực phẩm.
        Lại nói: Sát Nhận hưu tù, kẻ sĩ lộc ít, lại nói: Sát chế Nhận hưng, chủ chấp chưởng quản lý binh tốt tốt. Nếu là dụng thần khinh nhẹ, quyết là quan lại thấp hèn. Lại nói: Nhận kèm Thương Quan, hội tụ một chút mây xanh.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #53
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Cổ ca nói:
        Dương Nhận Thất Sát sợ gặp Quan,
        Hình xung phá hại họa phi thường.
        Sợ nhất Tài vượng nơi tam hợp,
        Đứt đoạn nảy sinh chủ tàn ngụy.
        Lại nói:
        Xuân Hạ hỏa gặp thời lại vượng,
        Thu Kim Đông thủy cùng giống nhau.
        Không cần Dương Nhận thiên can thấu,
        Vận đến trọng phùng định có hung.
        Lại nói:
        Kiếp Tài Dương Nhận không kham lấn,
        Không mang Quan tinh cả đời bần.
        Giáp Ất cùng gặp này đều giống,
        Dẫu nhiều tài bạch hóa bụi tro.
        Lại nói:
        Thương Quan không kỵ Kiếp tương phùng,
        Thất Sát Thiên Quan lý cùng đồng.
        Nếu là không Quan không kỵ Kiếp,
        Thân cường gặp Tỉ Kiếp nặng ngờ.
        Lại nói:
        Kiếp tài Dương Nhận hai đầu trú,
        Bên ngoài thì sáng bên trong hư.
        Quan Sát hai đầu đều không xuất,
        Thiếu niên chết yểu che thở than.
        Lại nói:
        Giáp Tý, Đinh Mão không phải Nhận,
        Ất Dậu, Canh Thân lý cũng đồng.
        Hợp khởi nhân nguyên Tài Mã vượng,
        Trung niên hiển đạt phú hào ông.
        Lại nói:
        Nhật Nhận quy thời thân cần vượng,
        Chính Tài kỵ vận kỵ gặp xung.
        Mà như Mậu nhật Ngọ là Nhận,
        Tý Sửu kiến Tài lập tức hung.

        Tài vận không xung lại không kỵ,
        Quan tinh chế Nhận được tôn vinh.
        Nguyệt trong có Ấn, Ấn này thông,
        Vận đến Quan hương quý cũng đồng.

        Trụ nếu Tài nhiều ngại Sát vận,
        Không Tài, Sát vận hỉ hưng long.

        《 Túy Tỉnh Tử Khí Tượng thiên 》nói: Quyền Nhận lại hành đất Quyền Nhận, thuốc Nhận sẽ làm mạng vong. Gốc chú thích nói: Quyền là Sát vậy, Nhận là quân đội vậy. Thân vượng dụng hai vị này, chính là người đứng đầu dụng binh hình vậy. Sát vượng hỉ hành ở quê hương, Nhận vượng bị tổn hại ở Sát địa, nếu gốc Sát vượng phục hành đất Sát vượng, là xây dựng sự nghiệp nơi công lý, không thể miễn chết bởi dưới lưỡi đao kiếm. Nhận nhiều lại hành đến đất Dương Nhận, tiến lộc được ở Tài, tất nhiên cuối cùng lại là nơi gian nhà thuốc bằng đá, là do số sai khiến vậy.
        Lại nói: Trợ thân là Dương Nhận, hỉ hợp mà sợ xung.
        Gốc chú thích nói: Nhận chính là vật trợ tài thân, sợ nhất là gặp thân vượng, được một Sát cùng Nhận tương hợp, hóa thành quyền tinh. Nếu thấy Quan cùng Nhận xung chiến, chính là thành ác tính sát nhân. Dụng cần phải suy xét khinh trọng, giống như tốt và xấu như thế nào vậy.
        Lại nói: Dương Nhận đến nơi ngũ quỷ, xác định cần phải phạm nặng việc di dời.

        Gốc chú thích là: Như người sinh Nhâm Thân thì Ngũ Quỷ ở Tý. Người sinh Quý Dậu thì Ngũ Quỷ ở Sửu. Người sinh Bính Dần thì Ngũ Quỷ ở Ngọ. Người sinh Đinh Mão thì Ngũ Quỷ ở Mùi. Giống như là loại Tam hợp vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #54
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nhất hành sư 《 Mệnh thư 》nói: Dương Nhận trọng nặng lại thấy Kiến Lộc, phúc quý kim ngọc, này có thể là cát.
        《Lý Ngu ca 》nói: Đảo Qua Sát, Huyền; Nhận lại đồng hành, hình thể không thể miễn cùng giống nhau.
        Gốc chú thích là: Đảo chính là Đảo qua sát, Huyền chính là Huyền châm sát. Phàm gặp Đảo qua sát, chỉ có phạm chữ Mậu, đều nói là Đảo qua. Huyền châm là can lấy chữ Giáp, cùng chữ Tân, ban tế lễ thì lấy chữ Mão, chữ Ngọ cùng chữ Thân, chỗ này đều gọi là Huyền Châm Sát vậy.
        《Kỳ Tiệt ca 》nói: Dương Nhận lại thêm Đảo qua, nhất định lấy cảnh làm quỷ tự sát.
        Kinh nói: Vận phùng Dương Nhận, tài vật hao tán.
        Luận về Nhận, xưa có nói: Nhật Nhận có Tuất Ngọ, Nhâm Tý ba ngày, cùng Dương Nhận phép giống nhau, kỵ hình phá hại hội hợp, thích Thất Sát, cần hành đất Quan thì là quý mệnh. Nếu tứ trụ gặp thứ nhất là hội hợp, nhất định chủ tai họa. Người chủ rất cần phải cường, tính cương quả nghị, không có tâm trắc ẩn, nhân từ, có khắc cướp, bất chấp không thương hại, có tam hình, khôi cương, thì phát tại ở nơi chiến trận. Như hoặc là vô tình, hoặc là lâm Tài vượng, thì chủ tai họa. Hoặc có Xá thần, như hình hại đều đủ, giống như đều đắc địa, quý không thể nói,khi nói chỉ có đơn độc là Dương Nhận, trong tứ trụ không cần nhập đất Tài, sợ xung Dương Nhận. Như Mậu nhật Nhận ở Ngọ, kỵ hành Tý chính là Tài vận; Nhâm Nhận ở Tý, kỵ hành Ngọ chính là Tài vận; Canh Nhận ở Dậu, kỵ hành Mão chính là Tài vận; Giáp nhận ở Mão, hành Tị Ngọ cùng Thìn Tuất Sửu Mùi là Tài vận không phương, kỵ Dậu vận; Bính nhật Nhận ở Ngọ, hành Thân Dậu Canh Tân Tài vận không phương, kỵ Tý vận.

        Luận Tỉ kiếp , nói đến Tỉ Kiếp là dương thấy dương, âm thấy âm, là Tỉ. Như Giáp thấy Giáp, ất thấy ất các loại đều là hại thê, hại tử. Ngũ dương thấy ngũ âm như Giáp thấy Ất, là huynh thấy đệ, là Kiếp Tài, không khắc thê. Tài là do tâm mong muốn mà có, phương làm cho thấy nhiều thì có tranh cạnh, như bình thương như nhau thì có mấy người.
        《 Lục Thân tiệp yếu luận 》nói: Phân ra lộc cần phải đả thương chủ mà đem tặng cho người, cũng ví như là bệnh tật nguy kịch trùng điệp làm tổn hại nghiêm họ hàng thân tộc.
        Bổ sung: Tài đa thân nhược, hỉ có Tỉ Kiếp tài phù trợ là phúc. Cho nên nói Nam gặp Dương Nhận mà thân nhược, gặp là thành kỳ, Tài khinh mà thân cường thì mới kỵ đoạt. Cho nên nói Dương Nhận nhiều mà Thê cung có tổn hại.
        Ca viết: Giáp Ất cùng thấy tất thương thê, Bại tài khắc cha định là không thể nghi ngờ.
        《Kim Bất Hoán 》nói: Thân vượng mà Tỉ Kiếp trọng, tổn tài lại thương thê. Tỉ Kiếp gặp Kiêu Thực, thê gặp sinh sản mà lâm nguy.
        《Lục Thân luận 》nói: Nguyệt trong quy lộc không có Tài Quan, thì cha mất mà ly hương. Lại nói: Nhật gặp Nhận giờ gặp Kiếp, thê sinh bị chết. Lại nói: Ngày giờ có Bối Mã phân Tài không có cứu trợ, vợ con ly tán.
        《Toát Yếu 》nói: Tỉ kiên cần gặp Thất Sát chế.
        Kiến Lộc cách 《 Hỉ Kỵ thiên 》nói: Lệnh sớm gặp Kiến Lộc, hợp mạnh hội Sát thành hung 《 Cách Giải 》Hai thuyết nói trước đợi mà xem. Chỗ này đúng cần lấy để truyền không phạm khuyết điểm, nhưng không gặp hoàn toàn Kiến Lộc vừa nói, lại phụ chú là Chính Quan cũng không phải.
        Xưa chú thích: Lấy hội Sát, là ám nhằm vào Thất Sát là hung triệu. Như Giáp nhật dụng tháng Dậu là Quan tinh chính khí, như năm giờ là Tý Thìn, thì hội khởi Thân kim là Thất Sát, chính là kẻ xâm lược Giáp, cho nên là hung. Nhưng lộc của Quan lộc, dụng chữ lệnh tuy cùng gặp chữ thấy khiên cưỡng. Huống chi Tý Thìn ám hội, là hợp thân với Sát. Lại còn liên quan đến hội không thể tòng.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #55
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Hoặc nói là hội Sát, nói là tọa thấy Thất Sát. Năm, giờ thiên can đều hiển lộ, địa chi ẩn tàng. Không có chế phục vốn là vậy. Tựa như là thắng chú thích trước đây. Cũng cùng chữ lệnh, được chữ phùng chữ kiến không nhận, cũng không có thể tòng. Hoặc giả như lại lấy Nguyệt lệnh Kiến Lộc, chỗ này vốn là đúng, nhưng mà không có chú giải. Ngu dốt bổ sung nói rằng Kiến Lộc, nguyệt lệnh thập can lộc là vậy, không phải là lộc của quan lộc. Như Giáp Ất lộc ở Dần Mão, Bính/ Mậu lộc ở Tị, Đinh/ Kỷ lộc ở Ngọ, Canh lộc ở Thân, Tân lộc ở Dậu, Nhâm lộc ở Hợi, Quý lộc ở Tý là vậy. Hội Sát như thiên can đã thấy Sát, địa chi hội hợp Sát vượng gọi là vậy. Như Giáp lộc ở Dần kỵ Canh Sát, Ất lộc vượng hành là lộc, cũng không cần quá vượng. Hỉ thấy Tài cung, cùng thiên can thấu lộ, cho nên nói Kiến Lộc sinh Đề Nguyệt, Tài Quan hỉ thấu thiên, khôngt hích thân ở vượng địa, duy chỉ có hỉ Mậu là gốc Tài. Lại như nhật nguyệt lệnh Kiến Lộc, đa số là không có tổ ốc. Vừa thấy Tài Quan, tự nhiên thành phúc. Thì phúc suy nhược, trái lại là hung họa, cho nên ngày Ất mộc sinh ở Mão, Canh Tân can thượng gặp. Hỏa vượng người phát phúc, Sát địa hết Thọ nguyên.
        Lại nói: Xuân mộc không có kim không là kỳ, kim nhiều càng sợ trái lại là gặp nguy. Trụ trong lấy được khí trung hòa, phúc thọ càng yên tỉnh cần cho trăm sự. Lại nói: Nguyệt lệnh Kiến Lộc, hội Sát thành hung là có thể vậy. Lại lấy thêm tuy gặp từ thiết kỵ là sao vậy? Kiến Lộc thì thân vượng, có Tỉ kiên phù trợ cho nên không sợ Sát. Nhưng Sát như mãnh hổ, có phục chế thì thành quý, nếu không có chế mà hội Sát vượng, không nói thân cường nhược, nhất định là hung, huống chi Kiến Lộc cách chỉ hỉ Tài Quan, tốt nhất là không hỉ thấy can mang theo Sát mà chi hội vượng, cho nên nói Nguyệt lệnh tuy phùng Kiến Lộc, thiết kỵ hội Sát hung. Thì tuy có gặp chữ “phùng” chữ “thiết kỵ” , mới có bỏ quên, thiết lập chữ “lệnh” rõ ràng không nên khiên cưỡng. Cho nên lấy thuyết này, lại là sử dụng đệ giải phá hai tuyết trước.
        Lại như 《 Quan Động Huyền Kinh 》nói: "Giáp dĩ dần lộc, canh nhâm bản phi giá." Lại nói: “Lộc có thể lấy vọt lên cao hưng thịnh, có lấy ở vô dụng” thì tuy có chữ “thiết kỵ”, có khinh trọng mà châm chước rõ ràng.

        Ví dụ: Hỉ kiến Tài Quan.
        Canh Tý, Mậu Tý, Quý Sửu, Canh Thân. Hàn Thị Lang tạo.
        Nhâm Thân, Bính Ngọ, Kỷ Hợi, Canh Ngọ. Triệu Thừa Tướng tạo.

        Ví dụ: Kiến Sát hữu chế.
        Tân Sửu, Canh Dần, Giáp Thìn, Ất Hợi. Hạ Thừa Tướng tạo.
        Mộc vượng xuân lệnh, nhật can đầu Quan Sát nối liền, chỉ luận Sát, vận hành Bính Tuất Đinh, chế Sát hương, trở thành đại quý vậy. Huống chi Giáp Ất cùng Canh Tân kim đều thành phối ngẫu. Cho nên là không kỵ Sát vậy.

        Ví dụ: Hội sát vi hung.
        Tân Sửu, Tân Mão, Ất Sửu, Canh Thìn. Thi Hồng phú mệnh cách.
        Ất lộc ở Mão, can đầu đều thấu lộ Canh Tân, hỉ hành Tuất Hợi hai vận, mộc hỏa vượng vị, đất chế phục là phát phúc. Nhập Dậu vận, Sửu Dậu hội Sát vượng, bỏ mạng mà chết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #56
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nhâm Dần, Đinh Mùi, Bính Dần, Nhâm Thìn. Hạ Các lão quý mệnh, hỏa hữu dư thủy bất túc cách.
        Nam viết:
        Bính hỏa viêm sáng cháy nếu nấu,
        Cần hành Sát vận cứu bốn phương.
        Canh Tân Nhâm Quý đăng Hoàng Các,
        Ấn Tỉ trọng nặng thọ tạ thế.

        Bính Dần nhật chủ, năm tháng hỏa khí rất nóng được trụ năm giờ có Nhâm thủy giá xuất, chính là thủy hỏa có Ký Tế lập công, nhưng mà tứ trụ khí hỏa thổ còn thắng, khí kim thủy còn nhẹ vậy, cho nên lấy vận đến Nhâm Tý, Quý Sửu, can chi đều là thủy, thành khí thủy không vượt, lấy bổ sung thủy vậy, do đó vận bước lên Hoàng Các, bây giờ gọi là Thủ tưóng vậy. Quý là ở Nguyệt nơi Đinh Mùi, thấu xuất Dương Nhận, hợp khứ Nhâm Sát, chính là Nhận Sát tương trợ, uy quyền vạn dặm. Vừa vào vận Giáp Dần, trợ khởi hỏa khí thì lại hỏa có dư mà thủy không đủ vậy. Là dựa vào Đinh hỏa Dương Nhận thấu xuất vậy, chính là Dương Nhận Đảo Qua, nhất định lấy quỷ không đầu, Giáp vận mạng vong.

        Nhâm Dần, Đinh Mùi, Bính Thân, Nhâm Thìn.
        Nam viết:
        Bính Đinh Mùi nguyệt hỏa tuy viêm,
        Thủy khí trọng lại gần lại không phải.
        Hỏa khí nếu suy cần mộc vận,
        Tiếp hành thủy vận họa liên miên.

        Bính hỏa tuy vượng, không hợp Hạ Chí sau lúc Nhị Ấm, thủy khí tiến khí, lại thêm Bính ở Thân vị, tam hợp hỏa cục, thủy có dư mà hỏa không đủ vậy. Mà như ở Bính hỏa cuối mùa, kim thủy tiến khí, hỏa khí tương suy. Nếu Hạ Các Lão sinh ở Bính hỏa đầu mùa, hỏa thần chính vượng. Mệnh này tái hành Nhâm Tý, Quý Sửu, không khởi Sát trọng thân khinh chăng. Sơ hành Tây phương, ở trên lấy không thuận lợi mà làm nhà nho giáo, tái hành Bắc phương mà làm ăn mày. Mệnh này vốn là không tương xứng sắp xếp vào ví dụ này, nhưng cùng tạo Hạ Thôi Châu chỉ khác có một chữ, cho nên sắp xếp giống nhau để tiện có ví dụ mà so sánh vậy.

        Canh Ngọ, Tân Tị, Bính Thân, Nhâm Thìn.
        Nam viết:
        Bính hỏa tuy sinh được đất Lộc,
        Không kham Tài Sát nặng mênh mông.
        Biến cường thành nhược nhiều bần yểu,
        Lại nhập Tài hương thọ sao dài?

        Bính hỏa tuy đắc lộc ở Tị, không hợp tứ trụ có nhiều khí thủy thắng, sớm hành Ngọ Mùi vận, hỏa vượng trợ thân, áo cơm có phần no đủ, vừa vào vận Thân, Tài Sát quá nhiều, mang bệnh tật mà chết. Có người sinh giờ Ất Mùi, hỏa vượng rất vượng, nhập Tây phương có khả quan, chỗ này là mệnh Ngô Đô Chiêm vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #57
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Tạp khí Tài, Quan, Ấn thụ cách. Phụ thời mộ cách.

        Nam viết: Tạp khí Tài Quan là 4 chữ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, chính là khí thiên địa bất chính, là bốn vị trí chỗ lao ngục của thiên địa, lại là 4 chỗ được cất giữ lại trong kho ( khố) khí của trời đất. Như ngày sinh là Bính Đinh ở tháng Thìn, nếu như thiên can đều thấu Mậu Kỷ nhiều thì lấy tạp khí hỏa thổ Thương Quan cách; như thấu xuất Ất mộc nhiều thì lấy tạp khí Ấn Thụ cách; như thấu xuất Quý thủy nhiều thì lấy phương tạp khí Tài Quan cách; như ngày Mậu sinh tháng Tuất, thân nhược thấu Đinh hỏa nhiều thì lấy tạp khí Ấn thụ cách, thấu Tân kim lấy tạp khí Thương Quan cách.
        Lại viết: Tạp khí Tài Quan hỉ thấy xung. Duy chỉ có Nhật can vượng, là dụng tạp khí Tài Quan, hỉ thấy gốc Tài tàng thiên địa ỡ trong khố thì gắn bó bền vững, kiên cố. Như ngày Mậu sinh ở tháng Thìn, thấy Quý Ất là Tài Quan, là tiền bạc ở trong khố, là vô cùng bền vững, nếu không có giờ Tuất thì chìa khóa làm sao mở được, xung khai Tài khố, dĩ nhiên là phúc đức hưng long vậy. Nếu không dụng Tài Quan thì không thể đem xung khai để luận. Đương nhiên phải xem trung hòa hay thiên khô, hoặc sợ kỳ xung là hại thần, gặp tiếp tục xung cũng đến nữa thì tai họa càng nặng. Như ngày Bính sinh tháng Thìn, lộ xuất Ất mộc Ấn tinh, lại xem tiếp có Ất mộc, lại vừa có trợ giúp cho Ấn thụ cách. Nhưng trong trụ nếu gốc có kim khí, thì gốc của Ấn tinh suy vậy, nếu tiếp tục gặp hành vận Tuất, trong Tuất có Tân kim, xung phá Ất mộc chứa trong Thìn, chỗ này gọi là Tham Tài phôi Ấn, thì làm sao có thể lấy tạp khí Tài Quan hỉ thấy xung mà luận vậy? Lại như có ngày Bính Đinh sinh ở tháng Tuất, thấu xuất Mậu thổ nhiều, lấy tạp khí Thương Quan cách xem, nguyên nhật can Bính Đinh thuộc hỏa, đến tháng chín là tháng trao áo, hỏa khí mát lạnh, thấy thổ nhiều là hỏa bị tinh hoa, hỉ phía Đông là chủ mộc vận, khắc mất kỳ Thương Quan, không đến tiết khí Ta, hỉ mộc vận lại đến sinh Ta thì cát. Nếu đến Thìn vận, tái xung xuất Tuất trong chứa Mậu thổ, thì càng tiết nhược tinh thần của ta, thì có an ổn được không? Việc này cũng không thể lấy tạp khí Tài Quan hỉ thấy xung được vậy. Duy chỉ có thân vượng có Tài Quan, thì phương hỉ có xung khai, sớm phát đạt. Cách này cùng Thương Quan là khó xem, cách này cần phải có vật lộ ra trong khố vừa đến thì phương có thể xác định dụng thần. Trong sách đại thể lấy xung khai là tốt, là không sai lầm vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #58
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Cổ ca nói: Tháng Tạp khí Tài Quan Ấn, thiên can thấu lộ mới là phong phú. Tài nhiều Quan vượng cần phải xung phá, can chi cần tránh kỵ áp chế nặng.

        Bổ túc: Tài là nguồn dưỡng mệnh; Quan là gốc phù thân; Ấn thụ là nền tảng sinh thân vậy. Ba loại này tích trữ ẩn náu ở trong tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, chính là khí Tứ ngung ( bốn góc), không phải là thiên địa chính khí Đông Tây Nam Bắc, cho nên viết là Tạp khí Tài Quan Ấn thụ cách. Cách này hỉ thấu lộ, hỉ hình xung phá hại, hoặc dụng Tài quan, mà Tài Quan thấu, hoặc dụng Ấn thụ mà Ấn thụ thấu, thấu Tài thì phú, thấu Quan thì quý, thấu Ấn thì cát, vạn vật hưởng thụ khi thành, cho nên viết là Thủy vi phong ( là sớm thành đạt). Nếu Tài Quan Ấn đóng kiên cố ở trong khố, không xung không hình thì thiếu niên không phát, do đó cần phải xung phá vậy. Nếu can chi mà gặp Tỉ Kiếp áp chế, Quan gặp Thực Thương áp chế, Ấn thụ gặp Tài tinh áp chế hơn nữa quá nhiều thì ham muốn phú quý mà hưởng ngay lúc đó cũng rất khó, cho nên viết là Thiết kỵ can chi áp phục trọng.

        Lại viết: Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Quý, Ấn thụ Tài Quan ở tạp khí. Can đầu thấu xuất là chân cách, chỉ luận Tài nhiều là tôn quý.

        Bổ túc: Thìn có Ất Mậu Quý, chính là mộ khố của thủy thổ, là tháng cuối mùa Xuân ( còn gọi là Quý Xuân); Tuất trong có Tân Mậu Đinh, chính là mộ khố của hỏa, là tháng cuối mùa Thu ( còn gọi là Quý Thu); Sửu trong có Kỷ Quý Tân, chính là mộ khố của kim, là tháng cuối mùa Đông ( còn gọi là Quý Đông); Mùi trong có Đinh Kỷ Ất, chính là mộ khố của mộc, là tháng cuối mùa Hạ ( còn gọi là Quý Hạ). Trong tháng Tứ Quý, sở tàng Ấn thụ Tài Quan, đều là khí của thiên địa bất chính, cho nên viết là ở tạp khí. Cần xem trong cách có thấu xuất, chính là phúc. Đại khái tạp khí cách, thấu xuất quý khí cho nên tốt, cũng lấy Tài nhiều là tôn quý, bởi vì không có Quan mà thấy Tài, thì cũng có thể sinh Quan, đa số vốn là mệnh đỗ đạt.

        Lại viết: Thuận theo tạp khí là không thuần, thiên can thấu xuất mới là chân, thân cường Tài vượng sinh Quan lộc, vận thấy xung hình tụ báu vật quý giá.

        Bổ túc: Thìn Tuất Sửu Mùi, cư ở tứ ngung, tuy không phải là chính khí của Đông Tây Nam Bắc, nhưng thiên nguyên thấu lộ, phương là chân cách. Thân cường, như loại Canh Thân, Tân Dậu. Tài vượng, như Mùi khố mộc hành Đông phương, Tuất khố hỏa hành Nam phương, Thìn khố thủy hành Bắc phương, Sửu khố kim hành Tây phương, là đất sinh vượng thì bản thân có con thanh quý, mà phát quan phát lộc. Tứ trụ người không có xung hình, mà gặp vận thì châu bàu tự nhiên tụ lại, thì kho tàng người đó chứa đầy vàng bạc, châu báu.

        Lại viết: Ngũ hành gặp tháng tứ quý, can đầu là Ấn thụ thì hiển vinh. Tứ trụ tương sinh hỉ Quan Sát, càng dồi dào tài sản.

        Bổ túc: Giáp Ất sinh ở tháng Sửu, Bính Đinh sinh ở tháng Thìn, Mậu Kỷ sinh ở tháng Tuất, Canh kim sinh ở tháng Thìn Tuất, Nhâm Quý sinh ở tháng Tuất, đều là các tháng cuối mỗi mùa vậy, tất cả có Ấn thụ tàng khố, hỉ có can đầu hiển lộ, lại cần phải có trong trụ Quan Sát tương sinh, Tài tinh có khí, thì Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân. Thân khắc Tài thì vinh quý, là vì Ấn nhờ Sát sinh, Quan dựa vào Tài vượng để sinh. Hoặc viết cách này lấy tạp khí mà nói, có Quan Lộc, không chỉ là quý hiển, tài sản càng nhiều phong phú hưng thịnh, cũng không cần phải thấy Tài.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #59
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lại viết: Nguyệt lệnh đề cương không thể xung, 10 phần xung thì có 9 phần là hung. Duy chỉ có gặp mộ khố Tài Quan, vận hành đến đó trái lại là thành công.

        Bổ túc: Tài Quan gặp ở Đề Nguyệt, tối kỵ gặp xung, xung 10 thì có 9 là hung. Duy có Tài Quan ở khố là không xung không phát, cần gặp hành vận phương có thể phát phúc.

        Lại viết: Sinh Vượng cần gặp Mộ Khố tuyệt, mộ khố thì nhất định đến sinh vượng phát. Sinh mệnh gặp quá sinh vượng thì không phải thích hợp, mộ khố gặp hưu tù thì cuối cùng không phát.

        Bổ túc: Sinh cộng thêm quá sinh vượng thì không phải thích hợp, nói theo đoạn văn ở trên thì sinh tài cần gặp mộ, khố, tuyệt, mà nói vậy, ý cũng không phải là có khác biệt. Mộ khố gặp hưu tù cuối cùng không phát, chữ Nhật thượng mộ khố ( can ngày mà có chi là mộ khố) nhất định là nói đến sinh vượng vậy, ý này cũng không phải có khác biệt. Như trong trụ có Tài Quan Ấn sinh vượng, thì không cần nhập mộ Tài Quan Ấn vậy, cho nên viết là Vượng Quan vượng Ấn dữ vượng tài, nhập mộ hữu họa. Như nhật can sinh vượng, không cần nhập nhật can khố địa, cho nên viết là Thân vượng nhập khố tất hưng tai. Mộ nhất định đến sinh vượng là phát, như Tài Quan cư ở mộ khố, nhất định đến Tài Quan sinh địa là phát Tài, phát Quan. Như thân chủ mộ khố, nhất định đến đất thân chủ sinh Tài thì có thể lấy thân phát. Lại sinh cộng thêm vượng quá thì không phù hợp, như thân cư sinh vượng, cộng thêm vận lấy thân Tài Quan sinh vượng thì thái quá tất gặp họa, vì gặp tương phùng sinh địa, thân chủ cần phải gặp vận thoái khí bớt sinh vượng, thì thái quá có xấu. Vì Tài nhiều không có tài, vận gặp hóa Sát sinh tai họa, Quan nhiều không có Quan, bản thân thái vượng thì trút hết nguy hiểm. Như thân cư ở sinh vượng, cộng thêm lấy vận thân chủ sinh vượng thì thái nhất định nhược, vì gặp sinh địa tương phùng, thần cần phải thoái khí mà né tránh chức vị, sinh địa tương phùng, vốn là bản thân thời thanh niên mất lộc. Mộ khố gặp hưu tù cuối cùng không phát, như Tài Quan cư ở đất mộ khố, vận đến lại gặp thân chủ bị hưu bại thì làm sao mà thân phát.

        《 Tam Xa 》nói: Tài Quan tạp khí cách, cũng thấu Tài là giàu có, cũng thấu Quan là quý, cũng thấu Ấn thụ là hưởng của phụ mẫu điền sản trạch xá, tài bạch giàu có, như sách vở có nói Sắc ấm tí chi quý. Như không có thấu xuất, thiếu xung khai thì có phát, thân vượng thành tốt, không hợp thân nhược, hình xung thái quá.
        《 Cảnh Giám 》 nói: "Tạp khí tài quan thân vượng, hữu trùng nhi phát, nhược thái quá phản thụ cô bần." Cô bần là thân nhược thì tài bị bế tắc lại tiêu hao phóng đãng, vốn là cà hai phía bị hình xung vậy.
        《 Tập Thuyết 》nói: Tài khố là kho tàng tích trữ, là nơi Thìn Tuất Sửu Mùi vậy. Như nguyệt lệnh thấu xuất, hoặc năm, giờ cũng thấu Tài, cũng không cần một điểm Quan tinh, vẫnc có thể dùng cách này. Do thấy Thìn thổ khố là Tài khố, tứ trụ cần có thiên can thấu xuất Mậu Kỷ là tốt. Đại để, trong tứ trụ có Tài khí nhiều, không có không nhập quý cách. Không có Quan thấy Tài cũng có thể sinh Quan, là mệnh nhập nhiều Tài phủ. Nhưng không hợp Tài tàng ở trong khố, cần phải có hình xung phá hại, lấy để mở chìa khóa trong cục, là phương có thể phát phúc.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #60
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lại viết: Nói về khố Quan là kho tích trữ địa vị, lấy Thìn Tuất Sửu Mùi là tháng được Tứ Quý, nhưng không biết là trong khố phải thấu xuất, dụng Nguyệt can thấu xuất Thất Sát. Không sợ hình xung phá hại, càng hỉ ở đất chế phục, lại cần có hợp, phương có thể thành quý. Như không có chế phục, lại không có hợp, bản thân lại nhược, nhất định là có hại vậy. Như nhật can Bính Tý, giờ Thìn là khố Quan, nhất định khó phát ở thiếu niên, thuộc thủy khố quá nhiều. Nhưng không cần có thiên can Thương Quan, như tác phẩm Quan chúa tể hào muộn thành. Hành vận cũng không cần hành ở đất Thương Quan, hỉ đất Quan tinh, hỉ thân vượng Quan vượng, hỉ xung hỉ lộ, thiên can Tài Ấn kỵ bị bế tắc.

        Lại viết: Như người sinh Bính Đinh, lấy Thìn là khố Quan, thủy thổ khố ở Thìn là kiên cố vậy. Cần có năm tháng ngày giờ có mộc, hoặc Hợi Mão Mùi cùng Dần là thanh. Như không có mộc, thì thổ đoạt Quan tinh Bính Đinh, thì là trọc thấp mà không thanh, cũng không vinh hiển.

        《 Hồng Phạm 》nói: "Thời phùng Ất mộc dữ Nam mộ. Tuy phú nhi bất nhân, Bính ngộ kim âm nhi Bắc mộ, túng bần nhi hữu đức."
        Bổ túc: Nam mộ là Mùi khố vậy, Bắc mộ là Sửu khố vậy; âm kim là Tân kim là Chính Tài của Bính hỏa vậy.

        Lại viết: Thìn Tuất Sửu Mùi có đầy đủ chính là Tài khố, tôn là phú quý.
        Lại viết: Tài tinh nhập mộ, chính là chủ hình xung thì nhất định hình thê.
        Lại viết: Quan lại gặp nhau, xác định là phong thanh xấu.
        Bổ túc: Thần Tuất Sửu Mùi hỗ hoán (trao đổi, hoán vị), phạm cho nên viết là Hỗ phùng ( tức là gặp lẫn nhau), xác định là chủ phong thanh không tốt, việc này lấy Nữ mệnh mà nói. Nam mệnh gặp là đại phú quý, nhưng cuối cùng là chủ khắc phụ mẫu.
        Lại viết: Tứ trụ mộ có Quỷ, chính là không có sợ về nơi suối vàng, Tuế vận không là đất tinh tuyệt, định chủ uyên ương phối hợp không phải là con đường khác.

        《Tập Thuyết 》viết: Trong bát tự, Giáp lấy Tân là không có, gặp Sửu vốn là kim Quỷ khố. Nếu trọng thấy Tân, nhất định chủ người đàn ông sợ nhập hoàng tuyền vậy. Lưu niên, đại vận nhập Quan Quỷ ở đất tuyệt bại, nhất định chủ vợ chồng gặp tử biệt.
        Lại viết: Tài tinh nhập mộ, có một chút hình xung nhất định phát.
        《 Tứ ngôn độc bộ 》nói: Tháng sinh Tứ Quý, Nhật tọa Canh kim, sao lo chủ nhược, vượng địa là thành danh.

        Lại viết: Ngày Nhâm tháng Tuất, can Quý tháng Mùi. Vận hỉ Đông phương, gặp khắc thì tuyệt. Ở trước có lẽ sửa thành gặp xung thì tuyệt.
        Lại viết: Ngày Tuất tháng Sửu, Tỉ kiên không kỵ. Kim trùng nhiều mà nhập cách, kỵ gặp Ngọ Tuất.
        Lại viết: Khúc Trực tháng Sửu, Tỉ nhớ Kiên lại mang Ấn mà nhiều kim, ngày Nhâm Quý Sửu, là thổ dày mà nhiều.
        Bổ túc: Khúc Trực vốn là Giáp Ất mộc sinh tháng Sửu. Kim nhiều thì quý, Ấn có thể hóa địch Sát vậy. Nhâm Quý sinh tháng Sửu, thổ dày thì quý. Lấy kỳ kim khố sinh thân vững bền vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 6/18 đầuđầu ... 4567816 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 0
        Bài mới: 05-06-13, 16:33
      2. Dụng thần Tứ trụ và Phong thủy???????????
        By athaiathai in forum Tử bình
        Trả lời: 0
        Bài mới: 18-01-13, 20:37
      3. Kỳ môn phong thủy khẩu quyết
        By thoitu in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 02-08-12, 09:29
      4. Thần Khảo Âm Trạch
        By hoa mai in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 11-05-11, 01:18
      5. Xin các bác mách cho em địa chỉ thầy xem phong thủy
        By morality in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 2
        Bài mới: 18-08-10, 22:40

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •