Bởi vì chủ đề "Binh Pháp Tử Bình về luận Hành Vận" ở mục này bị trục chặc về kỹ thuật mà Admin HKLS không sửa được nên tôi đành phải đăng lại chủ đề này như cũ và định viết thêm nên tôi lấy tên chủ đề mới cho chính xác hơn.


Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG

Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận của VULONG


Binh Pháp này được phát biểu như sau:

(Chú ý: Theo đại sư Lưu Bá Ôn chỉ lấy hành của các Can đại vận là hỷ dụng thần thì các đại vận đó được gọi là các vận hỷ dụng thần, còn các Can là kỵ thần thì các đại vận đó được gọi là các vận kỵ thần (tức coi Can đại vận quan trọng hơn Chi).

Còn người bình là Nhâm Thiết Tiều ngược lại lấy Chi của các đại vận là hỷ hay kỵ thì gọi các đại vận đó là hỷ hay kỵ (tức là coi Chi đại vận quan trọng hơn Can).)

Phương pháp luận hành vận của VULONG là theo đại sư Lưu Bá Ôn, tức lấy Can đại vận làm trọng nhưng VULONG không bỏ qua Chi đại vận mà coi Chi đại vận đóng vai trò giống như chi tháng trong Tứ Trụ (được coi là Lệnh Tháng). Tức coi chi đại vận là Lệnh Đại Vận để xác định vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ và cả can chi của đại vận tại đại vận đó. Tất nhiên nếu chi đại vận hợp với chi trong Tứ Trụ hóa cục là hỷ dụng thần thì tốt còn hóa cục là kỵ thần thì xấu nhưng Lệnh Đại Vận vẫn không thay đổi.

Đây là Kim Chỉ Nam cho tất cả những ai muốn nghiên cứu Tử Bình.

Để kiểm tra Binh Pháp Tử Bình này đúng hay sai ta chỉ cần lấy các ví dụ thực tế mà ta đã biết rõ cuộc đười người đó tốt xấu ra sao sẽ biết ngay.

Ví dụ số 1: Là ví dụ số 1 (Vua Càn Long) trong cuốn Trích Thiên Tủy

VD 1- Càn tạo mệnh:

Tân Mão - Đinh Dậu - Canh Ngọ - Bính Tý

Đại vận: bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn/ tân mão/ canh dần / kỷ sửu/ mậu tý

Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng (sai - VULONG). rất cần tý ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy (Thanh cao tông-Càn Long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ“).


Ta thấy cả cuộc đời của vua Càn Long đều thành công huy hoàng, rực rỡ…hết cỡ, điều này phải ứng với tất cả các đại vận phải có các Can đều là hỷ dụng thần.

Ta thấy 5 đại vận đầu có các can là Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính là Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát phải là các hỷ dụng thần nên Tứ Trụ này phải có Thân vượng.

2 vận tiếp là Tân Mão và Canh Dần, mặc dù là vận kỵ thần (vì Canh và Tân là kỵ thần) nhưng bị Bính trụ giờ vượng ở đại vận Dần, Mão hợp khắc làm Tân và Canh bị thương tổn nặng thêm Canh và Tân đều tử tuyệt ở vận Dần và Mão nên 2 vận này từ vận kỵ thần chuyển thành vận hỷ thần (tức tốt nhiều hơn xấu).

Kết luận: Cả 7 vận đầu tiên đều là các vận hỷ dụng thần nên hoàn toàn phù hợp với cuộc đời của vua Càn Long.

Từ đây kết luận Tứ Trụ của vua Càn Long phải có Thân vượng.


Ví dụ số 2: Là ví dụ số 50 trong cuốn Trích Thiên Tủy
“50 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - Canh Ngọ - Canh Thìn

Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý

Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc“.

Ta thấy Tứ Trụ này có 1 thông tin đẹp là “Thực thần (Nhâm) chế Sát (Bính) là anh hùng áp đảo vạn người“.[/I]

Và thực tế cho biết người này có “quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc“, tức là người làm cỡ Tướng Soái thống lĩnh vạn quân (hay áp đảo vạn người), điều này quá đúng theo câu phú Từ Bình này.

Ta thấy các vận trung niên là Mâu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất có can chi đều là Thổ và Kim mà Thổ và Kim là hành Kiêu Ấn và Thân (Kim) nên muốn phù hợp với thực tế đẹp như vậy thì 2 vận này phải là hỷ dụng thần.

Từ đây kết luận ví dụ 50 phải có Thân nhược.
(Còn tiếp)