Mậu thổ

Mậu vi dương thổ tức khâu lăng,
tọa khố tàng tài quý hữu hằng.

Giáp ất vượng thời danh dũ trọng,
tài can mộ địa thọ nan bằng.

Ngũ hành sinh xứ vi giai triệu,
tam hợp phùng thời thị phúc chinh.

Ấn trọng tài khinh quan sát hoại,
thương tàn chi thể bệnh nan thắng.


Tích đất thành gò, Vương gia gọi là Lăng ( mộ), đều động mà có tượng thành công. Mậu thổ thuộc dương, cho nên lấy hai điều như thế để nói rõ về nó ( Mậu). Tọa dưới khố, thì gọi là có căn; tàng có Tài, thì gọi Mậu là không khô táo. Hợp được với hai điều như vậy, thì chủ không những quý, mà cũng lâu bền. Bởi vì thổ chủ về tín, thể dụng tương hợp, chính là thụ bẩm được khí trung hòa. Nhật chủ có khí, lại được Quan Sát vượng tướng, công danh tự nhiên hiển đạt. Nếu chuyên dụng Tài, lại hành Tài tinh mộ địa, chỉ e khó có thọ vậy. Mà còn mộ của Tài tinh, thì người này nhiều họa mà có bệnh về Tì vị. Thổ có thể dưỡng vận vật, cho nên mừng được sinh. Thổ hợp thì dày, nhất định không gặp họa nghiêng lệch sụp đổ, Tam hợp gặp nó, đương nhiên là phúc lợi. Nếu như tứ trụ Ấn thụ thái trọng, lại không có Tài tinh, Quan Sát đều tuyệt, lại không có Thực Thương, thành hỏa viên thổ táo, thì bệnh tật có thể biết.

Giải thích: Tích đất thành đống gọi là gò, mộ của vương hầu gọi là Lăng, những điều này đều là động mà có tượng thành công. Mà Mậu thổ thuộc dương, cho nên dùng gò đất lăng mộ để làm ví dụ. Mậu thổ tọa khố, thì gọi là có gốc; mà trong khố còn tàng có Tài, có thể khiến Mậu thổ không khô hạn, phù hợp với điều kiện này, thì đa số được phú quý mà còn phúc khí được lâu dài. Đây là bởi thổ chủ về tín, lại thêm thể dụng phù hợp với nhau, đó là nguyên nhân thụ bẩm được khí trung hòa. Nếu như nhật chủ có khí, hành vận đến mộ địa Tài tinh, thì thọ mệnh có tổn. Mà như Tài tinh nhập khố, thì nhiều họa hoạn và có bệnh Tì vị. Ngoài ra thổ có sinh dưỡng vạn vật, cho nên mừng khi gặp được sinh khí của ngũ hành. Mà như thổ gặp hợp thì dày, cho nên địa chi nếu có tam hợp, thì Mậu thổ sẽ không nghiêng lệnh sụp lở, thì nhật chủ đương nhiên có phúc. Nếu như tứ trụ Ấn thụ thái trong, lại không có Tài tinh Quan Sát, không có Thực Thương, thì gọi là hỏa viêm thổ táo, đa số chủ thân thể có bệnh hoặc tứ chi thương tật tàn phế.

Bình chú: Ý nghĩa của tiết này, ở vào thủy thổ cùng khố, do vậy mà dẫn đến Thân, Mậu thổ tọa khố, tức là nói đến Mậu Thìn. Thìn làm mộ thổ, trong Thìn có thủy, Mậu thổ tọa Thìn, thì chính là thân thông tọa khố mà vượng, dưới tọa lại ám tàng Tài, cho nên là điềm quý. Lúc này lại có Quan Sát vượng tướng, càng là mệnh phú quý. Ngoài ra dương thổ mừng được địa chi tam hợp cục hoặc tứ trường sinh, trong thơ nói " Ngũ hành sở sinh ( ngũ hành được đất sinh)", đó chính là ý nghĩa Dần Thân Tị Hợi. Nếu như nguyên cục có Tài tình thấu tỏ mà không có Quan Sát, hành vận lại gặp vận Thìn, đó là Tài tinh nhập mộ, thì lúc này thọ mệnh có tổn. Mà Mậu thổ lấy hỏa làm Ấn, nếu như trong cục hỏa thành bè đảng mà không có thủy, không có kim, thì gọi là hỏa viên thổ táo, nếu như lại không có Quan Sát vinh thân, thì đại đa số bệnh tật mà trói buộc đến thân, có thể không nói đến phúc khí vậy.