Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    kết quả từ 1 tới 10 trên 171

      Threaded View

      1. #10
        Tham gia ngày
        Jul 2015
        Bài gửi
        294
        Cảm ơn
        0
        Được cảm ơn: 294 lần
        trong 148 bài viết

        Default

        (Tiếp thaeo)
        Tài Quan chỉ luận Chủ mệnh, không luận sơn.
        Chúng ta xem lại bảng lục hợp

        1 Giáp Kỷ Thổ
        2 Ất Canh Kim
        3 Bính Tân Thủy
        4 Đinh Nhâm Mộc
        5 Mậu Quí Hỏa

        Người sinh năm Ất, dùng nhiều chữ Canh , Ất lấy Canh kim là Quan, tức là dùng hợp cách Quan vậy.
        Người sinh năm Canh, dùng nhiều chữ Ất, Canh lấy Ất làm Tài, tức là dùng hợp cách Tài vậy.
        Người sinh năm Bính, dùng nhiều chữ Tân, Tân lấy Bính là Tài, tức là dùng hợp cách Tài vậy.
        Người sinh năm Tân, dùng nhiều chữ Bính, Tân lấy Bính làm chính Quan, tức là dùng hợp cách Quan vậy
        Người sinh năm Đinh, dùng nhiều chữ Nhâm, Đinh lấy Nhâm làm Quan, tức là dùng hợp cách Quan vậy
        Người sinh năm Nhâm dùng nhiều chữ Đinh, Nhâm lấy Đinh làm Tài, tức là dùng hợp cách Tài vậy
        Người sinh năm Mậu dùng nhiều chữ Quí, Mậu lấy Quí làm Tài, tức là dùng hợp cách Tài vậy.
        Người sinh năm Quí dùng nhiều chữ Mậu, Quí lấy Mậu làm Quan, tức là dùng hợp cách Quan vậy.
        Trong tứ trụ, can ngày hết sức quan trọng. Cần được "Thời" của nguyệt lệnh mà vượng tướng, tránh hưu tù tử tuyệt dễ gặp hung. ( Nếu ai đã tinh thông Tứ trụ thì chon Tứ trụ có Dụng thần Tài Quan là tốt nhất để khởi công tu tạo)Tất nhiên nó không đơn thuần như thế, mà còn phải bổ được Long, hợp với Mệnh Chủ.
        Tuyệt đối không được khắc phá hình xung địa chi với nhau.nên mới nói rằng: "Được hợp sinh vượng, mừng gặp nhau, cần tránh khắc phá cùng hình xung"
        Như dùng cục Thìn Tuất, cục Sửu Mùi, để bổ loại thổ sơn. Sơn của Tứ mộ, không xung thì không khai mở vậy.( Nên nhớ Tứ trụ thuộc loại này Thổ phải là hỷ thần thì mới được) Nếu xung chủ mệnh tuyệt đối là không thể được, vì sẽ hung.
        Cách chế hóa phải lấy Nguyệt lệnh là tháng hưu tù của Thần hung, Thần chế ở tháng vượng tướng thì mới cát. Ví như lấy Nhất bach thủy để chế Đả đầu hỏa thì chắc chắn chỉ có thể lấy tháng Thân Tý Thìn thuộc thủy vượng, hỏa suy thì mới cát. Thế mới nói: " Cát tinh hữu khí, ác diệu hưu tù ".
        Sơn gia tạo mệnh kí hiệp cục
        Cánh hữu Kim Thủy lai tương trục
        Thái dương chiếu xứ tự quang huy
        Chu thiên độ số khán triền phục
        Lục cá Thái dương Tam cá khẩn
        Trung gian lịch số đệ nhất thân
        Tiền hậu chiếu lâm, phù sơn mạch
        Bất khả tọa hạ can chi khuyết
        Cách đắc Ngọc thỏ chiếu tọa xứ
        Năng sử sinhaan hoạt phúc trạch
        Ký giải thiên cơ tứ tự kim
        Tinh vi tuyển trách khả truy tầm
        Bất nhiên bối lý dung sỹ thuật
        Chấp trước phù vân uổng dụng tâm
        Tự tự như kim châm khả khảo
        Hội sứ thiên cơ cẩm thượng hoa
        Bất đắc chân long, đắc niên nguyệt
        Dã ứng phú quí, vượng nhân gia.
        ................................................
        Sơn gia tạo mệnh đã hợp cục
        Thêm có Kim Thủy đến theo nhau
        Thái dương chiếu, chốn đó tự quang huy
        Xem triển phục về độ số của vòng trời
        Sáu cái thái dương, 3 cái khẩn
        Ở giữa là đệ nhất thân thiết của độ số.
        Trước sau chiếu, lâm phù cho sơn mạch
        Không thể ngồi dưới can chi khuyết
        Thêm được ngọc thỏ chiếu chỗ ngồi
        Có thể khiến sinh người được sống phúc trạch
        Đã giải được thiên cơ, chữ chữ là vàng
        Tuyển chọn tinh vi có thể truy tìm được
        Chẳng phải bọn thuật sỹ tầm thường về đạo lý
        Chấp cứng vào cả văn phù phiếm, uổng cả công dụng tâm
        CChuwx chữ là vàng có thể khảo xét chân thực
        Hội với thiên cơ như hoa trên gấm
        Không được chân long, được năm tháng
        Đã đáng được phú quí, vượng nhân gia.
        Tóm lại, toàn bộ phép tạo mệnh đều lấy bổ Long làm chủ, căn cứ vào long thuộc ngũ hành gì để dùng Tứ trụ mà bổ vào, thời có thể đoạt thần công, cải Thiên mệnh. Khi tứ trụ tạo mệnh đã hợp cách cục tức là " Thể" của tạo mệnh. Sau đó mới nói đến "Dụng" như cần cát tinh chiếu đến sơn, đến hướng, như Hỏa tinh là hung, thì Thổ tinh là cái để yểm ánh sáng của Hỏa tinh. mà ánh sáng của Hỏa tinh là của Nhật, của Thái dương, cần cho sự sáng của sơn hướng, cho nên không thể dùng như thế. Riêng hai sao Kim thanh, Thủy tú cát tinh nên đến sơn cùng với nhật nguyệt, gọi là Kim Thủy phùng nhật nguyệt.
        Căn bản của việc phát phúc là ngồi dưới sơn mạch, sơn mạch có vượng tướng mới có lực phát phúc. Khi thiên can và Địa chi đều đủ cả và thuần, không khuyết là có thể phát phúc, còn nếu can chi khuyết, bổ mạch không khởi dậy, thì tuy chư cát có lâm cung cũng không thể phát phúc lớn được, mặc dù có Quí nhân phù trợ.
        Phương phương vị vị sát thần lâm
        Tị đắc sơn qua hướng hữu xâm
        Chỉ hữu sơn gia tự vượng xứ
        Thiên cơ diệu quyết hảo lưu tâm
        Chi như bất hợp, can trung thủ
        Nghênh phúc, tiêu hung vượng xứ tầm
        Nhậm thị, La hầu Âm Phủ sát
        Dã tu tàng phục cửu tuyền âm.
        ..................................................
        Phương phương vị vị sát lâm vào
        Tránh được sơn thì hướng bị xâm
        Chỉ có sơn gia, tự chỗ đó vượng
        Khéo lưu tâm đến thiên cơ diệu quyết
        Chi nếu không hợp chọn trúng can
        Chọn sứ vượng để đón phúc, tiêu hung
        Bất kỳ La hầu hay âm phủ sát
        Cũng cần tàng phục chốn cửu tuyền âm

        24 sơn vị thần sát chiếu rất nhiều, tránh được thần sát năm, lại có thần sát tháng. Tránh được tháng lại có ngày. Còn sơn lợi thì hướng lại không lợi và ngược lại, thật khó toàn !
        Chỉ chọn mạch lai của long từ chỗ vượng, được thời lệnh, hữu khí. Thêm can chi của Tứ trụ thừa được thời vượng tướng là tốt rồi.
        Như tọa sơn được Can, thì dùng Thiên can nhất khí, hoặc 2 lộc, 2 can.
        Như tọa sơn được Chi, thì dùng Địa chi nhất khí, hoặc năm tháng ngày giờ nhất khí, tức là cần có tài dùng Tứ trụ để điều hòa làm cho Long vượng càng thêm vượng, mà chỗ này vượng thì chỗ kia suy, có nghĩa là Cát thần mạnh thì Hung Sát thần Suy yếu, tự khuất phục. Đó chính là Thiên cơ diệu quyết.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "dauvanphung" về bài viết có ích này:

        BuiTrong.Lc (25-10-15)

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •