Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 3/8 đầuđầu 12345 ... cuốicuối
    kết quả từ 21 tới 30 trên 79
      1. #21
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bình chú:

        Lấy sáu cách từ Tử Bình Chân Thuyên đại ý luận, Ấn cách chẳng phân ra thiên chính, hỷ kị có thể cùng luận giống nhau, bản thân tôi đã bình chú Chính Ấn cách kĩ càng và có thêm giải thích rồi. Nhưng Chính Ấn và Thiên ấn, bởi tính chất âm dương khác nhau, nên khi luận Thiên ấn còn có một chút khác biệt nho nhỏ, chính là nội dung mà mục này đang đề cập. Ngoài ra người nhập Thiên ấn cách tối hỷ thân vượng, Thiên ấn là Thiên mẫu tinh, nếu như nhật nguyên vô lực, Thiên ấn chẳng sinh thân mà chuyên làm chuyện xấu. Chỉ có nhật nguyên hữu lực, thì Thiên ấn mới cam tâm tình nguyện làm dụng của ta. Người nhập Thiên ấn cách, phần nhiều làm việc có đầu mà không có đuôi, mang tính cách học nhiều mà ít có thành tựu. Lại có sách mệnh lý nói rằng: Thiên ấn mừng Tài khắc.., chính là lập luận Thiên Ấn trở thành hung vật, không thể bê nguyên xi trực tiếp ở cách cục hỷ kỵ như vậy được, bản văn này là luận nguyệt lệnh Thiên ấn cách, trong bài nói "Vô Sát lợi danh hư", kị gặp Thực thần..., cũng là có tiền đề riêng biệt. Tóm lại Thiên ấn gặp Tài, Thiên Ấn gặp Sát hoặc gặp Thực thương phân biệt hỷ kị như thế nào cũng không thể một mực nói ra hết được, độc giả cần đối chiếu với nội dung bình chú tỉ mỉ mục luận Chính Ấn cách để có thể lĩnh hội thêm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #22
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Thực thần cách

        Thực thần nguyên thị thọ tinh danh, tối ái tài phù hỷ đệ huynh.
        Minh ám yếu phân khinh dữ trọng, âm dương đương biện trọc trung thanh.
        Tài chương sát ẩn hình hoàn tráng, ấn vượng quan cường thế tất khuynh.
        Kế mẫu kiêu thần lai nhập cách, ta phu phúc thọ lưỡng vô thành.

        Thực thần tên gọi Thiên Trù, lại có tên gọi khác là Thọ Tinh. Hỷ Tài tinh Tỉ Kiên phụ trợ, có thể ở can hoặc chi nhưng cần biện giải sự nặng nhẹ của chúng. Sách viết: Ngày dương Thực thần đắc địa không thương tổn, thì ám hợp Quan tinh; Ngày âm Thực thần không phá cần hợp ý, thì tự nhiên gần gũi với Ấn thụ. Ngày dương Thực thần thân vượng, kị gặp Quan tinh; Ngày âm Thực thần thân nhược, kị gặp Ấn thụ. Nếu như gặp hai thứ này, trở thành phá cách, Điền thực thì không đẹp. Tài thấu Sát tàng, đủ để tăng cường căn gốc, vốn gặp được là tốt nhất cho cách này. Ấn vượng Quan cường thì cướp đoạt sự uy nghi, thế lực hiển nhiên nghiêng đổ mà suy sụp. Bất luận âm dương Thực thần, đều lấy Thiên Ấn làm kị. Dụng Thực gặp Kiêu, thì tuổi thọ chẳng kéo dài, vậy phúc đức có thể thành được sao?

        Dịch nghĩa:

        Thực thần vừa gọi là Thiên Trù hoặc là Thọ Tinh. Cách cục này mừng nhất là dùng Tài tinh hoặc Tỉ Kiên đến phụ trợ Thực thần, bất kể ở can hay ở chi, đều cần phân biện nặng nhẹ rõ ràng. Trong sách nói: Thực thần của dương Nhật can đắc địa nếu mà không bị thương tổn, sẽ ám hợp Quan tinh; Thực thần của âm Nhật can nếu không bị phá hoại thì hội hợp với Ấn thụ. Cho nên, dương nhật Thực thần cách lại thân vượng thì kị gặp phải Quan tinh, âm nhật Thực thần cách thêm thân nhược thì kị nhìn thấy Ấn tinh. Nếu có Quan Ấn và Thực thần tương hợp, chính là phá cách, hay gọi là Điền thực, không thể lấy mệnh tốt mà luận được. Nếu nguyên cục Sát tàng Tài thấu, có thể tăng cường căn cơ của Thực thần, là sự phối hợp đẹp nhất của cách cục này. Còn nếu như trong cục Ấn vượng Quan cường, thì sẽ dồn ép sự uy nghi của Thực thần, khí thế của Thực thần liền nghiêng lệch suy sụp ngay. Bất luận là âm can Thực thần hay là dương can Thực thần, đều kị gặp Thiên Ấn. Thực thần cách mà gặp Kiêu Ấn, thọ mệnh đều chẳng thể dài, lại càng không cần nói đến xuất hiện phúc khí khác.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #23
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bình chú:

        Thực thần là cát thần, nhưng Thực thần có năng lực tiết khí của nhật nguyên, cho nên đều mừng thân vượng. Thân vượng mà cách cục phối hợp thỏa đáng, còn tốt đẹp hơn cả Tài Quan. Hỷ kỵ của nguyệt lệnh Thực thần cách như sau:

        1) Thực thần cách hỷ kèm theo Tài, có Tài gọi là Thực thần sinh Tài cách. Ngoài thân vượng ra, điều kiện tiên quyết để Thực thần sinh Tài cách có thể hiển quý là Thực thần vượng còn Tài tinh thuần và có căn. Thực thần kèm theo Chính Tài thì tốt hơn là kèm theo Thiên Tài, nếu như Chính Thiên Tài cùng thấu, nhiều nhất chỉ có thể tiểu phú. Cách cục này hành vận sợ nhất Quan Sát vận.

        2) Nguyên cục Thực thần cách hỷ kèm theo Sát tinh và kỵ thấu Quan tinh. Kèm theo Sát thì quý, kèm theo Quan thì bại, nếu Quan Sát hỗn xuất có thể luận tiểu quý. Kim Thủy Thực thần không kị Quan nếu kèm theo Sát thì cực quý, đạo lý bởi điều hậu, có thể tham khảo phần bình chú về Thương quan cách để hiểu rõ thêm.

        3) Thực thần cách kị gặp Ấn tinh. Chính Thiên Ấn đều không thích gặp được, trong đó tối kị Thiên Ấn, nếu như Thực Ấn cùng thông nguyệt lệnh, càng trở thành vô tình. Nhưng Mộc Hỏa Thực thần, gặp Ấn thì không kỵ, cũng bởi đạo lý điều hầu.

        4) Đơn dụng Thực thần có thể phú mà không quý, nhưng vẫn cần thân cường, với lại hành vận gặp Tài mới phú, bằng không thì bần hàn.

        5) Thực thần cách phối Tài Sát: hợp Sát tồn Tài, hợp Tài tồn Sát thì quý. Hoặc là yêu cầu vị trí bên trên phải Thực cách xa Tài Sát, mà Tài trước Sát sau mới cát, bằng không thì đại hung.

        6) Thực thần cách phối Sát Ấn thành quý mệnh, Kim Thủy Thực thần kèm theo Sát Ấn cũng là tốt nhất. Nhưng loại phối hợp này, nguyên cục và đại vận tối kị gặp tiếp Tài tinh. Bởi lẽ Tài tinh có thể hoại Ấn, lại còn chuyển Thực sinh Sát, thành đại hung. Đồng thời cũng kị Quan tinh hỗn tạp.

        7) Thực thần cách phối Tài Ấn, có thể cầu quý. Bởi vì Tài có thể chế ước Ấn tinh và phát huy tác dụng của Thực thần, nhưng cần xem vị trí, Ấn trước Tài sau, trước bại sau thành, trung niên hoặc về già phát đạt; Tài trước Ấn sau, toàn cục đều bại.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #24
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Dương Nhận cách
        Cách trung Dương Nhận mạn ngôn hung,
        Thất Sát Thương quan hoan hỷ nhất gặp.

        Điệp kiến Nhận tinh thê bất khắc,
        gặp lại Tài phá định nan dung.

        Đề cương Sát hợp chân hào kiệt,
        nguyệt lệnh gặp xung là lão nông.

        Vô phá vô thương Sát Nhận hiển,
        bên thùy ngàn dặm mịch hầu phong.
        Dương nhận trong trụ, không thể dễ dàng nói nó là hung, nếu có Thương quan tiêu tiết mạnh, hoặc Thất sát chế, ngược lại là quý mệnh. Phú nói: "Trong mệnh tiểu nhân cũng có Chính ấn Quan tinh, trong cách quân tử, cũng phạm Thất sát Dương nhận" là chính xác vậy. Dương nhận không kị nhiều, chỉ sợ gặp Tài, (gặp Tài) thì có họa tranh đoạt. Nếu như Đề ( lệnh tháng) gặp Dương nhận, cho dù có Thất Sát hợp, vẫn là trí sĩ Anh hùng hào kiệt, là mệnh chân quý. Nếu nguyệt lệnh Dương nhận mà bị xung phá, lại không có Sát giá ( chèo lái) uy nghiêm, thì chỉ là một người dân thường mà thôi. Nếu như không bị thương phá mà có Sát tinh chế phục, thì đa số xuất lộ võ chức, chủ nắm Binh phù ( phù tiết để điều binh khiển tướng xưa),công danh khởi phát ở biên thùy. Dương nhận khắc thê (vợ), nếu có Dương nhận nhiều mà trái lại không khắc, đúng là chưa gặp Tài vậy, nếu gặp Tài thì tranh đoạt, e rằng khó khoan dung với không bị thương tổn vậy.

        Dịch nghĩa:
        Dương nhận cách không thể hết thảy xem là hung để luận, nếu có Thương quan tiêu tiết Nhận, có Thất sát chế Nhận, trái lại là mệnh quý. Dường như phú văn đã nói: Mệnh cục tiểu nhân cũng có Ấn Quan cách mà, mệnh cách Quân tử cũng có thể là Thất Sát Dương nhận. Trong Dương nhận cách không kị có Kiếp tài trùng trùng tàng thấu, chỉ sợ gặp được Tài tinh, vừa thấy Tài tinh thì hội lại đoạt Tài. Nguyệt lệnh Dương nhân cách, trong cục có Thất sát hợp Nhận, đó chính là trí sĩ anh hùng hào kiệt, mệnh đại quý. Nếu Nguyệt lệnh Dương nhận bị xung phá, mệnh cục lại không có sự phối hợp của Dương nhận giá Sát, thì chỉ là mệnh nông dân bình thường. Nếu như Dương nhận không bị thương phá, mà còn có Sát tinh chế phục, đa số là loại quân quan, trấn thủ nơi biên ải mà có uy danh. Dương nhận cách đa số khắc thê, nếu như trong cách Dương nhận Tỷ kiêp trùng trùng mà Tài tinh không bị khắc, đó cũng chỉ là nguyên do nguyên cục đại vận không thấy Tài tinh xuất hiện mà thôi, nếu như Dương nhận nhiều mà gặp được Tài tinh thì không có lý do gì mà không khắc vợ cả.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #25
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bình chú:

        Trong thuật Tử Bình cổ thì Dương nhận và Dương nhận có khác biệt, [ND- Để giải thích hai chữ Dương nhận thì trong tiếng Hán có phân biệt là Chữ Dương (羊): nghĩa là con Dê hay con Cừu, hay chữ Dương (阳):Mặt trời....], mà còn Dương nhân có phân chia ra Năm Nhận, Tháng Nhận, Ngày Nhận, Giờ Nhận, tiết này đương nói về lấy nguyệt lệnh Dương nhận cách làm trọng điểm. Thông thường mà nói, chỉ có 5 can dương với nguyệt lệnh gặp Nhận, thì mới gọi là Dương nhận cách. 5 can âm sinh ở tháng Nhận thì không gọi là Nhận, mà gọi là Nguyệt Kiếp, thì nhập cách Lộc Kiếp. Đã nói rõ thấy ở Bình chú của tiết bên trên). Cơ bản mà nói, Dương nhận cách hỉ Quan Sát, kị Tài tinh, kị xung Nhận. Cụ thể sự phối hợp hỉ kị như sau:

        1. Dương nhận dụng Sát chế phục: Hỉ Tài Ấn phối hợp Sát tinh; Nguyên cục kị có vật chế Sát, trừ phi nguyên cục Sát tinh lưỡng thấu mà lại căn trọng, có thể dụng Thực thần chế Sát mà không mất đi sự phú quý, bằng không cho dù khí Sát tinh trọng nặng mà thân thể hơi nhược, khi hành vận thì hỉ Ấn hơn với hỉ Thực Thương; Mặt khác, lời thơ vốn nói " Đề cương Sát hợp" ứng với tình hình là chỉ thiên can không thấu Nhận, nếu như vậy mới luận là quý, bởi vì sự phối hợp này của Nhân- Sát tối kị thiên can thấu Kiếp Tài, trên can đại vận gặp Kiếp Tài cũng kị, nguyên nhân là thấu Kiếp tài thì hợp khứ Sát tinh, thì Nhận của nguyệt lệnh không bị chế. Tức là: Thất sát chế Nhận, thì cái cần chế là nguyệt lệnh địa chi, không phải là Kiếp tài trên can. Học giả cần cẩn thận tỉ mỉ lĩnh hội.

        2. Dương nhận dụng Quan chế phục: Hỉ Tài Ấn trợ Quan, kị Thực Thương hợp Quan khắc Quan. Thiên can thấu Kiếp tài cũng không kị, bởi vì nguyên nhân Kiếp tài sẽ không hợp khử Quan tinh.

        3. Dương nhận cách kị Quan sát hỗn tạp, Quan Sát hỗn trọc thì cần phải làm cho thanh, lúc này hành vận chỉ mừng có Thực Thương hoặc đất thân vượng, không hỉ vận Tài Quan Sát.

        4. Dương nhận cách kị mang Tài, phạm cách này thì bất lợi cho Thê Tài. Trừ phi trong cục Tài tinh căn thâm mà kiêm thấu Thực Thương, thì mới có thể lấy Thực Thương chuyển hóa Nhận sinh Tài, nhưng như vậy thì cũng chỉ đạt được giầu có mà không thể đạt được quý hiển vậy.

        5. Dương nhận cách chỉ thấu Thực Thương, là lấy Thực Thương tiết khí vượng Nhận làm dụng, có thể luận là cát, nhưng không giống dụng Quan sát như vậy thì phát quý hiển.

        6. Dương nhận cách tối kị xung Đề ( cương). Nguyên cục hoặc đại vận xung nguyệt đề là phá cách, dễ có họa bất ngờ. Về phương diện này có hai nguyên nhân sau. Thứ nhất là nguyệt lệnh Dương nhân cực vượng lại có hung khí, bị xung thì kích thích tính hung bạo của Dương nhận, thần đến xung ngược lại bị xung cho đến chết, đa số ứng ở bản thân hoặc thần xung Nhận đại biểu cho lục thân; Hai là, nếu như nguyên cục vốn là thân Sát lưỡng đình ( cân bằng), lúc niên vận xung Nhận, lực lượng mất cân bằng mà mối họa nảy sinh.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #26
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nhật Lộc quy thời cách

        Nhật lộc quy thời cách tối thân,
        đề cương tái kiến bất vi chân.

        Thực thương ái hữu phương ngôn quý,
        thiên chính tài vô định thị bần.

        Hữu phá hữu xung tâm phất toại,
        vô thương vô hại chí hoàn thân.

        Sát quan bất kiến đồng nhân thiểu,

        chính hốt thùy thân bái tử thần.

        Tử Bình nói: Nhật lộc quy thời không có Quan tinh, mà vẫn nói Thanh vân đắc lộ ( Quan vị thuận lợi mà lên cao). Lý lẽ này rất thâm thúy sâu xa, cần phải nghiên cứu lý do vì sao vậy, thì mới biết sự thật của cách cục này, sau đó mới có thể đoán được họa phúc.Đắm chìm ( chết, Ẩn núp) là chôn vùi vậy. Điều này chưa phải là điểm trọng yếu nhất của văn tự, chớ có xem nhẹ mà không chú ý. Còn như Giáp lộc đến Dần, mà Bính hỏa trong Dần trường sinh, dụng chữ Bính ám hợp chữ Tân, thì ngày Giáp được Quan tinh; Ất lộc đến Mão, dùng Ất mộc trong Mão ám hợp Canh kim, thì ngày Ất được Quan tinh, Bính Mậu lộc cư ở Tỵ, dụng Canh trong Tỵ hợp Ất, thì ngày Mậu được Quan tinh, Mậu hợp Quý, thì ngày Bính được Quan tinh; Đinh Kỷ lộc cư ở Ngọ, trong Ngọ có Đinh hỏa, Kỷ thổ, Đinh hỏa ám hợp Nhâm thủy, thì ngày Đinh được Quan tinh, Kỷ thổ ám hợp Giáp mộc, thì ngày Kỷ được Quan tinh; Canh lộc cư ở Thân, trong Thân Nhâm thủy trường sinh, dụng chữ Nhâm ám hợp chữ Đinh, thì ngày Canh được Quan tinh; ngày Tân lộc đến Dậu, Tân kim trong Dậu ám hợp Bính hỏa, thì ngày Tân được Quan tinh; Nhâm lộc đến Hợi, Giáp mộc trong Hợi trường sinh, dụng chữ Giáp ám hợp chữ Kỷ, ngày Nhâm được Quan tinh; Quý lộc ở Tý, dụng Quý thủy trong Tý ám hợp Mậu thổ, thì ngày Quý được Quan tinh. Như vậy dựa vào thời nguyên, địa chi ẩn giấu sự may mắn, ám hợp Quan lộc, cho nên mới nói: " Không có Quan tinh, mà vẫn nói Thanh vân đắc lộ". Như gặp Quan tinh điền thực ( Quan tinh bị phủ kín, lấp đầy), cho nên không quý vậy. Đây chính là nguyên nhân vì sao của cách cục, người nói mệnh không thể không biết. Quy lộc chỉ cho phép một vị trên trụ giờ mới là chuẩn xác, nếu như trên Đề cương lại gặp, thì tạp mà không thuần, cách không thật vậy. Thương quan Thực thần mừng gặp, chính là lấy chúng ( Thực Thương) ám chế Quan Sát, rõ ràng là ý sinh Tài tinh. Tài tinh có thể thấy, tức là ý lấy ám sinh Quan tinh. Xung phá hại cách, Tỷ kiên phân lộc, đều là kị trong cách cục vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #27
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Giải thích: Học thuyết Tử bình cho rằng: Nhật can đắc lộc ở chi Giờ mà lại không có Quan tinh, vẫn cho là " Thanh vân đắc lộ". Đạo lý trong đó rất vi diệu, cần phải biết như vậy là ra làm sao, thì mới hiểu và phân biệt được sự thật giả của cách cục, sau đó mới có thể dự đoán họa phúc. " Một (đắm chìm, chết, Ẩn núp)", là "chôn giấu, chôn vùi". Chữ "Một" cực trong yếu mà không thể xem nhẹ. Ví như ngày Giáp gặp Dần là lộc, Bính hỏa trong Dần là trường sinh, Bính hỏa này có thể ám hợp Tân kim, Tân kim là Quan tinh của Giáp nhật chủ, cho nên có Dần thì ngày Giáp ám được Quan tinh; ngày Ất lộc ở Mão, Ất mộc tàng trong Mão ám hợp Canh, thì ngày Ất được Canh làm Quan tinh; ngày Bính Mậu lộc ở Tỵ, nói nhật can là Mậu, trong Tỵ tàng Canh có thể ám hợp Ất, thì ngày Mậu được Ất làm Quan tinh, nếu nhật can là Bính, thì Mậu tàng trong Tỵ ám hợp Quý, thì ngày Bính được Quý làm Quan tinh; ngày Đinh Kỷ lộc ở Ngọ, trong Ngọ có tàng Đinh hỏa Kỷ thổ, Đinh hỏa có thể ám hợp Nhâm thủy, thì ngày Đinh được Nhâm làm Quan tinh, mà Kỉ thổ có thể ám hợp Giáp mộc, thì ngày Kỷ được Giáp làm Quan tinh; ngày Canh lộc ở Thân, Nhâm thủy tàng trong Thân là trường sinh, Nhâm này có thể ám hợp Đinh, thì ngày Canh được Đinh làm Quan tinh; ngày Tân lộc ở Dậu, trong Dậu có tàng Tân kim, mà Tân có thể ám hợp Bính hỏa, thì ngày Tân được Bính hỏa làm Quan tinh; ngày Nhâm lộc ở Hợi, Giáp tàng trong Hợi là trường sinh, dụng can Giáp này ám hợp chữ Kỷ, thì ngày Nhâm được chữ Kỷ làm Quan tinh; ngày Quý lộc ở Tý, dụng Quý thủy có tàng trong Tý ám hợp Mậu thổ, thì ngày Quý được Mậu thổ, cũng chính là có được Quan tinh. Đây chính là Nhân nguyên mà chi giờ tàng, đến ám hợp Quantinh, cho nên gọi là: " không có Quan tinh, mà vẫn Thanh vân đắc lộ". Nếu như có Quan tinh Điền thực, thì không quý hiển rồi. Đây là yếu điểm của cách cục này, mà người luận mệnh không thể không biết, Quy lộc yêu cầu chỉ có một vị ở trong chi giờ mới xem là hợp cách. Nếu như trong nguyệt lệnh lại gặp lộc thần, thì gọi là tạp mà không thuần, cách cục không thật. Trong thơ nói Cách cục này mừng gặp được Thương quan Thực thần, nguyên nhân là Thương quan Thực thần có thể ngầm kìm hãm Quan Sát, lại có thể sinh Tài tinh. Lại nói mừng gặp được Tài tinh, là ý muốn dùng Tài tinh ngầm lén đến sinh trợ Quan tinh. Nếu như lộc thần bị xung phá, đó chính là bại cách, nếu có Tỷ Kiên hội lại phân khử quý khí của Quan tinh, đây đều là chỗ kị của cách này.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #28
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Bình chú: Nhật lộc quy thời cách là một loại các cục đặc thù, nói chung xem mệnh yêu cầu nguyệt lệnh không thành cách mới tìm cách cục đặc thù ( ngoại cách), song chỉ cần đảm bảo đủ điều kiện thành lập, cách này và cách cục khác có thể kiêm luận với nhau. Cách này có hai đặc điểm, Một là ám hợp để đạt được quý hiển, Hai là Thời thượng nhất vị lấy quý. Chính là lộc thần có thể ngầm lén hợp Quan, sở dĩ nguyên cục tuy không có Quan tinh hiện rõ, thực tế lại có Quan tinh có thể dụng, với lại lộc thần này lại là một vị trong trụ giờ, cho nên trở thành quý cách. Ngoài ra dương can hợp Tài mà không hợp Quan, cho nên dương nhật can dụng can tàng trường sinh trong lộc thần để ám hợp Quan tinh ( ngoại trừ sự đặc thù của ngày Bính), âm can không thể tự hợp Quan tinh, cho nên âm nhật can dụng can tàng trong lộc thần ở vào vị Lâm quan để ám hợp Quan tinh. Nói chung, có thể ám hợp Quan tinh đều là 10 can tàng trong lộc thuộc vào đất trường sinh, Lâm quan.

        Cách này cần nhật can sinh vượng, kị Điền thực,Thất Sát, Tỉ Kiếp, kị hình xung phá hại; hỷ Thực Thương và Tài tinh.

        Ám hợp lấy quý mà sợ Điền thực, Nhất vị lấy quý sợ gặp vượng trọng. Cho nên cách này nếu như chi khác mang lộc hoặc trong trụ đại vận gặp Quan, đều là phạm kị mà không hỉ; nếu như chi giờ ở trong nguyên cục với đại vận phùng xung, lại là hoại cách, mà không thể nói là quý. Nếu như trên can gặp Tỷ Kiếp, cũng là phạm kị, cho dù phát quý cũng không lớn, bởi Tỷ kiếp phân khử quý khí của ám Quan.

        Hỉ Thực thương, là bởi vì Thực Thương có thể khắc chê Quan Sát lộ rõ hoặc sinh trợ Tài tinh đã xuất lộ rõ ràng; Hỉ Tài tinh, là nguyên nhân Tài tinh có thể sinh trợ Quan tinh đến ám hợp.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #29
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Thương quan cách



        Ngũ dạng thương quan luận bất đồng,
        thân cường tài sát thị anh hùng.

        Hỏa thổ thổ kim quan khử quý,
        thủy kim mộc hỏa vô quan cùng.

        Trụ trung mộc hỏa như thành cách,
        vận kiến tài quan phương thị hanh.

        Chỉ phạ kiến quan tài ấn tuyệt,
        chung thân lao lục nhậm tây đông.

        Thương quan cách có 5 loại, có Hỏa Thổ Thương quan, có thổ kim Thương quan, hai cách này không hợp với Quan, thân vượng dụng Tài, thân nhược dụng Ấn, chắc chắn chủ phú quý, nếu gặp Quan tinh, phá bại cách cục, thì không lấy quý để luận. Lại có kim thủy Thương quan, mừng gặp được Quan Ấn; thủy mộc thương Quan, mừng gặp được Tài Quan, hai cách này nếu không có Quan tinh, trái lại là không phải đẹp. Lại có mộc hỏa Thương quan cách, hoan hỷ nhất gặp Tài. Tài nhiều gặp Quan không kị; không có Tài gặp Quan tất hung. Phàm Thương quan cách, Thân vượng vô Tài, Thân nhược vô Ấn, thì cuộc đời vất vả, là người bần khổ vậy. Thông thường người có Thương quan, đa số có tài năng trong nghệ thuật biểu diễn, nhưng khó tránh khỏi hình thương tử tức.

        Dịch nghĩa: Thương quan cách có 5 loại, hỏa thổ Thương quan và thổ kim Thương quan, hai loại này không hợp với gặp Quan, mà còn nói nhật nguyên vượng cần dụng Tài phối hợp, thân nhược cần kèm theo Ấn, mới có thể phú quý, nếu như trong hai Cách gặp phải Quan tinh, thì cách cục bị phá, không thể luận là có phú quý. Lại có kim thủy Thương quan cách, vui mừng có Quan Ấn phối hợp; thủy mộc Thương quan cách, cần dụng Tài Quan phối hợp; nếu như hai loại Thương quan cách không có Quan tinh này, trái lại không phải là tốt. . Lại có mộc hỏa Thương quan cách, thích nhất gặp Tài tinh, Tài tinh nhiều lại gặp Quan thì không phải là kị, nhưng không có Tài mà gặp Quan thì lấy hung luận. Phàm là Thương quan cách, nếu như Thân vượng vô Tài, Thân nhược vô Ấn, là cả đời lao khổ, mệnh nghèo túng vậy. Thương quan cách, phần nhiều là người làm trong nghề biểu diễn, mà còn có thể hình thương tử tức.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #30
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Thương quan linh lợi tính thông minh,
        ngạo vật cao cường chí thượng thanh.

        Tài ấn yếu phân khinh dữ trọng,
        sát quan đương biện thiển hòa thâm.

        Trụ trung nguyên hữu quan hương trọng,
        trụ nội vô quan quan kiến khinh.

        Tài ấn lưỡng minh sát nhận vượng,
        định tri phú quý túc bình sinh.
        Bản tính của Thương quan là kiêu ngạo khinh người, cho nên thường xem người trong thiên hạ thua kém mình. Thông minh lanh lợi, trí còn thanh cao. Thân vượng có Tài, Thân nhược có Ấn, hai cái rõ ràng, là mệnh phú quý hiển đạt. Trong trụ nếu như Sát Quan cùng gặp, cần phải biện giả sự nông sâu của nó, sau đó mới có thể đoán sự cát hung của nó vậy. Thường trong trụ vốn có Quan tinh, lại gặp Quan thị tai họa nặng. Nếu như trong trụ vốn không có Quan tinh, nếu như tuế vận gặp Quan tinh thì họa nhẹ. Trong trụ Tài Ấn đã rõ, lại có Dương nhận Thất sát đến trợ uy cho nó, chắc chắn chủ công danh hiển đạt. Như Thân nhược vô Ấn, Thân vượng vô Tài, Thương quan gặp Quan, hình xung phá hại, chủ khắc hãm Lục thân, làm khó Thê tử, chính là cuộc đời Cửu lưu nghệ thuật* , hoặc mệnh tăng đạo thày mo.

        Dich nghĩa: Người có Thương quan cách tín cách rất kiêu ngạo khinh người, thông minh lanh lợi, chí khí thanh cao, cho nên thường tin là người trong thiên hạ cũng không bằng mình. Thân vượng có Tài phối hợp, Thân nhược kèm theo Ấn phối hợp Tài Ấn nặng nhẹ rõ ràng, mới là mệnh phú quý vinh hiển. Nguyên cục nếu như Quan sát đều xuất hiện, cần phân biệt nông sâu cường nhược của Quan tinh và Thất sát, mới có thể suy đoán cát hung, Nguyên cục nếu có Quan tinh, tuế vận tái gặp Quan tinh thì có đại họa, nếu như nguyên cục không có Quan tinh, tuế vận gặp Quan tinh, tại họa thì nhỏ. Nguyên cục lấy Tài Ấn làm dụng, lại có Dương Nhận Thất Sát phối hợp trợ uy, thì công danh hiển đạt. Nếu như thân nhược mà không có Ấn tinh, thân vượng mà không có Tài tinh, hoặc Thương quan gặp Quan lại đến hình xung phá hại, thì sẽ khắc hại lục thân, không vợ không con, là tôi tớ của cửu lưu nghệ thuật. hoặc là mệnh hòa thượng đạo sĩ thày mo.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 3/8 đầuđầu 12345 ... cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Kính các Bác xem giúp quẻ Phục - Thuần Chấn
        By nuadoiphieubat in forum Tư Vấn Dịch số
        Trả lời: 2
        Bài mới: 06-02-13, 04:47
      2. Trả lời: 3
        Bài mới: 21-08-11, 15:39
      3. Trả lời: 0
        Bài mới: 14-07-11, 11:22
      4. Trả lời: 5
        Bài mới: 27-02-10, 20:55
      5. Nhờ Chú xem giùm 1 quẻ
        By ma_ak72 in forum Tư Vấn Dịch số
        Trả lời: 8
        Bài mới: 24-11-09, 00:25

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •