Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 7/9 đầuđầu ... 56789 cuốicuối
    kết quả từ 61 tới 70 trên 85
      1. #61
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Nhìn lại, Thai Nguyên theo lý luận ở trên sẽ rất khó mà xác định, chúng ta cũng không ngại theo trong thực tiễn mà vận dụng để xác định tính chính xác của nó chứ? Tất nhiên, thông thường chỗ mệnh sư dùng lấy Thai Nguyên đều ở một phương pháp trong 《 Uyên Hải tử bình 》, các sách như 《 Kim Điếu Dũng bí tịch 》, 《 Mệnh Học tân lương 》cũng vậy. Lấy loại phương pháp này định Thai Nguyên, có người nói Thai nguyệt thấy quý, tất được phúc ấm; hình xung Thai Nguyên, quyết chủ khó khăn gian khổ; có hung thần ác sát lâm ở Thai Nguyên, thì căn cơ mỏng manh; nếu nạp âm Thai nguyên cùng nạp âm trụ giờ tương sinh thì chủ trường thọ, cùng can chi trụ giờ hình xung khắc hại thì chủ yểu thọ. Quỷ Cốc Tử nói: " Trong Thai nều có lộc, sinh ở nhà phú quýa, hoặc nếu gặp Không Vong, bần cùng lấy ai oán".

        Kết quả cuối cùng là như thế nào chứ? Vẫn lấy thực tế để hồi đáp.

        Mệnh vua Quang Tự: Tân Mùi/ Bính Thân/ Đinh Hợi/ Nhâm Dần. Thai nguyên Đinh Hợi.

        Trong Thai không có lộc, lại gặp tuần không, nhưng mệnh chủ sinh ở gia đình thân vương, đại thụ phúc ấm, bản thân địa vị cũng là Hoàng đế. Trụ giờ Nhâm Dần nạp âm là Kim bạc kim, Thai nguyên nạp âm là Ốc thượng thổ, cả hai đều tương sinh tương hợp, lý ứng trường thọ, nhưng mệnh chủ chỉ sống đến 38 tuổi.

        Mệnh Nghiêm Thế Phiền: Quý Dậu/ Bính Thìn/ Tân Mão/ Tân Mão. Thai nguyên Đinh Mùi.

        Trong Thai không có lộc, lại gặp tuần không, thế nhưng cha mệnh chủ là Nghiêm Tung Vi là Thừa tướng quyền khuynh thiên hạ, mệnh chủ 18 tuổi do phụ ấm mà vào học ở Quốc Tử Giám, sau khi tốt nghiệp liền vào triều mà nhận quan, 35 tuổi liền theo cha đến chấp chưởng triều chính. Trụ giờ Tân Mão nạp âm là Tùng bách mộc, thai nguyên nạp âm là Thiên hà thủy, cả hai đều tương sinh tương hợp, lý ứng trường thọ, nhưng mệnh chủ 57 tuổi bị tịch thu tài sản và chém mất đầu.

        Mệnh Chung Kính Văn: Quý Mão/ Ất Mão/ Đinh Mùi/ Giáp Thìn. Thai nguyên Bính Ngọ.

        Trong Thai có lộc, thế nhưng mệnh chủ sinh ở gia đình bình thường, cha làm một nhà trọ nhỏ để cả nhà sinh sống. Trụ giờ Giáp Thìn nạp âm là Phúc đăng hỏa, Thai nguyên nạp âm là Thiên hà thủy, cả hai tương khắc, lý ứng đoản thọ, nhưng mệnh chủ thọ đến 98 tuổi.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #62
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Mệnh Đổng Trúc Quân: Canh Tý/ Mậu Dần/ Mậu Thân/ Canh Thân. Thai nguyên Kỷ Tị.

        Trong Thai có lộc, nhưng mệnh chủ sinh ra ở gia đình bần khốn, cha làm phu kéo xe, mẹ làm thuê. Trụ giờ Canh Thân nạp âm là Thạch lựu mộc, Thai nguyên nạp âm là Đại lâm mộc, cả hai cùng với nguyệt lệnh Dần Tị Thân tam hình, lý ứng đoản thọ, nhưng mệnh chủ sống đến 98 tuổi.

        Nam mệnh 1: Tân Mão/ Quý Tị/ Canh Tuất/ Mậu Dần. Thai nguyên Giáp Thân.

        Trong Thai có lộc, nhưng phụ mẫu mệnh chủ là nông dân bần khốn, lúc mệnh chủ còn nhỏ thì lần lượt qua đời, có thể nói là không có phúc ấm. Trụ giờ Mậu Dần nạp âm là Thành đầu thổ, Thai nguyên nạp âm là Tỉnh tuyền thủy, cả hai xung khắc nhau, lý ứng đoản thọ, nhưng mệnh chủ đến năm nay đã quá Hoa Giáp (60 tuổi) cũng cường tráng.

        Nam mệnh 2: Mậu Dần/ Đinh Tị/ Tân Sửu/ Canh Dần. Thai nguyên Mậu Thân.

        Trong Thai có lộc, nhưng mệnh chủ sinh ở nông gia bình thường, tốt nghiệp tiểu học thì toàn là làm nông. Trụ giờ Canh Dần nạp âm Tùng bách mộc, Thai nguyên Đại dịch thổ, cả hai xung khắc nhau, lý ứng đoản thọ, nhưng mệnh chủ đến nay tuổi đã quá cổ là hi, còn sống khỏe.

        Nam mệnh 3: Quý Sửu/ Giáp Dần/ Bính Tý/ Bính Thân. Thai nguyên Ất Tị.

        Trong Thai có lộc, nhưng mệnh chủ xuất thân nông gia bần khổ, bản thân cũng là nông dân bình thường. Trụ giờ cùng với Thai nguyên và trụ tháng là tam hình, lý ứng đoản thọ, nhưng mệnh chủ thọ đến 73 tuổi.

        Do vậy, 《 Uyên Hải tử bình · Tường giải định chân luận 》 viết: " Bí quyết Tử bình, không sử dụng Thai Nguyên, Tiểu Vận, không sử dụng nạp âm..." Do đó, ở 《Tử Bình cử yếu ca 》, 《 Bát Tự toát yếu pháp 》, 《 Bảo pháp nhất nhị 》, cùng với 《 Tứ Ngôn độc bộ 》, 《 Ngũ Ngôn độc bộ 》 trong các phù văn Tử Bình quan trọng đều không luận Thai Nguyên, Tiểu Vận cùng nạp âm. Cho nên, 《Tử Bình chân thuyên 》cũng không có đề cập đến nội dung liên quan.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. #63
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        14, Hai thuyết đúng sai về thủ dụng Mệnh cung

        Tra duyệt Tử Bình đệ nhất kinh điển 《 Uyên Hải Tử Bình 》, ở trong có các loại như "Khởi thai pháp", "Khởi tức pháp", "Khởi biến pháp" , duy độc nhất không có phương pháp luận Mệnh cung. Có thể thấy, Tử Bình luận mệnh không dụng Mệnh cung. Cho nên, 《 Tử Bình chân thuyên 》 không dùng Mệnh cung. 《Thần Phong thông khảo 》cũng không giới thiệu Mệnh cung. Trong sách duy chỉ có ở trong một đoạn "Ngũ tinh chính thuyết" , khẳng định các sách 《 Ngũ Tinh chỉ nam 》, 《 Cầm Đường hư thực 》, 《 Điện Giá 》, 《 Bộ Thiên kinh 》 đều là chính lý, nhưng ở trong 《 Thần Phong thông khảo 》 lại không có thấy nội dung trong sách, tại sao vậy chứ? Bởi vì nó nói đều là những quyển sách về Tinh học, mà không phải là Tử Bình học vậy.

        Nhưng mà, 《 Tam Mệnh thông hội 》, 《 Tinh Bình hội hải 》, 《 Tân Tăng mệnh học tân lương 》 các sách này thì luận nhiều về Mệnh cung, như chỗ mệnh sư manh nhân Bành Khang Dân tiên sinh tác giả sách 《 Mệnh lý tinh hoa》, thì hết sức nhấn mạnh tính trọng yếu của Mệnh cung, nói "Mệnh là chỗ hết sức quan trọng tức là cung đo lường". Tóm lại, trong Mệnh là bí quyết mấu chốt, chính là cung đo lường cát và hung.

        《 Tam mệnh thông hội · Luận tọa Mệnh Cung 》 thì nói: "Thần vô miếu vô sở quy, nhân vô thất vô sở tê, mệnh vô cung vô sở chủ, cố hữu mệnh cung chi thuyết. Bất nhiên, lưu niên tinh thần, vi hung vi cát, dĩ hà bằng cư?" Ý tức là suy đoán lưu niên cát hung, hoàn toàn dựa vào Mệnh cung.

        Đã xem Mệnh cung là trọng yếu như vậy, tại sao 《 Uyên Hải tử bình 》và 《 Tử Bình chân thuyên 》 lại đều không có chữ đề cập đến Mệnh cung chứ? Nếu như chúng ta tử tế mà xem nguồn gốc và công dụng của Mệnh Cung, sẽ tìm ra được duyên cớ rõ ràng.

        Mệnh cung, thực ra là nội dung Tinh học (môn học chuyên nghiên cứu về các vì sao), không ở trong phạm vi của Tử Bình. Chúng ta hiểu rằng, Vạn Dục Ngô ở trung niên sau khi quy ẩn hơn 30 năm, viết ra 5 tác phẩm nổi tiếng, tức là 《Tam Mệnh thông hội 》, 《 Tinh học đại thành 》, 《 Lan Đài diệu tuyển》, 《 Tương Tự tâm kinh 》và 《 Dịch Kinh hội giải 》. Trong đó, sách làm ảnh hưởng đến đời sau rất lớn, đó là lấy Tứ trụ cách cục luận mệnh là 《 Tam Mệnh thông hội 》, cùng lấy ở sách 《 Tinh học đại thành 》 cung độ của Tinh Tú mà luận mệnh, cùng lấy trong 《 Lan Đài diệu tuyển 》 nạp âm ngũ hành để luận mệnh.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. #64
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Tinh học luận mệnh tự lấy thành hệ thống một bộ, là áp dụng cung độ của tinh tú ( các vì sao), mà không phải là Thập Thần, cách cục trong Tử Bình. 《 Kèm theo lời giải thời đại nhà Hán 》 nói: "Tìm gặp Ngũ Tinh Nhật Nguyệt, tai họa hung ách, tốt đẹp cát long, tất cả kỹ thuật ở chỗ này, thuật này mà Thánh nhân biết mệnh vậy".

        Có thể thấy, có sớm ở triều đại nhà Hán, hệ thống Tinh học luận mệnh liền đã hình thành là tương đối hoàn chỉnh. Triều đại nhà Tống có 《 Đông Pha chí lâm》 lại nói: "Thơ Thoái chi nói: Người sinh Thìn, tháng gặp đủ sao Bắc Đẩu. Chính là xem xét bỏ con bò cạp là Thân cung, mà chính là kẻ bầy tôi lại lấy xem con bò cạp là mệnh, danh dự cả đời gặp nhiều phỉ báng, là cùng bệnh nguy hiểm vậy". Chỗ lý lẽ này là nói nội dung đoán mệnh đó là nội dung của Tinh học.

        Chỗ nói trong Tinh học là "Cung độ", chỉ Mệnh cung ở bên trong là ở 12 cung bao gồm: cung Tài Bạch, cung Huynh Đệ, cung Điền Sản, cung Tử tức, cung Thê Thiếp, cung Tật Ách, cung Thiên Di, cung Quan Lộc, cung Phúc Đức, cung Tướng mạo. Chỗ gọi là "Tinh tú", là chỉ 28 vì sao, Thất Chính Tứ Dư, Ngũ tinh Lục diệu và các loại thần sát. Sử dụng các loại phương pháp đoán mệnh này thì bước thứ nhất chính là "An thân lập mệnh", tức là xác lập Mệnh cung cùng an Thân, lời nói chỗ Bành Khang Dân tiên sinh là: "Chỗ mệnh gọi là đoán mệnh, chính là chỉ mệnh cung".

        Chỉ có xác lập Mệnh cung, mới có thể xác lập Cung độ còn lại. Lập mệnh dựa vào Thái Dương hành cung, an thân thì dựa vào Thái âm để hành cung. Lấy mộc khí kim thủy là vua, lấy hỏa tính là kẻ tiểu nhân. 12 cung được nhiều cát tinh, cung này liền lấy cát luận, được nhiều hung tinh liền lấy hung luận. Lục cung Thân, Mệnh, Điền, Tài, Quan, cùng nhật nguyệt có tình thì quý, hoặc được Lộc Mã quý nhân và Thiên Nguyệt nhị đức các loại cát tinh, thì thuộc là thế hệ phi phàm. Như Kim tinh thủ Mệnh cung, háo sắc mà thanh cao; mộc tinh thủ Mệnh cung, là cương nghị mà trắc ẩn; là ở vị trí Ngọ, mắt tất không có ánh sáng; kế đến vị trí Thân, trên khuôn mặt có khuyết hãm; an mệnh Hợi cung, được nhật nguyệt mộc kim thủy khí là tam hợp đối chiếu, thì có tượng chỗ văn chương bị đè nén; nhật nguyệt mộc kim thủy ngũ tinh đồng ở nơi Song Ngư cung, là ngũ tinh triều đẩu, có tượng làm khanh tướng quý cách. Thuyết Tinh học không có đại tiểu vận, ở lúc suy đoán lưu niên cát hung, chỉ cần xem hành niên nhập cung độ mà luận, "Hành niên vị trí một cung là Thái tuế, hai là Thiên Không là người đáng sợ, ba là Tang Môn, Bạch Hổ tinh, bốn là Thái âm Câu giảo ...". Giống như Mệnh cung là Tý, gặp năm Tý, tức là Thái Tuế thủ mệnh.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #65
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Mệnh cung khởi từ năm sinh đến năm này, thần sử dụng đếm nghịch tới năm này tức là lưu niên. Năm Tý thì Thái Tuế ở Tý, Thiên Không ở Sửu, Tang Môn ở Dần …, như vậy một năm một cung tùy theo Thái Tuế di chuyển. Đích xác là, loại phương pháp đoán mệnh này bỏ mệnh cung thì không có thuận theo luận mệnh, cho nên, 《 Tam Mệnh thông hội 》 mới nói "Mệnh vô cung vô sở chủ... Bất nhiên, lưu niên tinh thần, vi hung vi cát, dĩ hà bằng cư?". Cho nên , 《 Minh Tân tiên sinh cốt tủy ca 》mới nói : "Tinh gia chỉ luận hạn là bằng chứng, Tử Bình chuyên lấy vận là quyết định". Tinh gia suy đoán cát hung là lấy cung độ hành hạn làm bằng chứng, Tử Bình thì là lấy đại vận làm bằng chứng, phương pháp không giống nhau.

        Sau khi rõ ràng ở điểm này, chúng ta liền có thể hiểu rõ Tử Bình không luận mệnh cung là lý do này. Bởi vì Tinh học là Tinh học, Tử Bình là Tử Bình, cả hai điều này là hai con đường xe chạy, giống như hỏa xa và khí xa.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #66
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Có hay không có lấy kết hợp cả hai Tinh học và Tử Bình để luận mệnh chứ?

        Thực tế không ít học giả mệnh lý đã sớm làm ra như vậy. Ngụy Minh Viễn trong 《 Tân tăng mệnh học tân lương 》 là như vậy, Bành Khang Dân trong 《 Mệnh lý tinh hoa 》 cũng làm như vậy. Trong phú văn nổi tiếng Tử Bình mệnh lý 《 Tăng bổ Nguyệt đàm phú 》Tinh học cũng có nhận định "Sao Thủy gặp hình, không khuyết môi và răng lòi xỉ; Hỏa la mang kèm theo hao, không ngu ngốc mà nhiều sẹo... Bỉ can phẩu tâm, huyết cổ lâm vu mệnh độ; kỷ tín cương liệt, hỏa la bán vu thân cung... Nên biết hiền như Mạnh Mẫu, thiên nguyệt nhị đức đồng cung; nên biết dung mạo như Tây Thi, sao thủy kim tinh đồng độ" …. Về phần hiệu quả như thế nào, cũng cần phải có kết luận, bởi vì phương pháp đoán mệnh bọn mệnh sư khi sử dụng hai loại phương pháp này đều là thuộc hỗn tạp, bọn họ đều không rõ chỗ này là hai loại hoàn toàn khác nhau.

        Điểm này, chúng ta theo Bành Khang Dân trong 《 Mệnh Lý tinh hoa 》có thể thấy rõ. Chỗ này trước sau đã theo hai vị mệnh sư manh nhân, bản thân Bành tiên sinh có hơn 50 năm kinh nghiệm đoán mệnh nói: Học mệnh lý giai đoạn sơ cấp là đọc thuộc lòng phép đoán mệnh trong 《 Uyên Hải tử bình 》. Giai đoạn trung cấp trước hết học phép an thân, tiếp theo là học 12 cung độ và bí quyết trường sinh, cùng đọc hiểu các sách như 《Nguyệt đàm phú 》, 《 Tứ Ngôn độc bộ 》, 《 Ngũ Ngôn độc bộ 》, 《 Kế Thiện thiên 》. Tiến vào giai đoạn cao tầng cần phải thông thạo đọc xong 《Trích Thiên Tủy 》, 《 Cùng Thông bảo giám 》, 《 Lan Giang võng 》, 《Mệnh Lý chính tông 》, 《 Quả Lão tinh tông 》 mới là tốt nghiệp cao đẳng.

        Rất là rõ ràng, ở trên Bành tiên sinh không rõ chỗ 《 Kế Thiện thiên 》 chính là một nội dung trong 《 Uyên Hải tử bình 》 , còn 《 Cùng Thông bảo giám》 chính là biệt danh 《 Lan Giang võng 》, 《 Mệnh Lý chính tông 》 cùng các loại 《 Tứ Ngôn độc bộ 》, 《 Ngũ Ngôn độc bộ 》, đều thuộc về phép đoán mệnh trong 《Uyên Hải tử bình 》, ở trong đó cũng không có phân ra tầng thứ cao thấp. 《 Quả Lão tinh tông》 và nội dung 12 cung độ thì không thuộc về phạm trù của Tử Bình.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #67
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Tất nhiên, mặc dù là lấy Tinh học luận mệnh, cũng có giữ thái độ phản đối đối với Mệnh cung, như 《 Thiên Thể lịch 》 luận Mệnh cung nói: "Đất có Nam Bắc khác nhau, Thái Dương có khác nhau khi ra vào... có khác nhau khi đến Thìn đến Mão đến Dần, sao có thể lấy chung là gặp Mão mà an mệnh chứ!" Phép nói này không thể nói không có đạo lý được, nhưng Mệnh cung cuối cùng cần phải xác định như thế nào, đó là Tinh học vẫn cần tiếp tục nghiên cứu một đề khóa, cùng Tử Bình học là không có liên quan.

        Tử Bình đã không sử dụng Mệnh cung, vậy có thể làm theo kiểu luận mệnh đúng tinh hoa, vậy chúng ta chỗ học giả Tử Bình vẫn cần phải nắm chỗ Mệnh cung gộp vào đây sao? Tất nhiên, nếu như hiểu được cách cục Tử Bình nhất thời không có thể khó lấy tinh thông, lại muốn nóng lòng mà cầu thành, liền nghĩ chạy một lúc cả đường thủy lẫn đường bộ, chỗ này cũng không thể nếm được mùi vị. Chỉ là tâm lý phải rõ ràng, Tinh học cùng Tử Bình là hai loại hoàn toàn là hệ thống luận mệnh khác nhau, quan hệ ở Tinh học cùng Tử Bình không thể loạn xạ hòa cùng bùn loãng được.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #68
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        15, Hai thuyết đúng sai khi luận mệnh nạp âm

        Trước khi ở Tử Bình mệnh học sáng lập, nhiều phương pháp đoán mệnh đã lấy năm sinh làm chủ, cùng lấy nạp âm ngũ hành luận sinh khắc. Như 《 Lý Hư Trung mệnh thư 》 mở sách thấy nói: "Giáp Tý Thiên Quan tàng, kim thành Tử vượng Mẫu suy, chìm sâu trong nước mà mất đi ánh sáng, cần có hỏa cách, khí mới vượng thịnh, mới có thể hiển dụng." Ý là nói: người sinh năm Giáp Tý, nạp âm ngũ hành là Hải Trung Kim, kim là Quan tinh của Giáp mộc, gọi là Thiên Quan. Loại này có kim tàng sâu trong biển, thổ không dày, kim là tử vượng mẫu suy, do nó chìm sâu trong nước cho nên không thể phát sáng được, tất nhiên phải cần dụng hỏa đoán luyện, khí mới có thể hiển lộ kiên cường, được chỗ sử dụng.

        Văn chương lấy năm sinh nạp âm luận mệnh, thì có 《 Tam Mệnh chỉ mê phú 》rất nỗi tiếng. Bởi vì lời nói Đường Thẩm trong phú viết dẫn dụng: "Chỗ này là đúng tổ tiên của ngũ hành, xem mệnh trước tiên lấy ở năm, mạc giáo niên bị biệt can thương, chiết chí tồi cương nan dữ ngữ." Ý tức nạp âm ngũ hành tài thị chân ngũ hành, toán mệnh yếu dĩ niên can nạp âm ngũ hành vi chủ, bất yếu nhượng niên can thụ đáo thương hại. Đường thẩm còn nói "Ngũ hành nhiều là quỷ, khắc ta là Quan Quỷ. Các loại như người sinh Giáp Tý ( Hải Trung kim ), thấy Bính Thân ( Sơn Hạ hỏa ), Ất Sửu ( Hải Trung kim ) thấy Đinh Dậu ( Sơn Hạ hỏa )". Rất rõ ràng, lý này Quan Sát đều là lấy nạp âm ngũ hành luận sinh khắc mà nói. Phú văn còn nói "Tài cư bát bại chi địa, quan tước hiết diệt", tác giả tự chú nói: "Tài cư bát bại là mệnh gặp nạp âm trường sinh, vị trí ngôi thứ 8 là tử bại, cho nên gọi là Bát Bại. Còn như người thủy thổ, trường sinh ở Thân, gặp Mão là vậy. Thủy thổ đều tử bại, chủ người cả đời đều có sự nghiệp trì trệ không thành... Tài cư Bát Bại cách, như năm Giáp Thân thủy, tháng Đinh Mão hỏa, ngày Ất Mão thủy, giờ Kỷ Mão thổ, Mậu Ngọ thai hỏa." Phương pháp chỗ nói là rất rõ, chính là lấy năm sinh làm đại biểu mệnh chủ, cùng lấy nạp âm ngũ hành luận vượng suy sinh khắc, thí dụ như người sinh Giáp Thân, thuộc thủy mệnh, thủy trường sinh ở Thân, tử ở Mão, nếu là sinh vào tháng Mão, tức là mệnh phạm Bát Bại, chủ người không có quan tước, sự nghiệp cả đời không thành.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #69
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Loại phương pháp đoán mệnh này là lấy năm làm chủ, lấy nạp âm ngũ hành luận sinh khắc, tỉ suất chuẩn xác như thế nào chứ? 《 Hàn Xương Lê văn tập 》 nói: "Trong cung điện là Ngự sử lý quân, gọi là Hư trung... đứng đầu ở sách ngũ hành, như lấy người sinh năm tháng ngày thủy chỗ gặp can nhật thần, cân nhắc tương sinh thắng suy tử vượng tướng, suy ra con người thọ yểu quý tiện, lợi hay bất lợi, trước tiên nhất định phải bắt đầu từ năm, giờ, trăm không mất 1, 2... Học giả được truyền phép này, đầu tiên nếu tiếp thu được, vội vàng thì mất". Một đời đại văn hào Hàn Dũ cho rằng, Lý Hư Trung đoán mệnh tỉ suất chuẩn xác "Trăm không mất 1,2", nhưng mà Lý Hư Trung chỗ truyền lại phương pháp, người mới học có thể nắm bắt được, nhưng sau khi học được thì thực hành không thành. Về phần tại sao gặp "Vội vàng thì mất", Hàn Dũ không nói rõ nguyên nhân, biết đâu ông ta không phải người trong nghể được căn bản là sẽ không có cách nào hiểu trong đó bị đưa cho chỗ thiếu sót.

        Mãi đến Từ Tử Bình tiên sinh tinh thông phương pháp Lý Hư Trung, cuối cùng mới phát hiện phương pháp của Lý Hư Trung còn rất nhiều thiếu sót. Ông ấy kiên quyết từ bỏ phép xưa của Lý Hư Trung, tránh đi đường mòn, sáng lập lấy Nhật can làm chủ, phương pháp lấy đúng một loại ngũ hành luận sinh khắc hoàn toàn mới để luận mệnh, lấy 《 Uyên Hải Tử Bình 》 làm đại biểu học thuật Tử Bình chính là bậc thầy mà chúng ta đã biết.

        《 Uyên Hải Tử Bình 》ở trong một đoạn văn "Tường giải định chân luận" phê bình phép xưa của Lý Hư Trung nói: "Thế gian nói về Tam Mệnh, đều là phép xưa. Khắp nơi đều lấy năm làm chủ, thì cũng biết là có vạn ức người phú quý sẽ giống nhau, dụng Thai Nguyên, Tiểu Vận nạp âm để luận, như nước tan vỡ ra khắp nơi mà không có nơi quay về, là sai lầm vậy", "Thế gian không hề có đường đều giống nhau, không gặp mệnh sư, nghe lời truyền miệng, làm rối loạn đạo lý truyền thống, làm mê hoặc người đời sau, làm sao có thể thành lý lẽ. Cho nên lấy Giáp Tý, Ất Sửu kim, ví von Tý Sửu gần đất ở Bắc Phương là Hải Trung Kim, Bính Dần, Đinh Mão hỏa ví von lấy Dần Mão gần phương Đông đất sinh hỏa nói là Lư Hỏa. Trước kia thời Hán có Lư Cảnh tiên sinh, cũng không nói là kim ở Hải Trung, hỏa ở Lư Trung. Bí quyết Tử bình, không sử dụng Thai Nguyên, Tiểu Vận, không sử dụng nạp âm, chuyên lấy thiên nguyên ngày sinh làm chủ, phối hợp can chi bát tự cùng trong có chỗ tàng chứa nhân nguyên, hoặc phát sinh là Tài là Quan, là họa là phúc, lần lượt xem xét kĩ càng nhân mệnh quý tiện được mất, vinh khô hay hiền ngu, có thể biết vậy".

        Ý là nói, thời trước Từ Tử Bình phương pháp đoán mệnh phần đa lấy năm sinh làm chủ, nhưng mà con người năm sinh ra là giống nhau rất nhiều, sẽ gặp vận mệnh giống nhau tới vạn ức người. Còn có phép lấy Thai Nguyên, Tiểu Vận, cùng lấy nạp âm ngũ hành luận sinh khắc, cũng đều không hợp lý, luận mệnh như thế này thì giống như là nước vỡ tràn lan mà không có nơi quay về, cũng không thể nhận được tỉ suất chính xác cao được, bởi vì cũng sẽ gặp sai lầm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #70
        Tham gia ngày
        May 2012
        Bài gửi
        744
        Cảm ơn
        16
        Được cảm ơn: 130 lần
        trong 105 bài viết

        Default

        Trên đời phát sinh sai lầm vô ích, bọn họ không gặp minh sư, lại nghe theo lời truyền tin vĩa hè gây ra mê hoặc sai lầm cho người đời sau, bởi vì Giáp Tý, Ất Sửu gần bên cạnh phương Bắc thủy thì ví von là Hải Trung Kim, Bính Dần, Đinh Mão hỏa gần phương Đông mộc địa thì ví von là Lư Trung Hỏa, dạng này làm ra là không có đạo lý, bởi vì trước kia ở triều đại nhà Hán có Lư Cảnh tiên sinh cũng không có nói cái gì là Hải Trung Kim, Lư Trung Hỏa cả. Cho nên, Tử Bình thay đổi lấy Nhật nguyên làm chủ, lấy đúng ngũ hành luận sinh khắc, không sử dụng Thai Nguyên, Tiểu Vận cùng nạp âm, chỉ lấy nguyệt lệnh làm dụng, phối hợp can chi bát tự để thành cách cục, lấy chỗ này mà nghiên cứu nhân mệnh con người là sang hay hèn, được hay mất, sang hay hèn, ngu hay giỏi, sẽ có thể suy đoán chuẩn xác. Lại nói, lấy Nhật can làm chủ, tổ hợp bát tự sẽ gặp có hơn 50 vạn loại, vì bát tự giống nhau sẽ không gặp rất nhiều, đoán mệnh mới có thể đoán được càng chính xác.

        《 Thần Phong thông khảo 》 ủng hộ phép nói 《 Uyên Hải tử bình 》, tác giả Trương Nam ở trong lời văn nói: "Đến thời Đường họ Viên bắt đầu lấy sáng tác 《 Ngũ Tinh Chỉ Nam 》... Vốn có pháp luật Datô giáo chỗ sách gỗ, Bùi Đại Du có sách 《 Cầm Đường hư thực 》, đều lấy chỗ năm sinh ngũ hành nạp âm thuộc cung độ Thân Mệnh làm chủ, sử dụng Thất Diệu Tứ Dư . Đến thời nhà Minh họ Từ đều lấy sách Tử Bình, chuyên lấy Nhật can làm chủ, nguyệt lệnh làm dụng thần, năm và giờ làm phụ tá. Ôi! làm Mệnh thư, đến chỗ này là hết vậy. Là sao vậy? Bởi vì thuyết Ngũ Tinh, chỉ là lấy năm sinh làm chủ, chỗ tháng và ngày giờ bỏ đi đâu; hoặc là lấy nạp âm làm chủ, can cùng chi bỏ đi đâu. Cái gì như lý lẽ Tử Bình, duy nhất được trong đó...". Ý tức là lấy trước khi đoán mệnh đều lấy năm sinh nạp âm ngũ hành cùng với cung độ thân mệnh làm chủ, nhưng nếu lấy năm sinh làm chủ, như vậy tin tức về tháng ngày và giờ sẽ bị bỏ quên hoặc là quên đi; nếu như lấy nạp âm ngũ hành làm chủ, như vậy tin tức về thiên can hoặc địa chi sẽ gặp bỏ đi hoặc quên đi, phương pháp Tử Bình chỉ có lấy Nhật làm chủ, trong đó duy nhất chỉ có lấy nguyệt lệnh làm dụng thần, lấy năm và giờ làm phụ tá, chỗ này là phương pháp hoàn thiện nhất.
        Cho nên mệnh học Tử Bình có thể thay thế được mệnh học Lý Hư Trung, trở thành danh từ thay thế mệnh học trong nước, ngàn năm thịnh hành mà không suy, nguyên nhân trong đó e rằng chính là ở chỗ này.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 7/9 đầuđầu ... 56789 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Trả lời: 7
        Bài mới: 17-05-13, 16:29
      2. Nhờ anh Nam Phong va hoai nam tư vấn giúp
        By vunguyengl in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 3
        Bài mới: 17-04-12, 20:03
      3. Mệnh nữ có đủ Dậu Hợi thì sao?
        By hoacucxanh in forum Nhờ xem Tử Bình
        Trả lời: 11
        Bài mới: 17-01-11, 14:59
      4. Mong cac cao nhan va anh Van Hoai chi giup.
        By kk321 in forum Tư vấn phong thủy
        Trả lời: 0
        Bài mới: 13-11-10, 19:25

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •