Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 7/18 đầuđầu ... 5678917 ... cuốicuối
    kết quả từ 61 tới 70 trên 177
      1. #61
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Cổ ca nói: Gặp Tài Quan tàng ở trong khố, dấu diếm ánh sáng hạnh phúc không hưng thịnh. Nếu được cửa khố mở thấu lộ, xác định là người thấy trong quân đội không phải bình thường.

        《 Kế Thiện thiên 》nói: Nạp túc tấu danh, tài khố cư sinh vượng chi địa. Đoạn này《Cách Giải 》kèm theo Chính Tài gặp ở dưới, là do người thời nay đính chính lại.

        Bổ túc: Đoạn này có hai thuyết, thuyết thứ nhất là Tài khố cư sinh vượng, như kim sinh ở tháng Mùi, vốn là Tài khố. Nhật can cần cư ở đất sinh, vượng, phương có thể được tài, phát phúc lâu dài.
        Thuyết này có thể theo. 《 Cách Giải 》 thì giải thích bản văn chưa thuận, không phải vậy. Cái thủ dụng dựa vào ở tháng sinh, lấy tháng là Tứ quý, là tạp khí Tài khố, hoặc giờ có tạp khí, nhà nước xuất bản có nói Nhật tọa Khố, như ngày Tân Mùi, mà lấy cách vậy. Huống chi tạp khí hỉ thân vượng, nói là nhật can lấy ở sinh địa, như ngày Giáp Tý cư Tý là bàn thân tự vượng, như loại Giáp Dần, sinh ở tháng Thìn là Tài khố.
        Chú thích cũ: Nói là cần phải có một lúc khai, như Tuất xung khai Thìn khố vậy.
        Kinh viết: "Thiểu niên nan phát khố trung nhân. Chích phạ hữu vật áp chi, cố viết nạp túc tấu danh." Thuyết này thuận mà có lý, sao nói là không thuận!
        Thuyết thứ nhất này nói con người ở thế gian nhờ Nạp túc tấu danh (nộp đủ để lấy danh), chính là nói Thân lâm ở Tài khố. Lấy cư ở nguyệt lệnh sinh vượng. Như kim lấy mộc làm tài, khố ở Mùi, người sinh ngày Tân Mùi , chính là thân lâm Tài khố, nếu sinh ở tháng mùa Đông, nói là Tài khố ở sinh địa, nếu sinh ở tháng mùa Xuân, nói là Tài khố ở vượng địa, cho nên ngày tọa Tài khố ở đất sinh vượng. Thuyết này cũng có vẻ gượng ép. Cái tạp khí hỉ thích thân vượng, như thân cư ở hưu tù thì thiên nguyên suy nhược, chính là Phú thất bần nhân, sao có thể nói Nạp túc tấu danh ư? Tài khố vững chắc cần phải có sinh vượng, thân cần phải cư ở đất sinh vượng, mới có thể đảm đương. Thuyết này không như thuyết trước, cũng đang tham khảo. Như thân cư ở sinh vượng, Tài khố cũng sinh vượng thì càng đẹp, nhưng ở bên ngoài thân mà chuyên nói là tài khố sinh vượng ư?

        《 Chá Cô thiên 》nói:
        Tạp khí Tài Quan cẩn thận suy,
        Càn Khôn Tứ Quý nói chói lọi.
        Thân cường Tài vượng sinh Quan vị,
        Vận đến trung niên khoác áo quan.
        Quan tinh hiển đạt lợi danh đủ,
        Nhẹ được Tài phú Phượng Hoàng trì.
        Anh hùng nếu được khai Tài khố,
        Ngũ hoa quan cáo bái Đan trì ( sân Vua ở).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #62
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Lại viết: Ấn thụ sinh thân nói khí thanh, chỉ có ở tháng sinh là Thìn Tuất Sửu Mùi. Tứ trụ không có Tài làm hiển đạt, gặp Ấn thì thăng chức cộng với phúc thọ tăng.
        Vận Quan vượng xác định hưởng thông suốt, Nhà Rồng Gác Phượng cũng nức tiếng. Thiếu niên không có trì trệ khoa giáp đệ, một tiếng sét đánh chấn động cả gia phong.

        《 Huyền Ky phú 》nói: vượng Quan vượng Ấn cùng vượng Tài, nhập mộ thì có tai họa. Thương quan, Thực thần cùng thân vượng, gặp khố kiến hưng tai.

        Bổ túc: Quan nhẹ, Ấn Tài nhẹ, nhập mộ không có sao. Như tứ trụ có Tài Quan, tam Hợp thái vượng, thì thiên nguyên quá nhược, lại nhập mộ vận tam hợp, thì Quan vượng sẽ khắc thân, Tài vượng sẽ sinh Sát, thì quá nhược nhất định gặp tai họa. Như trên trụ Ấn thụ thái vượng, trọng gặp tam hợp, lại còn nhập mộ vận tam hợp, thì sinh khí thái quá mà gặp họa. Không nói là mộc thịnh thủy phiêu, thổ đa kim mai vậy. Trụ bên trong có Thương Quan, Thực thần nhẹ, gặp khố không có tai họa, nếu Thương Quan, Thực Thần tam hợp thái vượng, lại gặp Mộ hợp, thì tuyệt khí, tất nhiên là tai họa càng nặng, cách này lấy thân nhược quá mức mà nói.
        Đã có nói phần luận về Thương Quan cách. Thân nhược gặp khố là không có tai họa, duy chỉ có ở tứ trụ Tỉ Kiếp tam hợp, thì là thân vượng lấy không có dựa vào Kiếp, lại gặp khố thân càng vượng, không có chế thì nguy tai, cách này lấy thân vượng quá cực điểm nà nói. Cho nên viết Vượng tuy gặp Mộ khố, Tuyệt, sinh cộng thêm gia sinh là vượng quá không cần thiết.

        Lại nói: Trung hòa vi phúc, thiên đảng vi tai.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #63
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Quyển 3

        Khúc trực Nhân thọ cách

        Nam viết: Như Giáp nhật can, địa chi đều đủ Dần Mão Thìn, liền được khí đông phương Nhân thọ, trước đó còn có tên Khúc Trực cách. Rất ngại gặp các chữ Canh Tân Thân Dậu, xung phá đông phương tú khí, mặc dù chết yểu cũng quý. Gặp cách này, cũng không sợ gặp phải kỳ Dần Mão Thìn quá nhiều, cùng không sợ Nhâm Quý sinh mộc. Duy chỉ sợ gặp phải canh Tân Thân Dậu là phá cách. Chỉ cần ba chữ Dần Mão Thìn đầy đủ, thành phương cách này. Nếu có một chữ Thân Dậu là phá cách.

        Cách giải nói: Cách này Nhật chủ là Giáp Ất mộc, địa chỉ phải là Dần Mão Thìn, hoặc là đầy đủ Hợi Mão Mùi, không có ½ phần Canh Tân khí, hành vận mừng gặp ở phương Đông Bắc, cách này sợ gặp Tây phương vận, càng sợ hình xung.

        Như mệnh của Lý Bộ Binh: Giáp Dần/Đinh Mão/Ất Mùi/Bính Tý.

        Thi viết: Người sinh Giáp Ất, Dần Mão Thìn, lại có 2 danh nghĩa là nhân ái, sống thọ, chịu đựng sự phê bình. Đủ Hợi Mão Mùi thì hiềm gặp Bạch đế ( kim), nếu phùng vị trí Khảm ( thủy) thì tất nhiên là thân vinh.

        Bích Yên phú: Hợi Mão Mùi gặp tại Giáp Ất, phú quý không phù hợp. Lại nói: Mộc truyền phương Dần Mão Thìn, công danh tự nhiên có. Như:
        Nhâm Dần/Quý Mão/Giáp Tý/ Mậu Thìn

        Nam viết: Giáp mộc sinh Dần Mão Thìn, mộc toàn loại tương hỉ toàn Nhân ái. Giờ phùng Tài Khố là dựa vào hưu, phía Nam phùng sinh, người khác thường lắm của.
        Giáp mộc sinh Mão, mộc thuần túy, địa chi cũng toàn phương đông, đồng nhất tú khí. Lại hỉ có Tài thấu xuất, thân vượng, dụng Thời thượng Thiên Tài, cực tốt nếu làm công việc bố thí giúp đỡ cô quả, cách này vốn là như vậy.
        Có một Giáp Thân nhật can, thì trái lại là bần, cái là có Thân kim, năng phá đông phương tú khí, người không biết trái lại lấy đó là tốt. tức không biết cách này vậy. Nhập Thân vận thì chết, phá mộc sáng tỏ vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #64
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Giá Sắc cách

        Nam viết: Giá sắc cách, lấy nhật can Mậu Kỷ, gặp Thìn Tuất Sửu Mùi, cùng Tị Ngọ Mùi nhiều chữ. Nếu tứ trụ không có Quan Sát, thì dùng cách này.
        Nhưng, tháng Sửu Thìn Tuất, tứ trụ thuần thổ không có mộc khắc vậy, đa số theo cách này. Vận hỉ đất của Nam phương hỏa thổ cùng tây phương kim chế mộc vận vậy. Đa số phú quý gặp mộc vận khắc phá Giá Sắc, hẳn phải chết, kỳ diệu tải ở gặp nghiệm ứng ở loại Giá Sắc. Ngày Mậu Kỷ sinh ở tháng Mùi thái vượng, thì không nhập cách này. Nhưng tháng Thìn Tuất Sửu thì thổ nhược, thì thành cách này.

        Cách giải nói: Cách này có Nhật can Mậu Kỷ, địa chi cần Thìn Tuất Sửu Mùi đủ cả, không có mộc khắc chế, có thủy làm dụng, phương thành cách này. Vận hỉ Tây Nam , kỵ Đông Bắc.

        Như mệnh của Trương Chân Nhân, Mậu Tuất/Kỷ Mùi/Mậu Thìn/Quý Sửu.

        Thi viết: Mậu Kỷ sinh ở Tứ Quý, Thìn Tuất Sửu Mùi đều gặp đủ. Hỉ phùng Tài địa, sợ Quan Sát, vận gặp phương đông lập tức kiến hung tai.
        Vừa nói chữ Đông phương vận, Bắc phương Tài vận, đều là kỵ, cho nên viết là ngại ( Hiềm) vậy. Đông Bắc càng sợ hình xung cách này.

        Bính Yên Phú nói: Mậu Kỷ cục toàn Tứ Quý, vinh quang.

        Nhâm Ngọ/Quý Sửu/Kỷ Sửu/Mậu Thìn
        Kỷ lâm Sửu nguyệt, thổ rất trọng, thổ hàn, chịu nổi toàn bộ công Giá Sắc. Có chút ít mộc kẹp làm bệnh, vận hành kim chủ tiền bạc phong phú.
        Kỷ thổ sinh vào 12 tháng, nhật tọa thổ lâu bền, tứ trụ thuần thổ, mà thổ khí hàn lạnh, chịu đựng làm thổ toàn Giá sắc. Nhờ vã giờ Thìn, là có thủy khí, ám đến tổn thổ, bắt đầu không là bệnh ư? Sớm hành Đông phương Giáp Dần, Ất Mão, đưa ra Thìn tàng chứa ất mộc, đến khắc Giá sắc là thổ, khắc sâu là bất lợi. Vận đáo gặp Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, thổ suy nhưng mừng gặp sinh phù, tài phát sổ hàng vạn đồng. Tài hành Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, khắc hết Thìn tàng chứa Ất mộc bệnh thần, giàu sang nhất Quận. Hành Hợi hội mộc cục, phương chết, sống thọ 50 tuổi, vốn là tự nhiên vậy.

        Có một mệnh: Nhâm Ngọ/Quý Sửu/Kỷ Sửu/Kỷ Tị, cái duyên là Tỵ Sửu hợp thành kim cục, chỉ có lấy Thương Quan, không lấy Giá sắc, vừa bần mà có tật tai điếc, chỉ lấy thầy đông y, gọi là Thương Quan hành Tài suy vận vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #65
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Viêm Thượng cách

        Nam viết: Viêm Thượng Cách, Bính Đinh sinh tháng Dần Mão, được cả Dần Ngọ Tuất, thì là hỏa hư mà vẫn có ánh sáng, sợ nhất là có thủy phá cách. Cũng sợ hỏa khí thái quá, thì hỏa hư không vậy. Sợ kim thủy phá mộc hỏa, cách này lại ứng nghiệm.

        Cách giải nói: 2 ngày Bính Đinh gặp toàn Dần Ngọ Tuất, hoặc Tị Ngọ cũng là cách này. Kỵ đất kim thủy, hỉ hành đông phương vận, sợ xung, yêu cầu thân vượng, tuế vận giống nhau.

        Như mệnh Trương Thái Bảo: Ất Mùi/Tân Tị/ Bính Ngọ/Giáp Ngọ

        Thi viết: Dưới hỏa trên viêm ( nóng), ngọn lửa cao, vốn là phương hướng đều là vinh hiển hào hùng. Vận hành mộc địa phương thành khí, tài hoa xuất chúng đoạt Cẩm bào.

        Bích Yên phú nói: Dần Ngọ Tuất gặp tại Bính Đinh, được có ngày vinh hoa. Lại viết: Hỏa lâm khu vực Tị Ngọ Mùi, người hiển đạt.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #66
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nhuận Hạ cách

        Cách giải viết: Như ngày Nhâm Quý, yêu cầu toàn bộ là Thân Tý Thìn, hoặc Hợi Tý Sửu cũng là cách này. Kỵ Thìn Tuất Sửu Mùi. Hỉ Tây phương vận, không hợp Đông Nam, sợ xung khắc, tuế vận đồng nhau.

        Thi viết: Thiên can Nhâm Quý, hỉ mùa đông, càng tốt khi gặp Thân Thìn hội cục. Hoặc toàn bộ là Hợi Tý Sửu, bình thường bằng phẳng bước lên mây xanh.

        Như mệnh Vạn Tông Nhân:
        Canh Tý/Canh Thìn/Nhâm Thân/Tân Hợi

        Bình Yên Phú nói: Nhâm Quý cách được Thân Tý Thìn, phúc đầy đủ, tài sung túc.
        Lại nói: Thủy quy về Hợi Tý Sửu, người đầy vinh hoa phú quý.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #67
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Tòng hóa cách

        Nam viết: Tòng Hóa cách.
        Sách nói: "Đắc hóa đắc tòng, hiển đạt công danh chi khách."

        Nhưng mà Nhật chủ là Lục Âm, thân nhược quá mức thì lấy Tòng Hóa, chủ gặp nhiều phú quý. Như can ngày là Ất, giờ Canh Thìn, địa chi hoặc là đủ Tị Dậu Sửu, hoặc thấy Thìn Tuất Sửu Mùi bốn chữ nhiều, cũng lấy thành Ất Canh hóa kim mà xem, hành Tây phương phú quý không thể nghi ngờ. Đồng thấy vận Bính Đinh, phá kim mà chết. Thuyết thấy ở đoạn văn dưới mà nghiệm, các loại Tòng Hóa cách.

        Nhật can Lục Dương thì không thể lấy Tòng Hóa vậy.

        《Cách giải 》nói: Tham khảo thêm Luận Thập can hóa hợp “Uyên Hải thập đoạn cẩm” .

        Phú nói: Người xưa luận mệnh, trước là luận Tòng Hóa, tòng hóa không thành thì phương luận Tài Quan. Tài Quan không lấy, phương luận cách cục. Như tòng hóa thành cục, thì có phú quý.
        Giáp Kỷ hóa thổ tòng mộc, Ất Canh hóa kim tòng hỏa, Mậu Quý hóa hỏa tòng thủy, Đinh Nhâm hóa mộc tòng hỏa, Bính Tân hóa thủy tòng hỏa.
        Luận cách hóa thì có hóa là chân, thì công danh cự khanh; nếu hóa là giả, cô độc mà tính tình khác thường. Gặp Thìn thì hóa tốt, rồng bay lên trời, lợi thấy đại nhân.

        Tống Tiêu Thừa tướng tạo: Quý Tị, Đinh Tị, Quý Dậu, Mậu Ngọ.
        Chỗ này chính là Mậu Quý hóa hỏa cách, lại gặp tiếp Mậu Quý hóa hỏa, sinh ở tháng Hợi không đắc lệnh. Lại một mệnh: Quý Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, Mậu Ngọ, nghèo là bệnh thiếu tiền.

        Mệnh cổ phú quý : Giáp Tuất, Đinh Mão, Nhâm Dần, Giáp Thìn. Mệnh này chính là tượng Đinh Nhâm hóa mộc, đắc lệnh, lại có Dần Mão Thìn đầy đủ.

        Phương Trạng nguyên tạo: Tân Hợi, Tân Sửu, Bính Tý, Kỷ Hợi. Chỗ này chính là tượng Bính Tân hóa thủy.

        Tống Chương Thừa tướng tạo: Bính Tuất, Canh Dần, Tân Tị, Giáp Ngọ.
        Chỗ này là Bính Tân tòng hỏa, thê tòng phu hóa.

        Trương Chủ sự tạo: Kỷ Mùi, Bính Dần, Đinh Tị, Nhâm Dần. Chỗ này là tượng Đinh Nhâm hóa mộc.

        Lý Tri phủ tạo: Đinh Dậu, Bính Ngọ, Đinh Tị, Nhâm Dần. chỗ này là Đinh Nhâm tòng hỏa, phu tòng thê hóa.

        Lại một tạo: Giáp Tý, Đinh Mão, Nhâm Thân, Ất Tị. Đinh Nhâm hóa mộc, tháng hai đắc lệnh. Khác ở chỗ là Tị Thân có kim, hóa mộc không thành, gốc địa chi bì hình phá.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #68
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        《 Tứ ngôn Độc bộ 》nói:
        “ Thập can hóa thần,
        Hữu ảnh vô hình.
        Vô trung sinh hữu,
        Họa phúc nan bằng.”

        Tạm dịch:

        Thập can hóa thần,
        Có ảnh không hình.
        Trong không có sinh,
        Họa phúc khó nhờ.

        Cách nói này là hóa hợp không thể chỉ có nhờ cậy vậy.

        《 Nguyên Lý phú 》nói: "Bất hóa bất tòng, yêm lưu nhân lộ chi nhân. Đắc hóa đắc tòng, hiển đạt công danh chi sĩ. Hóa chí lộc vượng giả sinh, hóa thành lộc tuyệt giả tử." (Tạm dịch : Không hóa không tòng, người tích trữ nhiều lòng nhân ái. Được hóa được tòng, làm quan công danh hiển đạt . Hóa đến lộc vượng là sinh trưởng, hóa thành lộc tuyệt là chết) . Lời nói này là hóa hợp nhận để làm tham khảo vậy.

        Bổ túc: Hóa thành có phúc, cần hành mộc cục, lộc vượng thì phát. Như Đinh Nhâm hóa mộc, nguyệt lệnh hỉ Dần, hoặc hành Đông Nam phương vận thì phát. Còn lại như ví dụ trên mà mô phỏng. Hóa thành có phúc, sợ nhất hành Lộc Mã ở đất suy tuyệt, Mậu Quý hóa hỏa hành đến đất thủy, Đinh Nhâm hóa mộc hành đến đất kim, nhẹ thì bãi chức, nặng thì mệnh vong.

        Tân Hợi, Quý Tị, Mậu Ngọ, Bính Thìn. Lâm Xuyên Lục Giang Phó Sứ, mệnh hóa hỏa sợ thủy.

        Nam viết:
        “ Mậu phùng Quý hóa hỏa thần cao,
        Tị Ngọ căn thông hỏa cục lao.
        Hợi Tị bản lai vi ngã bệnh,
        Đông phương mộc hỏa hiển anh hào.”

        Tạm dịch:

        Mậu gặp Quý hóa hỏa thần cao,
        Tị Ngọ thông căn hỏa cục vững.
        Hợi Tị ban đầu làm Ta bệnh,
        Đông phương mộc hỏa lộ anh tài.

        Mậu Ngọ sinh tháng Tị, can thông hỏa cục, hỉ Quý thủy kề thân, Mậu tòng Quý hóa, dụng hỏa có tình. Lại hỉ giờ Bính Thìn, là có hỏa thấu vậy, dụng hỏa không nghi ngờ. Lại được Hợi trong có Nhâm, đến thành phá hỏa, bệnh ở chỗ này vậy, chỗ này là tượng hỏa không đủ vậy. Vận hành Đông phương, liên đăng hoàng giáp làm đến Phó Sứ. Cái được Sát vượng, mà có ám sinh Bính hỏa vậy. Bang trợ mặc dù có Sát, gặp Canh khắc, Sát Ấn bệnh trong lòng thành bệnh, do đó Đông phương là phạm Sát, đều là hiển mà quý. Chỗ này chính là đại vận nhập Tý, xung phá Ngọ trong có Đinh hỏa mà chết, phá cách phá Ấn rõ ràng vậy. Nếu trong trụ không có thủy hỏa nhiều thì Bắc phương là không sợ, bởi vì do gốc mang theo thủy vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #69
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Đinh Tị, Quý Sửu, Ất Dậu, Canh Thìn. Giang Phó Bật vương công phú mệnh, Ất Canh hóa kim cách.

        Nam viết:
        “ Ất mộc sinh phùng kim cục toàn,
        Ất phùng Canh hóa thấu thiên nguyên.
        Bản văn kim vận khoa hào phú,
        Kiến hỏa thương kim thọ bất kiên.”

        Tạm dịch:

        Ất mộc sinh gặp kim cục đủ,
        Ất gặp Canh hóa thấu ra can.
        Bản gốc kim vận khoa hào phú,
        Thấy hỏa thương kim thọ không bền.

        Ất mộc không có gốc, sinh tháng Sửu hợp thành kim cục. Mà thời thượng Canh kim thấu xuất, Ất mộc bỏ mệnh mà tòng Canh. Đại vận hỉ nhập Tây phương, đất thuần kim, kẹp đất tài phú, vừa nhập Giáp mộc ám tổn kim khí, trở lại làm thoái tài. Lại nhập Bính vận, Bính hỏa khắc Canh, thương tổn Kim thần, mà chết. Tuy không có kim cục, nếu có Thìn Tuất Sửu nhiều sinh kim, cũng nhập cách này.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #70
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Kim bất hoán khán mệnh thằng xích

        Tài Quan vượng mà nhật chủ nhược, vận hành thân vượng là tốt nhất.
        Nhật chủ vượng mà Tài Quan nhược, vận hành Tài hương danh lợi theo đuổi.
        Thân vượng Tỉ Kiếp nặng, tổn Tài lại thương thê.
        Tỉ Kiếp gặp Kiêu Thực, vợ gặp nguy cơ khi sinh đẻ.
        Gặp Quan Quan nhập mộ, cha chết nơi quê người, can chi Quan Quỷ nhiều, Huynh Đệ trở nên khó khăn nhất.
        Tứ trụ thấy Thương Quan , đến già cũng không có con.
        Địa chi thuần Tài cục, đại phú đại quý không nghi ngờ. Nều hành Quan vượng vận, nạp đủ thóc lúa mà trở thành người hiền tài danh tiếng.
        Khứ Quan lưu Sát thì uy hiển nợi biên cương.
        Tài vượng ám sinh Quan, dụng của cải mà cầu danh lợi, khí Ấn đến Tài thì con cái kế thừa địa vị mà chỉnh đốn sự nghiệp.
        Thiên Ấn chống Thương Quan, Nữ nhân tối kỵ nhất.
        Hình phu cùng hại tử, bản thân trở nên cô đơn.
        Thương Quan thấy Quan cần vận hỉ nhập Tài địa.
        Danh tiếng nổi bật ở Long Hổ bảng, thân đến Phượng Hoàng trì.
        Tỉ Kiếp Thiên Ấn cách, Thương Quan chịu khắc chế. Cháu trai kế thừa họ hàng, con gái nuôi trở thành vợ riêng.
        Thiên Quan chế phục quá, nhàn hạ mà thành tăng đạo.
        Tài đa, Thân nhược thì bị chìm dưới sông mà thi thể trôi nổi.
        Thân vượng mà đối địch Sát, áo quần sắc tía mà thành đỏ tươi ( ý nói làm quan đến nhất phẩm) .
        Hư đến cùng ám củng, sớm bước lên mây xanh.
        Kẹp quý cùng Lục Hợp, đủ làm nên việc lớn. Được chia ra Tam cách, thì nhờ tổ tiên ẩn hộ giúp.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 7/18 đầuđầu ... 5678917 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 0
        Bài mới: 05-06-13, 16:33
      2. Dụng thần Tứ trụ và Phong thủy???????????
        By athaiathai in forum Tử bình
        Trả lời: 0
        Bài mới: 18-01-13, 20:37
      3. Kỳ môn phong thủy khẩu quyết
        By thoitu in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 02-08-12, 09:29
      4. Thần Khảo Âm Trạch
        By hoa mai in forum Phong Thủy I
        Trả lời: 15
        Bài mới: 11-05-11, 01:18
      5. Xin các bác mách cho em địa chỉ thầy xem phong thủy
        By morality in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 2
        Bài mới: 18-08-10, 22:40

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •