_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )
- Giáp Dần : Tự bịnh Thủy ; Ất Mão Tự tử Thủy : Tuy là tử bịnh Thủy nhưng Thổ không thể khắc được bởi vì can chi 2 Mộc có thể chế được Thổ , nếu gặp Nhâm dần Quý mão Kim thì rất tốt . Ngũ hành Yếu Luận nói : Giáp dần Nhâm tuất hai thủy này là phục nghịch , âm thắng dương chủ gian tà hai vật , chỉ nên dùng hỏa thổ tổn ích thì mới thành đại khí vậy .
- Bính thìn : tự khố thổ , vừa dày lại mạnh , thích Giáp thìn Hỏa mà ghét Mậu thìn mộc , Mộc này ở trên không tổn được vì bởi Bính là Hỏa , Thìn là Thiên khố hỏa , Thổ đã thành khí rồi , chỉ sợ Mậu tuất Kỷ hợi Tân mão Mậu thìn Mộc . Ngũ hành yếu luận nói : Bính thìn là chánh ấn thổ , có đức ngũ phước cát hội thì đều đại hưởng , không quý cũng phú , nếu phạm xung thì phần nhiều làm tăng sĩ .
- Đinh tỵ tự tuyệt Thổ mà lại không bị tuyệt bởi vì một Thổ mà ở với hai Hỏa , tức ở đất của cha mẹ nên không thể tuyệt , Mộc cũng không thể khắc , nhiều Hỏa thì càng tốt . Ngọc tiêu Bửu giám nói : Đinh tỵ là Đông Nam Hỏa đức vượng , đắc thì có nhiều phước thọ .
- Mậu ngọ là Tự vượng Hỏa ; Kỷ mùi là Thiên khô Hỏa , cư ở Ly thì sáng , là đất vượng tướng nên khí rất thịnh , các Thủy đều không hại được chỉ kỵ Bính ngọ Đinh mùi Thiên thượng Thủy . Diêm Đông nói : Mậu ngọ Tự vượng Hỏa có được khí viêm thượng ở Ly , tụ vật vô tình , động khắp các chúng , đắc ở Thu Đông , dùng Thủy Thổ vượng khí khoát đạt cao minh , phước lực mạnh mẽ , Xuân Hạ tốt theo , dùng Kim Mộc thì tuy phát nhanh mà mệnh chẳng thường lâu . Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mùi hỏa suy chứa được dư khí nên tháng Xuân Hạ thì vận được dấu kín nên minh mẫn tuấn đạt , phướng khánh đầy đủ , gặp Hạ thì chẳng hòa khí , gặp Thu thì trước tốt mà sau thì xấu .
- Canh thân , Tân dậu 2 Mộc này có Kim ở trên , do Kim mà thành vật nên kỵ tái gặp Kim sẽ hủy mất khí vật vậy , nếu gặp Giấp thân Ất dậu Thủy thì nhập cách . Ngọc tiêu bửu Giám nói : Canh thân tự tuyệt mộc là hồn du thần biến gặp được ngày mà sanh là loại phi phàm chủ tính cách xuất chúng , gia tộc không kềm chế được , nhập quý cách thì nhân kiệt anh tài . Tân dậu là Mộc thất vị , đối với Quý mão Kim thì cương nhu tương tề suy quần bạt tụy . Chúc thần Kinh nói : Hồn quý ở Thiên du , nên Canh thân mộc không sợ bị tử tuyệt mà quý ở thiên du . QUỷ cốc dị văn nói : Tân dậu kỳ sanh vượng . Chú rằng : Tân dậu mộc khí tuyệt , cần được sanh vượng thì mới vinh đạt .
- Nhâm tuất Thiên khố Thủy ; Quý Hợi Lâm quan Thủy đều gọi là Đại hải Thủy bởi can chi nạp âm đếu là thủy , kỵ gặp các thủy , tuy Nhâm thìn thủy khố cũng không thể gánh nổi , không bị các Thổ khắc , tử tuyệt thì tốt còn sanh vượng thì lại lan tràn không có chỗ quy vậy . Ngọc tiêu bửu giám nói : Hợi Tí là Thủy chánh vị , ở Nhâm tuất khí phục mà khôn thuận , chỉ dùng hỏa thổ để tổn ích thì thành đại khí ; QUý hợi đủ số thuần nhân , thể chất thiên từ thông minh , chí khí rộng lớn , phát triển công nghiệp , chọn nhựt thời tốt , đới sát thì vào loại hung giảo.
* Lại nói : Bính tuất thổ là phúc hậu , hỏa cũng tụ ở đây vậy , Kỷ mùi Canh thìn Mậu thìn Đinh sửu cũng đồng nghĩa nầy , Kỷ mùi hỏa , trong Mùi có mộc mộ , Canh thìn Kim vậy , trong kim có thổ mộ , Mậu thìn mộc trong thìn có thủy mộ , Đinh sửu thủy trong sửu có kim mộ , đều là khí phụ mẫu nên được dương , năm thứ này phước sâu dày nên dù có quỷ thương cũng không làm hại khí thành vậy .Lý hư Trung nói : Bính tuất rất lạ , lấy Tuất lại là bổn vị của thổ mà rất vượng thạnh .
* Ất tỵ , Mậu ngọ là hỏa nóng mạnh , Thu Đông có đức tốt , Xuân Hạ thì hình hung , nếu trọng Hạ thì phát nóng dữ , hết thảy khô táo , Ất tỵ Lâm quan hỏa có một mộc sanh nên khí thạnh , Mậu ngọ tự vượng hỏa nếu sanh Thu Đông thì khí ấm có đức nuôi vật , như sanh Xuân Hạ thì thì vượng hỏa trở về dương vị nên sanh hung , Hạ thì bạo lệ , thuộc loại hung yểu vậy .
* Ất mão Quý tỵ Đinh dậu Ất hợi thủy hỏa tuy tử tuyệt nhưng lại giai diệu , hỏa tử tuyệt mà trong sáng ngoài tối phản quang hồi chiếu , thủy tử tuyệt mà thanh trọng . Lý trung Hư nói : 4 vị này tuy tử tuyệt không thanh minh mà diệu giai , cứ xem Thiên ất quý nhân thì biết vậy .
* Nhâm dần kim , việc vua không thể nghịch ; Canh thân kim , làm tôi không chống ngũ hành thuộc ngũ âm , cung thổ là vua , thương quan là thần , giác thủy là dân , thương thái quá thì thần mạnh , giác thái quá thì vua yếu , nên trong ngũ hành thường dùng 4 thanh cung để sát thương giác
* CAnh thân là giác mộc tự tuyệt , Nhâm dần là thương kim tự tuyệt , đều khiến được cái đạo trung thuận , nên việc vua không nghịch , là thần không chống , cho nên từ tử vi loan đài phụng các trở lên rất kỵ kim mộc mệnh sanh vượng , như vậy không thể làm , làm thì chẳng được lâu , độc nhất thì có thể được , nếu kim mộc sanh vượng mà khắc phá thì chẳng thể .
Canh thân mộc , Ất tỵ hỏa , thổ kim sanh mà hoàn , không sanh Bính ngọ thủy Quý mão kim , mộc thủy tử mà lại không tử , thổ sanh thân mà lại không sanh nơi Canh thân , thủy sanh thân mà lại không sanh nơi Mậu thân , hỏa sanh dần mà lại không sanh nơi Giáp dần , kim sanh tỵ mà lại không sanh nơi Ất tỵ , mộc sanh hợi mà lại không sanh nơi Tân hợi , bởi nơi sanh mà trở lại phản chế vậy , đắc thì yểu thọ . Mộc tử mão mà lại không tử nơi Quý mão , thổ tử mão mà lại không tử nơi Đinh mão , mộc tử ngọ mà lại không tử nới Bính ngọ , kim tử tí mà lại không tử nơi Canh tí , hỏa tử dậu mà lại không tử nới Tân dậu , bởi nơi tử mà được sanh vậy , đắc thì trường thọ .
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số