Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 8/8 đầuđầu ... 678
    kết quả từ 71 tới 79 trên 79
      1. #71
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Mậu thổ

        Mậu vi dương thổ tức khâu lăng,
        tọa khố tàng tài quý hữu hằng.

        Giáp ất vượng thời danh dũ trọng,
        tài can mộ địa thọ nan bằng.

        Ngũ hành sinh xứ vi giai triệu,
        tam hợp phùng thời thị phúc chinh.

        Ấn trọng tài khinh quan sát hoại,
        thương tàn chi thể bệnh nan thắng.


        Tích đất thành gò, Vương gia gọi là Lăng ( mộ), đều động mà có tượng thành công. Mậu thổ thuộc dương, cho nên lấy hai điều như thế để nói rõ về nó ( Mậu). Tọa dưới khố, thì gọi là có căn; tàng có Tài, thì gọi Mậu là không khô táo. Hợp được với hai điều như vậy, thì chủ không những quý, mà cũng lâu bền. Bởi vì thổ chủ về tín, thể dụng tương hợp, chính là thụ bẩm được khí trung hòa. Nhật chủ có khí, lại được Quan Sát vượng tướng, công danh tự nhiên hiển đạt. Nếu chuyên dụng Tài, lại hành Tài tinh mộ địa, chỉ e khó có thọ vậy. Mà còn mộ của Tài tinh, thì người này nhiều họa mà có bệnh về Tì vị. Thổ có thể dưỡng vận vật, cho nên mừng được sinh. Thổ hợp thì dày, nhất định không gặp họa nghiêng lệch sụp đổ, Tam hợp gặp nó, đương nhiên là phúc lợi. Nếu như tứ trụ Ấn thụ thái trọng, lại không có Tài tinh, Quan Sát đều tuyệt, lại không có Thực Thương, thành hỏa viên thổ táo, thì bệnh tật có thể biết.

        Giải thích: Tích đất thành đống gọi là gò, mộ của vương hầu gọi là Lăng, những điều này đều là động mà có tượng thành công. Mà Mậu thổ thuộc dương, cho nên dùng gò đất lăng mộ để làm ví dụ. Mậu thổ tọa khố, thì gọi là có gốc; mà trong khố còn tàng có Tài, có thể khiến Mậu thổ không khô hạn, phù hợp với điều kiện này, thì đa số được phú quý mà còn phúc khí được lâu dài. Đây là bởi thổ chủ về tín, lại thêm thể dụng phù hợp với nhau, đó là nguyên nhân thụ bẩm được khí trung hòa. Nếu như nhật chủ có khí, hành vận đến mộ địa Tài tinh, thì thọ mệnh có tổn. Mà như Tài tinh nhập khố, thì nhiều họa hoạn và có bệnh Tì vị. Ngoài ra thổ có sinh dưỡng vạn vật, cho nên mừng khi gặp được sinh khí của ngũ hành. Mà như thổ gặp hợp thì dày, cho nên địa chi nếu có tam hợp, thì Mậu thổ sẽ không nghiêng lệnh sụp lở, thì nhật chủ đương nhiên có phúc. Nếu như tứ trụ Ấn thụ thái trong, lại không có Tài tinh Quan Sát, không có Thực Thương, thì gọi là hỏa viêm thổ táo, đa số chủ thân thể có bệnh hoặc tứ chi thương tật tàn phế.

        Bình chú: Ý nghĩa của tiết này, ở vào thủy thổ cùng khố, do vậy mà dẫn đến Thân, Mậu thổ tọa khố, tức là nói đến Mậu Thìn. Thìn làm mộ thổ, trong Thìn có thủy, Mậu thổ tọa Thìn, thì chính là thân thông tọa khố mà vượng, dưới tọa lại ám tàng Tài, cho nên là điềm quý. Lúc này lại có Quan Sát vượng tướng, càng là mệnh phú quý. Ngoài ra dương thổ mừng được địa chi tam hợp cục hoặc tứ trường sinh, trong thơ nói " Ngũ hành sở sinh ( ngũ hành được đất sinh)", đó chính là ý nghĩa Dần Thân Tị Hợi. Nếu như nguyên cục có Tài tình thấu tỏ mà không có Quan Sát, hành vận lại gặp vận Thìn, đó là Tài tinh nhập mộ, thì lúc này thọ mệnh có tổn. Mà Mậu thổ lấy hỏa làm Ấn, nếu như trong cục hỏa thành bè đảng mà không có thủy, không có kim, thì gọi là hỏa viên thổ táo, nếu như lại không có Quan Sát vinh thân, thì đại đa số bệnh tật mà trói buộc đến thân, có thể không nói đến phúc khí vậy.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #72
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Kỷ thổ

        Kỷ thổ bình bình nhất dã trường,
        đa kim đa thủy diệc đa quang.

        Phàn long phụ phượng thanh danh trọng,
        khóa mã kỵ ngưu tính tự hương.

        Thân vượng quan tinh nguyên hữu dụng,
        chủ cường thất sát ứng vô thương.

        Chi can đới hợp căn cơ hậu,
        kham dữ hoàng gia tố đống lương.

        Kỷ thổ thuộc âm, mà chủ tĩnh, là thổ ruộng đồng bằng phẳng. Hỉ thực thần, Tài tinh, càng nhiều càng kì diệu. Trụ được hai chữ Thìn Dậu, để ích lợi cho bản thân nó ( Kỷ). Hai chứ Ngọ Sửu để hỗ trợ cái dụng của nó ( Kỷ). Nếu như vậy, thì thể dụng cùng có lợi ích, mà tự nhiên hiển đạt. Nhật chủ vượng tướng, gặp Quan tinh Thất sát, thì chủ vinh hoa phú quý. Phú viết: mộc khai thông thổ tháng cuối mùa, thì vun bồi cây mạ non ở đồng ruộng ( Giá sắc). Sao không thích hợp gặp được ư? Phàm dụng thổ thích hợp thấy hợp, thì không có họa trống rỗng sụp đổ. Như ngũ hành mang hợp, không thiên không bè cánh; Tài Quan đắc vị, không trọng không khinh; không mắc bệnh hỗn tạp, được khí trung hòa, thì sao không phải rường cột quốc gia ư? Thìn Sửu Dậu Ngọ 4 chữ, trong trụ gặp được chúng là cát, tuế vận gặp chúng cũng đẹp.

        Dịch nghĩa: Kỷ thổ thuộc âm, đại biểu thổ ở trạnh thái tĩnh, cho nên là giống đất đồng bằng. Kỷ nhật chủ, hỉ gặp Thương quan, Thực thần và Tài tinh, 3 cái này ở trong cục vừa nhiều vừa tốt. Mà địa chi tứ trụ có hai chữ Thìn Dậu, có thể có ích cho bản thân nó ( Kỷ); có hai chữ Ngọ Sửu, có thể trợ giúp cho cái dụng của nó ( Kỷ ). Có được những chi này, thì thể dụng cùng được ích lợi rõ ràng, người sinh tự nhiên hiển đạt. Nếu như nhật chủ vượng tướng, mà có Quan tinh Thất sát, thì là mệnh vinh hoa phú quý. Có Phú văn nói: Dụng mộc để làm tơi xốp kỷ thổ, có thể bồi dưỡng cây mạ và hoa màu. Lẽ nào là nói không phải ý Kỷ thổ hỉ gặp Quan Sát sao? Mà thổ cần phát được cái dụng của mình, thì nhất định cần gặp hợp mới được, thổ có hợp thì không có họa trống rỗng sụp đổ. Như thiên can địa chi mang hợp, ngũ hành không thiên không bè đảng, trong cục Tài Quan đểu đắc vị, không trọng không khinh, mà còn không có bệnh hỗn tạp, được khí trung hòa, thì sao không thể trở thành rường cột quốc gia ư? Thìn Dậu Ngọ Sửu bốn chữ, trong tứ trụ gặp được thì luận là cát, nếu không tuế vận gặp được cũng đẹp.

        Bình chú: Kỉ thổ hỉ gặp được hợp. Thiên can hỉ thấy Giáp Kỷ hợp, là Quan đến hợp thân, đương nhiên thích nhất. Địa chi hỉ gặp tam hợp lục hợp, do trong ngũ hành, thổ vì mộc thủy kim hỏa xung khí mà kết, cho nên địa chi có hợp, không quản tam hợp lục hợp, hợp kim hợp thủy, đều có thể hợp kiên cố khí thổ, cho nên hỉ gặp hợp. Ngoài ra Kỷ thổ mừng thân cường, khi cường vượng nhiều thì không sợ Thất sát, trong trụ có Quan Sát mà Quan Sát không tạp, thì đa số luận là cát.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #73
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Canh kim

        Canh kim phong duệ vượng thu thiên,
        đông nguyệt sinh nhân cánh diệu huyền.

        Mộc hỏa tuyệt hiềm tây dữ bắc,
        thủy kim vượng ái tẩu đông nam.

        Thời phùng thân tị tài danh bị,
        trụ đới ngưu dương phú quý toàn.

        Mai một bất tao kim thủy vượng,
        quản giáo vạn lý chưởng binh quyền.

        Canh kim có tính chất cứng rắn, chính Thu tư lệnh, thân thể của nó đương nhiên sắc nhọn. Sinh vào tháng Đông, có tượng kim thủy thanh trong. Phú viết: kim bạch thủy thanh, đây thuộc hạng người nhất định đỗ Trạng nguyên. Lại viết: Kim kiêm bao hàm thương yêu thủy, thì văn học có thể nổi tiếng. Có thể thấy dụng kim cần thủy, có tú khí của kim thủy bao bọc lẫn nhau, là kì diệu mà sâu sắc vậy. Trong trụ như mộc hỏa đều tuyệt lại vô khí, kị hành vận lạnh giá Tây Bắc; nếu thủy kim thừa vượng, hỉ hành vận ấm áp phương Đông Nam. Nếu được hai giờ Thân Tị, chính là được đất lộc và trường sinh, đa số chủ phú quý, Tài Danh đều có; Sửu Mùi chính là đất Quý nhân, Tài khố của Canh kim, cho nên phú quý song toàn. Lại cần nhật can có khí, Tài Quan vượng tướng, gặp được Tài Quan là kì diệu. Nếu như nhật chủ khinh, Tài Quan nhược, lại không tốt vậy. Không bị Mậu Kỷ thổ chôn vùi, mà hợp được kim thủy thanh trong, lại có Sát Nhận bang trợ, thì nhất định quý do nắm binh quyền mà.

        Dịch nghĩa: Canh là dương kim, có tính chất cương cứng, mùa thu là mùa kim tư lệnh, cho nên Canh sinh ở mùa Thu thì đương nhiên là kim sắc nhọn; sinh ở mùa Đông, thì chính là tượng kim thủy thanh trong. Phú văn nói: Kim bạch thủy thanh, người này nhất định đỗ Trạng nguyên. Lại nói: kim mừng được thủy đến kiềm chế, có được như vậy thì trình độ văn học cao. Có thể thấy kim cần lấy thủy để làm dụng, mà yêu cầu tú khí kim thủy bao bọc lẫn nhau, đây là chỗ huyền diệu của kim thủy. Trong trụ nếu như không có khí mộc hỏa, thì kị đến vận lạnh giá phương Tây Bắc; nếu như thủy kim đều vượng tướng, thì mừng được hành vận ấm áp phương Đông Nam. Nếu như chi giờ là Thân hoặc Tị thì chính là đất Canh kim Lộc và trường sinh, đa số chủ phú quý, người này tiền tài và danh vọng đều có; Nếu như trong trụ có Sửu và Mùi, bởi là Quý nhân và Tài khố của Canh kim, cho nên cũng là phú quý song toàn. Song cần yêu cầu nhật can có khí, Tài Quan vượng tướng, gặp được chữ nói trên mới kì diệu; nếu như nhật chủ khinh, Tài Quan lại nhược, thì lại không thể luận như vậy; Đồng thời Canh kim cũng không bị thổ chôn vùi. Không có những điều như vậy phá cách, mà lại phù hợp với tượng kim thủy thanh trong, lại có Sát Nhận đến bang trợ, nhất định là quý nhân nắm binh quyền.

        Bình chú: Canh kim hỉ thân cường, trong trụ mừng có mộc hỏa vượng tướng làm Tài Quan, hoặc có thủy vượng tướng để tiết tú, hỉ gặp Sửu Mùi và Thân Tị ( Giờ là chỗ dựa, trụ giờ gặp 4 chữ này càng kì diệu); kị thân nhược, không hỉ Mậu Kỷ thổ chôn vùi.

        Hành vận ngoài chú ý hỉ kị đã nói trên, thì còn cần chú ý đánh giá tính chất ấm áp và hàn lạnh của nguyên cục, thông thường nếu như nguyên cục kim thủy vượng mà không có mộc hỏa sưởi ấm cục, thì đa số mừng đến đất hỏa mộc Đông Nam, kị nhập đất hàn lạnh Tây Bắc.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #74
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Tân kim

        Tân kim nguyên tự thổ trung sinh,
        mộc hỏa đề cương phúc bất khinh.

        Thời ngộ hổ long đa phú quý,
        đề phùng hợi tử cánh thông minh.

        Nghịch hành tây bắc hoàn yêm trệ,
        thuận lịch đông nam định hiển danh.

        Đãn lự đông tiền hàn thái cực,
        tuy phùng noãn địa chỉ bình bình.

        Âm kim vốn không có hình chất, lại nhờ vào thổ để sinh; thổ càng nhiều, mà kim càng dày vậy. Mộc hỏa đề cương, thời nguyên ( giờ) có trợ giúp, thì phúc đó khó cân đong, cần lấy khinh trọng để so sánh tính toán, mới có thể khả dụng. Hai giờ Dần Thìn, gặp được nó, đa số chủ phú quý. Bởi Tài Quan trong Dần sinh vượng, lại là đất Thiên ất quý nhân. Trong giờ Thìn thì có chứa khố thủy mộc, chính Ấn phù thân, thủy bao gồm có tú khí. Phú viết: "Tân nhật Nhâm Thìn quý tại trung ( Ngày Tân quý là ở trong giờ Nhâm Thìn)" đây là điều chính xác vậy. Nếu như gặp Hợi Tý đề cương, thì chủ nhân thông minh xinh đẹp. Vận Tây Bắc là Bối lộc Trục mã, về danh lợi thì chủ đa số chìm ngập đình chệ bất thuận lợ, đất Đông Nam thì ấm ấp, là nơi Tài Quan thừa vượng, công danh đương nhiên hiển đạt. Nhưng kị sinh vào trước Đông chí, bởi khí Thiên địa đại hàn, mặc dù có hành đất ấm áp phương Đông Nam, thì cũng chỉ là mệnh bình thường.

        Dịch nghĩa: Tân là âm kim, không có hình chất, chỉ có dựa vào thổ để tương sinh; thổ càng nhiều, thì kim càng hùng hậu. Nếu như sinh ở tháng mộc hỏa đương lệnh, trụ giờ lại có tương trợ, thì phúc khí cực lớn, cần so sánh phân ra trọng khinh, thì mới có thể luận dụng Tài Quan. Giờ gặp Dần hoặc Thìn, đa số là người phú quý. Bởi vì Tài Quan trong Dần sinh vượng, lại là nơi mà Tân kim được Thiên ất quý nhân, mà Thìn là khố của thủy thổ, thổ là Chính ấn có thể phù thân, thủy thì trở thành tú khí kim thủy bao bọc lẫ nhau. Phu văn nói: " Tân nhật Nhâm Thìn quý tại trung", chính là ý tứ này vậy. Nếu như sinh ở tháng Hợi Tý, thì là người thông minh mà xinh đẹp. Hành vận nếu như vào đất Bối lộc Trục mã phương Tây, thì danh lợi không thuận, nếu như hành đến đất ấm áp phương Đông Nam, thì Tài Quan thừa vượng, đó chính là công danh đương nhiên hiển đạt. Nhưng lại tối kị sinh trước Đông chí, đây là lúc khí thiên địa cực hàn, lúc này cho dù có đi đến đất ôn hòa phương Đông Nam, cũng chỉ bất quá mệnh bình thường vậy.

        Bình chú: Tân kim hỉ thổ sinh, hỉ Tài Quan sinh vượng, hỉ giờ gặp Long Hổ. Cũng hỉ thành nguyệt lệnh Thực Thương cách, mà có tượng kim thủy bao bọc nhau. Nhưng sinh ở mùa Đông, lại cần cân nhắc đến điều hầu. Điều hầu lấy đại vận làm chủ, Bởi đại vận thì từ nguyệt lệnh mà sinh ra, cần nhấn mạnh là khí của khí hậu thời tiết có tác dụng cực lớn. Nguyên cục hoặc năm ngày giờ chỉ là tăng giảm nhất thời, mà không thể chi phối khí hậu, học giả cẩn thận tỉ mỉ lĩnh hội. Nguyên văn đòi hỏi là "thời nguyên có trợ giúp", chính là ý nghĩa Tài Quan dẫn vượng ở giờ.

        Nguyên văn thơ nói: "Nghịch hành tây bắc hoàn yêm trệ, thuận lịch đông nam định hiển danh ( Dịch nghĩa: Nghịch hành Tây Bắc thì vẫn chìm ngập trì trệ, thuận hành Đông Nam thì nhất định hiển danh- ND)" chỉ là điều Tân kim sinh vào mùa Đông, thì hỉ đại vận thuận hành, kị đại vận nghịch hành, đây chính là nhấn mạnh tác dụng của đại vận điều hầu vậy.

        Tình huống cực đoan nhất là: " Sinh ở trước Đông chí" Bởi vì Đông chí là ý nghĩa âm khí thịnh đến mức tận cùng, giao điểm của Đông chí, chính là lúc cực hàn lạnh, ( Sinh ) vài ngày trước nó, tuy có mộc hỏa Đông Nam điều hầu thì cũng không mấy tác dụng. Mà ngày ( Sinh ) ở sau điểm Đông chí, tuy còn ở trong tháng Tý Sửu, còn có thể lấy điều hầu cứu ứng.

        Trong dịch văn không nói rõ ràng " Sinh ở trước Đông chí" là khi nào, Theo thuyết pháp của Túy Tỉnh Tử tiền bối, sau Lập Đông, Dương thủy nắm lệnh 36 ngày, tiếp đó âm thủy năm lệnh 36 ngày, hợp thành số 72 ngày. Sở dĩ chỗ này nói " trước Đông chí" có thể lý giải là trước Đông chí 9 ngày, mà Quý thủy nắm lệnh mấy ngày đó. Nói thì có thể nói, mà nói ra thì rất vô cùng, đúng sai chỉ đợi độc giả chứng nghiệm
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #75
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Nhâm thủy

        Uông dương nhâm thủy vượng tam đông,
        tối ái can đầu hỏa thổ trọng.

        Thu giáng câu trần năng tác cát,
        xuân sinh chu tước khởi vi hung.

        Tam phương hỏa cục thiên nghi hợp,
        tứ khố đề phùng bất kị xung.

        Long hổ trọng trọng thời nhật nguyệt,
        vũ môn thần lý hóa giao long.

        Thủy quy về mùa Đông mà vượng, lấy trụ giờ mà nói, thì nhất định cần hỏa thổ thấu xuất để giành được quý hiển. Sinh ở tháng mùa Thu, là Đề cương Ấn thụ, thì nhất định cần Quan Sát thấu xuất mới cát. Nếu sinh ở Đề cương Dần Mão, chính là Thương quan Thực thần, nhất định cần Tài tinh mới có thể đạt được quý hiển vậy. Ba phương hợp thành hỏa cục, thì có tượng ký tê ( cứu giúp); tứ khố gặp ở Đề cương, nhất định cần xung khai mới đẹp. Nếu như nhật chủ, nguyệt lệnh, thời nguyên ( giờ) gặp hai chữ Dần Thìn nhiều, mà không phải Nhâm kị Long bối, thì nhất định là Lục Nhâm xu Cấn, lấy cá chép thần mà biến thành Giao long, đó chính là mệnh đại quý nhân vậy.

        Dịch nghĩa: Nhâm thủy sinh ở mùa Đông, là thủy vượng, nhất định cần can đầu có hỏa thổ thấu xuất mà dẫn vượng ở trên trụ giờ mới có thể đạt được quý hiển. Sinh vào tháng mùa Thu, Đề cương là Ấn thụ, nhất định cần Quan Sát thấu xuất mới tốt. Nếu như sinh ở hai tháng Dần Mão, là nguyệt lệnh Thương quan, Thực thần, trong cục cần có hỏa thấu làm Tài tinh, mới có thể có được quý hiển, địa chi hỏa cục, là có tượng thủy hỏa kí tế rất tốt; sinh ở 4 tháng khố Thìn Tuất Sửu Mùi, thì nhất định cần xung đề mở khố mới đẹp. Nếu như 3 trụ tháng ngày giờ gặp hai chữ Dần Thìn tương đối nhiều, không phải Nhâm kị Long bối thì cũng là Lục Nhâm xu Cấn cách, như vậy chính là mệnh cá chép thần biến thành long, đại phú đại quý.

        Bình chú: Ngày Nhâm có thể có ngoại cách để có được quý hiển, trong đó có Nhâm kị Long bối là Thìn nhiều, lấy ám xung Tài Sát để đạt được quý hiển, Lục Nhâm xu Cấn với Dần nhiều, lấy ám hợp Nhâm lộc để đạt được quý hiển, thành cách yêu cầu đạt đến hỉ kị tương quan đã thấy ở các chương tiết tương ứng.

        Tiết này nói về sự phối hợp theo một chuẩn mực khác, nhưng cũng không ngoài Tài Quan. Học giả cần chú ý, chỉ là chứng nghiện Thủy hỏa kí tế và Đề cương mộ khố cần xung khai thì đều có phú quý khác nhau.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #76
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Quý thủy

        Quý thủy trì đường ứng bất lưu,
        chi hàm huyền vũ khả hành chu.

        Thân thần cách bị hình như hổ,
        dần ngọ cục kim khí thực ngưu.

        Ấn trọng nam phương thiên hỷ duyệt,
        tài đa bắc địa khởi ưu sầu.

        Tọa khố thân cường hỏa thổ vượng,
        vi quan tất định hiệu y chu.

        Quý thủy thuộc âm, tĩnh mà có quy tắc, cho nên lấy ao đầm mà thuyết minh về nó, bởi âm chủ về tĩnh. Như dưới chi mà thành thủy cục, trên dưới giao cảm, tĩnh cực thì động, thì có thể thuyền bè qua lại. Như Thân Tý Thìn tam hợp đầy đủ, thiên nguyên có khí, có tượng đại nhân dũng mãnh biến hóa. Dần Ngọ Tuất hỏa cục đầy đủ, thủy vượng gặp hỏa, hợp thành thì gọi là Ký tế, thì bản thân có chí hướng to lớn. Ấn vượng thì hỉ hành vận Tài, Tài nhiều thì mừng được nhập đất Kiếp, song cần khí trung hòa, chớ không có thảo luận khác vậy. Nếu như tọa dưới Sửu khố, lại trùng điệp gặp Sửu, là Sửu dao Tỵ cách. Nếu như không có thương phá, thì có công lao sự nghiệp như Y Doãn Chu công vậy, chính là mệnh Tể tướng.

        Dịch nghĩa: Quý thủy thuộc về âm thủy, yên tĩnh mà không lưu động, thường dùng ao đầm để làm ví dụ ( ví von), chính là nguyên nhân của tượng âm chủ về tĩnh. Nếu như địa chi hội hợp thành thủy cục, và trên dưới thủy của nhật can giao cảm, mới là ý nghĩa tĩnh cực mà động, mà trở thành đường thủy mà lưu thông tàu thuyền, vì lý do đó nếu địa chi Thân Tý Thìn tam hợp đầy đủ, thì thiên nguyên có khí, đa số là mệnh tốt, có tượng đại nhân dũng mãnh biến hóa; nếu như địa chi có đầy đủ Dần Ngọ Tuất, thì gọi là thủy vượng gặp hỏa, thành tượng thủy hỏa Ký tế, người này hiển nhiên thanh thiếu niên có chí hướng lớn. Nếu như nguyên cục Ấn vượng, thì hành vận mừng được hành vận Tài, nếu như nguyên cục Tài nhiều, hành vận thì mừng được nhập đất Tỷ Kiếp, mục đích là đều cần đạt được khí trung hòa, mà không có nguyên nhân khác. Nếu như tọa dưới là Sửu, trụ khác lại có chữ Sửu trùng trùng, thì có thể nhập " Cách Sửu dao Tị", nếu như nhập cách mà không bị phá, thì có thể giống như Y Doãn Chu công, chí ít cũng là mệnh Tể tướng.

        Bình chú: Nguyên một câu trong thơ nói " Tọa khố thân cường hỏa thổ vượng, vi quan tất định hiệu y chu ( dich nghĩa: Tọa khố thân cường hỏa thổ vượng, làm Quan nhất định giống Doãn Chu- ND)", đây là ý nghĩa tổng luận thân cường xem Tài Quan để đạt quý hiển. Trong dịch văn nói, tọa Sửu mà nhập " Sửu dao Tị cách" song cũng chỉ là một ( cách) trong đó. Nếu như không nhập ngoại cách này, thì xem chính cách, nếu như thân cường mà Tài Quan vượng, cũng là mệnh phú quý, học giả không cần chấp nhất.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #77
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Luận Hình Khí

        Tử bình hình khí lý nguyên chân,
        suy trắc cơ quan diệu vận thần.

        Giáp củng tài quan nguyên hữu vi,
        hư yêu lộc mã khởi vô nhân.

        Tuần hoàn tạo hóa minh tiêu trường,
        điên đảo âm dương định chủ tân.

        Thức đắc ngũ hành khinh trọng pháp,
        cát hung phương khả hướng nhân luận

        Dịch nghĩa: Phương pháp của Tử bình, không ngoài suy đoán cái đạo huyền cơ sâu xa của hình với khí trong bát tự. Trong mệnh kẹp củng Tài Quan hoặc hư yêu Lộc Mã, đều là nguyên nhân phú quý. Mà sau khi thân nhập hiểu được sự biến hóa của chủ khách, sự tiêu trưởng của âm dương và sự khinh trọng của ngũ hành trong mênh, thì mới có thể luận được cát hung của con người.

        Bình chú: Hạt nhân của luận mệnh, là ở vào hình khí. Tài Quan là hình, bất kể Tài Quan là minh thấu thành cách, còn hư yêu kẹp củng đều là "Hình" --- thấy và không thấy, thì nó đều có thể ở đâu, bất kể tìm được hoặc không tìm được, nhất định phú quý mà có hoặc không có thì đều không xa rời nó. Mà Tài Quan trong ngũ hành, có phân chia ra kim mộc thủy hỏa thổ, có phân biệt âm dương, cho nên có sự biến hóa của tiêu trưởng và xem xét đến sự khinh trọng, thì đây chính là " Khí", định tính với định lượng cát hung lại cũng không rời xa nó. Cho nên luận mệnh đòi hỏi hình và khí thì đều phải xem trọng, thì mới có thể trăm lần mà không thể sai xót.

        Ghi chú:
        - Ở Chương này thì Hình: Là những cái hữu hình, những cái biểu hiện ra bên ngoài mà chúng ta nhìn thấy chứ không phải hình hại - ND.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #78
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Luận hư yêu kẹp củng

        Giáp củng hư yêu dụng tại tiên,
        nhĩ lai thị lý thất chân truyền.

        Tam kỳ vị tễ lục khanh địa,
        tứ chính thân đảm xích ngũ thiên.

        Lộc mã quý nhân thừa tử cáo,
        tài quan ấn thụ tái thanh thiên.

        Trụ trung nhị lục câu diêu hợp,
        phú quý vinh hoa tạo hóa toàn.

        Dịch nghĩa: Xem mệnh trước tiên xem có Kẹp củng hư yêu làm dụng thì sau mới luận đến cái khác, đây là đạo lý mà từ trước đến nay đã thất truyền. Mà kẹp củng hư yêu có thể được Tam kỳ, có thể thành Tứ chính, có thể được Lộc Mã Quý nhân, cũng có thể tiếp nhận được các vật như Tài Quan Ấn Thụ..., như vậy Kẹp củng Hư yêu thành công, người này phần đa đường đường chính chính hoặc phú quý song toàn.

        Bình chú: Trên trời Tam kì Giáp Mậu Canh, dưới đất Tam kì Ất Bính Đinh, Nhân trung Tam kì Nhâm Quý Tân; Tứ chính là Tý Ngọ Mão Dậu; mà Lộc Mã Quý nhân trong thơ là chỉ Lộc Mã Quý nhân trong thần sát, không phải danh xưng của Tài Quan vậy. Xem mệnh cần lấy chính cách làm chủ, Can sáng tỏ mà không có Tài Quan Ấn, thì có thể Kẹp củng Hư yêu có thể có Tài Quan. Ngoài ra trong cục có Tam kì Tứ chính Lộc mã Quý nhân, có thể phân chia thêm cho mệnh cục, thậm chí có thể chi phối định hướng mệnh cục. Giống nhau, thì Tam kì Tứ chính Lộc mã Quý nhân... cũng cùng một dạng với Tài Quan Ấn thụ, có thể từ trong hư để tìm kiếm.

        Câu cuối của nguyên thơ nói "Trụ trung nhị lục câu diêu hợp ", trong đó nhị lục chỉ số của địa chi, Sửu là 2, Tị là 6, điều mà đây chỉ là hư yêu nhiều mà do ám hợp Tị mà đến, như Tý dao Tị ( Kì thực là Lục âm triều dương, Lục Ất thử quý..., cũng thuộc nội hàm của Tý dao Tị ), Sửu dao Tị..., có thể đạt được quý hiển.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #79
        Tham gia ngày
        Mar 2014
        Bài gửi
        429
        Cảm ơn
        13
        Được cảm ơn: 110 lần
        trong 94 bài viết

        Default

        Lời cuối biên dịch và chú giải của sách

        Tôi nghiên cứu mệnh lý, đã có nguồn gốc từ lâu vậy. Những năm tóc còn để chỏm, mỗi lần gặp Lý Nhân xem bói ở nhà chú của mình, không thể không bám quanh vào cái bàn dài, lúc đó tuy không biết Càn Khôn âm dương ra sao, nhưng với sự huyền diệu của đạo dịch,tôi lại sớm có tâm khát khao và say mê.

        Năm Bính Tuất, phụ việc ở Nam Kinh, đi dạo ở nhà sách, ngẫu nhiên có được một cuốn giáo trình tứ trụ học, về nhà giở xem, cho rằng không cách nào " Bắt chước mù quáng", sau đó thì đem sách gác xó.

        Được hai năm, đột nhiên tâm huyết trào dâng, bắt đầu lại một lần nữa nghiên cứu mệnh lý, lần lượt đặt mua 《 Thuật đoán mệnh cổ đại Trung Quốc 》, 《 Mệnh lý ước ngôn 》, 《 Tử bình chân thuyên 》, 《 Trích thiên tủy 》lại đọc thêm các sách thật tỉ mỉ kĩ càng, cho dù với nhật chủ cường nhược, phân biệt cân bằng dụng thần đơn giản có thể đạt được, nói chung có thể cảm giác được sự tinh diệu của mệnh lý, mà vẫn không thỏa đáng được đến mức tận cùng như vậy.

        Chợt một ngày, trên mạng thấy một người đàm luận cách cục và dụng thần Tử bình, tựa như một trời một vực về cân bằng dụng thân mà mình đã biết, lại thêm có hứng thú. Thế là dụng tâm tìm kiếm sách về luận thuật cách cục Tử bình, tốn hơn một năm, được sách nguyên bản 《 Tử Bình Chân Thuyên 》, 《 Uyên hải Tử Bình 》, 《 Tam Mệnh Thông Hội 》, 《 Mệnh lý Chính Tông 》, 《 Quản Kiến Tử Bình 》...Sau khi đọc và nghiên cứu thì lại lên mạng thỉnh cầu những người có trình độ chuyên sâu giúp đỡ, thì mới bắt đầu biết đến thuật Tử Bình, phương pháp đầu tiên là lấy sự thông suốt, lấy sự thuần tạp và thành bại của cách cục mà luận phú quý cát hung vậy.

        Tôi tuy xuất thân từ sơn dã, có thể từ nhỏ đã tiếp nhận giáo dục hiện đại, thi hương lần thứ 2, thi huyện là thứ nhất, tốt nghiệp ở trường cao đẳng khoa kỹ thuật, đi làm ở xí nghiệp nhà nước, tuy không phú không quý, nhưng cũng có thể xem là thuận buồn suôi gió. Tôi nghiên cứu thảo luận mệnh lý, không cảm thấy sai trái nhiều với mệnh vận vậy, mà có duyên với sự ca ngợi về sự huyền diệu của thiên đạo mà muốn có sự ước vọng là để cứu người vậy. Gần một năm trở lại đây, tôi say sưa với cách cục Tử bình, ngẫu nhiên mà thu thập được, liền tìm chứng cứ với mệnh lệ thực tế, 10 thì nghiệm đến 9. Thường than thở viết: Ôi Sinh mệnh, ôi vận mệnh, cổ nhân không ngoài ý vu oan vậy.

        Có vị tiên hiền viết: Sách mệnh cổ, lấy hai sách "Trích Thiên Tủy" và《 Tử Bình Chân Thuyên 》là chu đáo tỉ mỉ nhất, sau này người nói mệnh học, có thiên ngôn vạn chữ, cũng không thể vượt qua phạm vi của hai quyển sách này, ví như Giang Hà Nhật nguyệt ( Trường Giang và Hoàng Hà, Mặt trời và mặt trăng) không thể phế bỏ được vậy. Nói như vậy cho dù tương xứng, nhưng chính là ngôn luận của một nhà mà thôi. Thầm cho rằng, học giả ham muốn thăm dò dòm ngó sự kỳ diệu của cách cục Tử bình, thì cần lấy sách《 Tử Bình Chân Thuyên 》 làm đầu mối, lấy 《 Uyên Hải Tử Bình 》, 《 Tam Mệnh Thông Hội 》, 《 mệnh lý Chính Tông 》, 《 Quản kiến Tử Bình 》... làm tông. Mà 《 Uyên Hải Tử Bình 》 khó nắm chắc bởi quá mộc mạc, 《 Tam Mệnh Thông Hội 》 bới qua tạp mà khó năm bắt, 《 Mệnh lý Chính Tông 》 dễ hiểu sai bởi quá thiên lệch, trong đó chỉ có 《 Quản Kiến Tử Bình 》 là độc đắc. Người mới học mệnh lý, lấy 《 Tử Bình Chân Thuyên 》 phối hợp 《 Quản kiến Tử Bình 》tiến hành nghiên cứu sâu và đọc tỉ mỉ, thì nhập môn không khó.

        Có rung cảm hơn thế, tôi lấy nguyên bản hai sách 《 Tử Bình Chân Thuyên 》 và 《 Quản Kiến Tử Bình 》của nhà xuất bản Dân Thanh thêm vào đó so sánh với tiến hành biên dịch và chú giải, hợp thành một quyển, tên sách là 《 Tử Bình Chân Thuyên Quản kiến 》, mang đi in cá nhân, coi là ghi chép cá nhân.

        Bình chú: 《 Tử Bình Chân Thuyên 》nói đơn giản mà lý lẽ thâm sâu, như nay trên mạng không ít người nghiên cứu cách cục của Từ bình với biên dịch và chú giải, trong đó không hiếm có những hiểu biết chính xác, đến nay bản thân cũng không nghĩ cùng với mọi người thêm vào. Hôm nay phần biên dịch và chú giải cách cục quyển thượng《 Quản Kiến Tử Bình 》đã hết và đưa lên blog này, còn như quyển hạ của Quản kiến, là luận phần phú văn của mệnh, lại là chỗ tinh hoa của sách này, nó luôn luôn là phần trọng điểm mà bản thân tôi hàng ngày nghiên cứu, một số lời chú giải không còn công khai nữa. Ngoài ra, trước mắt 《 Tử Bình Chân Thuyên Quản kiến 》là tàng thư in ấn của bản thân, bản thân cần chuẩn bị thời gian một hai năm để đính bản cho phù hợp rồi tiến hành chỉnh lý, biên dịch và chú giải cho phù hợp, đồng thời có phối hợp với các mệnh lệ chân thật, sau đó cung cấp cho sư phụ và bạn bè của tôi để cùng trao đổi thảo luận .
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "quangvinhn" về bài viết có ích này:

        htruongdinh (20-09-14)

      Trang 8/8 đầuđầu ... 678

      Đề tài tương tự

      1. Kính các Bác xem giúp quẻ Phục - Thuần Chấn
        By nuadoiphieubat in forum Tư Vấn Dịch số
        Trả lời: 2
        Bài mới: 06-02-13, 04:47
      2. Trả lời: 3
        Bài mới: 21-08-11, 15:39
      3. Trả lời: 0
        Bài mới: 14-07-11, 11:22
      4. Trả lời: 5
        Bài mới: 27-02-10, 20:55
      5. Nhờ Chú xem giùm 1 quẻ
        By ma_ak72 in forum Tư Vấn Dịch số
        Trả lời: 8
        Bài mới: 24-11-09, 00:25

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •