Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
    kết quả từ 11 tới 20 trên 30
      1. #11
        Tham gia ngày
        Feb 2011
        Bài gửi
        37
        Cảm ơn
        101
        Được cảm ơn: 19 lần
        trong 14 bài viết

        Default

        Phương pháp định cách cục - dụng thần trong sách tử bình cổ và phương pháp dụng thần thủ pháp trong các sách hiện đại đưa ra kết quả khá giống nhau trong nhiều trường hợp.
        Xin lấy ví dụ trên:
        1 - Như mệnh Lưu Trừng Như:
        Quan….. thực….. nhận…...tấn

        Nhâm…… kỷ…… đinh…….giáp

        Tuất………dậu…….Sửu…….thìn
        --
        Đinh sinh tháng Dậu, t.tài nắm lệnh, khí thuần nhất (dậu chỉ tàng Tân) lệnh tháng lại không hội hợp thay đổi hành (dậu sửu bán hợp kim không hóa, dẫu hóa vẫn là hành kim) do vậy cách cục - dụng thần sẽ xoay quanh tài cách. đó là
        1. Tài vượng sinh Quan cách. Cách cục thành nếu Quan tinh thấu lộ và không có thực thương mạnh.
        2. Tài gặp Thực sinh cách. Rất cần Tỷ Kiếp nhiều để Thực hóa Kiếp Tỷ sinh Tài.
        3. Tài cách phối Ấn. Cần Ấn thụ thông căn và Tài Ấn không ngăn trở nhau (dựa vào vị trí của các trụ để xét xem tài ấn có ngăn trở nhau hay không)
        Ta thấy tứ trụ trên:
        - Lộ ra Nhâm quan tinh sẽ là Tài vượng sinh quan cách. Nhưng lại lộ ra Kỷ thực thần nên cách cục bị phá hoàn toàn.
        - Bây giờ xét 2 cách cục Tài gặp Thực sinh hoặc Tài cách phối Ấn thì đều chưa hoàn mỹ bởi Tài gặp Thực sinh mà Tỷ Kiếp không nhiều, Tài cách phối Ấn mà Ấn thụ vô căn. do vậy chờ đến vận cách cục - dụng thần sẽ thay đổi mà trở nên thành cách.
        vận Giáp Dần, Ất Mão chính là Tài cách phối Ấn thành công nhờ đó mà phát phú.
        --
        Theo phương pháp dụng thần thủ pháp thì Mộc là DT cũng sẽ cho kết quả như trên.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. #12
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi G-R-E-E-N Xem bài gởi
        Phương pháp định cách cục - dụng thần trong sách tử bình cổ và phương pháp dụng thần thủ pháp trong các sách hiện đại đưa ra kết quả khá giống nhau trong nhiều trường hợp.
        Xin lấy ví dụ trên:
        1 - Như mệnh Lưu Trừng Như:
        Quan….. thực….. nhận…...tấn

        Nhâm…… kỷ…… đinh…….giáp

        Tuất………dậu…….Sửu…….thìn
        --
        Đinh sinh tháng Dậu, t.tài nắm lệnh, khí thuần nhất (dậu chỉ tàng Tân) lệnh tháng lại không hội hợp thay đổi hành (dậu sửu bán hợp kim không hóa, dẫu hóa vẫn là hành kim) do vậy cách cục - dụng thần sẽ xoay quanh tài cách. đó là
        1. Tài vượng sinh Quan cách. Cách cục thành nếu Quan tinh thấu lộ và không có thực thương mạnh.
        2. Tài gặp Thực sinh cách. Rất cần Tỷ Kiếp nhiều để Thực hóa Kiếp Tỷ sinh Tài.
        3. Tài cách phối Ấn. Cần Ấn thụ thông căn và Tài Ấn không ngăn trở nhau (dựa vào vị trí của các trụ để xét xem tài ấn có ngăn trở nhau hay không)
        Ta thấy tứ trụ trên:
        - Lộ ra Nhâm quan tinh sẽ là Tài vượng sinh quan cách. Nhưng lại lộ ra Kỷ thực thần nên cách cục bị phá hoàn toàn.
        - Bây giờ xét 2 cách cục Tài gặp Thực sinh hoặc Tài cách phối Ấn thì đều chưa hoàn mỹ bởi Tài gặp Thực sinh mà Tỷ Kiếp không nhiều, Tài cách phối Ấn mà Ấn thụ vô căn. do vậy chờ đến vận cách cục - dụng thần sẽ thay đổi mà trở nên thành cách.
        vận Giáp Dần, Ất Mão chính là Tài cách phối Ấn thành công nhờ đó mà phát phú.
        --
        Theo phương pháp dụng thần thủ pháp thì Mộc là DT cũng sẽ cho kết quả như trên.
        G-R-E-E-N nhầm rồi. Hãy đọc lại đoạn ông ta luận:
        Niên can thấu quan, nguyệt can thấu thực, quan tinh chịu khắc mà phá quan cách. Nhưng còn có thể khí quan tựu thực, nói cách khác quan cách không thành, có sao đâu trở lại lấy tài cách. Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập. Cho nên mệnh chủ sĩ lộ không thông tài lộ thông, kinh doanh tơ lụa có phương pháp, trung niên thành nhà giàu nhất Chiết Giang.

        Rõ ràng ông ta viết "Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập." có nghĩa ông ta đã khẳng định Tứ Trụ này thuộc Cách Chính Tài vì có Thực và Ấn chứ không phải ông ta khẳng định Ấn ở đây là dụng thần. Nếu suy luận như bạn thì ở đây Tài, Thực và Ấn đều có thể là dụng thần cả hay sao, đó là một điều hoàn toàn vô lý.

        Bằng chứng để chứng minh qua 2 ví dụ sau:

        15 - Ví dụ như nam mệnh:

        Kiếp tài nhật sát

        Kỷ quý mậu giáp

        Dậu dậu tử dần

        Dậu kim thương quan là dụng thần, có quý thủy tài tinh tiết thương quan, vốn có thể cấu thành thương quan sinh tài cách. Ai dè thời trụ thất sát tiết tài, đã không có chữ chế, lại không có chữ hợp, thất sát nằm ở trạng thái không có chế, lúc này liền phá thương quan sinh tài cách. Sát trọng không có chế, trọn đời mệnh có tổn hại. Mệnh chủ trời sinh hai chân tàn phế, không thể đứng thẳng, gia cảnh kém cỏi, cảnh ngộ có thể nghĩ mà biết.


        17 - Chúng ta lại nhìn mệnh Biện soái Trương Huân:

        Tài sát nhật kiếp

        Giáp bính canh tân

        Dần tý thân tị

        Tý thủy thương quan là dụng, sinh giáp mộc tài tinh, nhưng là giáp mộc thêm sinh bính hỏa thất sát, phá thương quan sinh tài cách. Cũng may thất sát có tân kim hợp trụ, có thể cấu thành lấy kiếp hợp sát cách, mệnh võ quý. Mệnh chủ ở trong vận nam phương nhậm chức Giang Nam đề đốc, sau nhậm chức Giang Tô Tuần phủ kiêm lưỡng giang Tổng đốc, một thời cực thịnh. Và từng ở năm đinh tị mang ba nghìn quân tóc bím ủng hộ lập phế đế khôi phục ngai vàng, lãnh đạo tấn tuồng khôi hài phục hồi ngai vàng một hồi mười hai chương.

        Rõ ràng ở đây đầu tiên ông ta đã xác định chính xác dụng thần của Tứ Trụ là :

        1 - "Dậu kim thương quan là dụng thần" vì Dậu nắm lệnh nên đầu tiên ông ta khẳng định Tứ Trụ này thuộc cách cục Thương quan nên dụng thần là Thương quan (đoạn sau không cần xét đến).

        2 - "Tý thủy thương quan là dụng" cũng vậy ông ta khẳng định vì Tý nắm lệnh là Thương Quan nên cách cục là Thương quan, vì vậy dụng thần là Thương quan (đoạn sau không cần xét đến).

        Nói tóm lại cần phải hiểu rõ là ông ta muốn chứng minh trường phái của Trầm thị là lấy cách cục làm dụng thần không cần biết Thân vượng hay suy, nó ngược lại với mệnh học hiện đại là lấy hành tốt nhất để thăng bằng Tứ Trụ làm dụng thần.
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 26-07-11 lúc 14:16
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      3. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        TanLen73 (27-07-11)

      4. #13
        Tham gia ngày
        Feb 2011
        Bài gửi
        37
        Cảm ơn
        101
        Được cảm ơn: 19 lần
        trong 14 bài viết

        Default

        Thưa bác VuLong. 2 khái niệm "dụng thần - cách cục" trong cổ thư và "dụng thần thủ pháp" trong các sách hiện đại là hoàn toàn khác nhau.

        Phương pháp định cách cục đầu tiên là xét lệnh tháng và nhật nguyên, rồi nhìn tổng thể cả tứ trụ rồi mới đưa ra cách, rồi xem thành bại cứu ứng ra sao. Nếu đã thành tài cách thì đến vận tài đương nhiên là vận tốt, nhưng nếu tài cách bị phá thì phải chờ đến vận cứu ứng mới là vận tốt.

        Như trên đã phân tích, tài cách được chia làm 3 tiểu cách. Ở đây tác giả viết "Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập" chính là ám chỉ "Tài cách phối Ấn", cần phải có Tài Ấn thông căn và không hại nhau. Tứ trụ này Tài Ấn không hại nhau nhưng Ấn thì chưa thông căn, đến vận Ấn thông căn chính là thành cách nhờ vậy mà phát phú.

        Gọi tài tinh là dụng nhằm ám chỉ cách cục chỉ xoay quanh tài cách, chứ không phải là vận gặp tài thì tốt.
        thay đổi nội dung bởi: G-R-E-E-N, 27-07-11 lúc 21:38
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      5. #14
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi G-R-E-E-N Xem bài gởi
        Thưa bác VuLong. 2 khái niệm "dụng thần - cách cục" trong cổ thư và "dụng thần thủ pháp" trong các sách hiện đại là hoàn toàn khác nhau.

        Phương pháp định cách cục đầu tiên là xét lệnh tháng và nhật nguyên, rồi nhìn tổng thể cả tứ trụ rồi mới đưa ra cách, rồi xem thành bại cứu ứng ra sao. Nếu đã thành tài cách thì đến vận tài đương nhiên là vận tốt, nhưng nếu tài cách bị phá thì phải chờ đến vận cứu ứng mới là vận tốt.

        Như trên đã phân tích, tài cách được chia làm 3 tiểu cách. Ở đây tác giả viết "Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập" chính là ám chỉ "Tài cách phối Ấn", cần phải có Tài Ấn thông căn và không hại nhau. Tứ trụ này Tài Ấn không hại nhau nhưng Ấn thì chưa thông căn, đến vận Ấn thông căn chính là thành cách nhờ vậy mà phát phú.

        Gọi tài tinh là dụng nhằm ám chỉ cách cục chỉ xoay quanh tài cách, chứ không phải là vận gặp tài thì tốt.
        Vậy thì xin G-R-E-E-N cho tôi biết sách mệnh học đã định nghĩa chính xác từ "căn" như thế nào và cho biêt ở đây "căn" là cái gì ?
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #15
        Tham gia ngày
        Feb 2011
        Bài gửi
        37
        Cảm ơn
        101
        Được cảm ơn: 19 lần
        trong 14 bài viết

        Default

        Thông căn được hiểu là có gốc rễ trong các chi của tứ trụ, như Giáp thấy Hợi Mão Mùi Dần Thìn được hiểu là có gốc.
        Tài cách phối Ấn nên được hiểu là Tài Ấn đều mạnh và ko hại nhau. Có thể thấy rằng trong tứ trụ trên thì Ấn tinh trong trụ còn yếu so với Tài tinh (vì tài được thực sinh) cho nên chờ đến vận Ấn tinh mạnh thì thành công.

        Green đã bỏ sót mất Ất tàng trong Thìn nên viết Ấn thụ vô căn, đó là sai lầm lớn, bởi tứ trụ này đương nhiên đã thành cách nên tới vận Ấn mới thành phú ông, giả như ấn chưa thông căn thì đến vận ấn vẫn phát nhưng ko thể bằng số này.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. #16
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi G-R-E-E-N Xem bài gởi
        Thông căn được hiểu là có gốc rễ trong các chi của tứ trụ, như Giáp thấy Hợi Mão Mùi Dần Thìn được hiểu là có gốc.
        Tài cách phối Ấn nên được hiểu là Tài Ấn đều mạnh và ko hại nhau. Có thể thấy rằng trong tứ trụ trên thì Ấn tinh trong trụ còn yếu so với Tài tinh (vì tài được thực sinh) cho nên chờ đến vận Ấn tinh mạnh thì thành công.

        Green đã bỏ sót mất Ất tàng trong Thìn nên viết Ấn thụ vô căn, đó là sai lầm lớn, bởi tứ trụ này đương nhiên đã thành cách nên tới vận Ấn mới thành phú ông, giả như ấn chưa thông căn thì đến vận ấn vẫn phát nhưng ko thể bằng số này.
        Nếu đúng như bạn suy luận thì ông ta phải nói vì "Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập." nên tiền vận người này đã phát tài (vì chả nhẽ vận Thủy không sinh được cho Ấn hay sao? Hay nói chính xác thì các vận này cách cục có bị phá đâu), tới trung vận thì mới đại phát tài được bởi vì có thêm Ấn, Kiêu gì chứ, nhưng đằng này ông ta có đả động gì đến phát tài với chả Ấn Kiêu gì ở đây đâu.
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 28-07-11 lúc 00:30
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      8. #17
        Tham gia ngày
        Feb 2011
        Bài gửi
        37
        Cảm ơn
        101
        Được cảm ơn: 19 lần
        trong 14 bài viết

        Default

        Chào bác Vulong.

        Khi gặp các cách cục như Thực thần chế Sát, Thương quan đới Ấn, Tài cách phối Ấn, Sát cách gặp Nhận, Dương nhận Sát lộ... tựu chung là 2 thần đối nghịch với nhau thì cần thế lực 2 thần phải tương đương thì mới hoàn mỹ.

        Giả như Thực thần chế Sát, sát đang suy mà hành vận Tài trợ Sát, thử hỏi có còn là thực thần chế sát nữa hay ko? rõ ràng gặp tài là bại cách.

        Tài cách phối Ấn có thực thương thấu lộ cũng vậy, Ấn đang suy lại phùng vận quan sinh ấn cũng là bại cách, bởi lại trở thành tài sinh quan mà thương quan thấu lộ phá quan thì hỏng.

        Nhìn chung phương pháp định cách cục - dụng thần khá mạnh trong việc sự thành công và mức độ thành công của mỗi tứ trụ, mỗi một cách cục - dụng thần lại đưa ra thành bại cứu ứng, các khái niệm "tương thần" - hỗ trợ cho cách cục thành công và "kị thần" - phá hoại cách cục mới tương đương với các khái niệm "dụng thần, hỉ thần, kị thần" trong các sách hiện đại. tương đương chứ ko hẳn là đồng nhất vì cách cục biến hóa thì nhiều vô kể, đôi khi 2 kị thần phối với nhau lại thành tốt.
        thay đổi nội dung bởi: G-R-E-E-N, 28-07-11 lúc 01:26
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. #18
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi G-R-E-E-N Xem bài gởi
        Chào bác Vulong.

        Khi gặp các cách cục như Thực thần chế Sát, Thương quan đới Ấn, Tài cách phối Ấn, Sát cách gặp Nhận, Dương nhận Sát lộ... tựu chung là 2 thần đối nghịch với nhau thì cần thế lực 2 thần phải tương đương thì mới hoàn mỹ.

        Giả như Thực thần chế Sát, sát đang suy mà hành vận Tài trợ Sát, thử hỏi có còn là thực thần chế sát nữa hay ko? rõ ràng gặp tài là bại cách.

        Tài cách phối Ấn có thực thương thấu lộ cũng vậy, Ấn đang suy lại phùng vận quan sinh ấn cũng là bại cách, bởi lại trở thành tài sinh quan mà thương quan thấu lộ phá quan thì hỏng.

        Nhìn chung phương pháp định cách cục - dụng thần khá mạnh trong việc sự thành công và mức độ thành công của mỗi tứ trụ, mỗi một cách cục - dụng thần lại đưa ra thành bại cứu ứng, các khái niệm "tương thần" - hỗ trợ cho cách cục thành công và "kị thần" - phá hoại cách cục mới tương đương với các khái niệm "dụng thần, hỉ thần, kị thần" trong các sách hiện đại. tương đương chứ ko hẳn là đồng nhất vì cách cục biến hóa thì nhiều vô kể, đôi khi 2 kị thần phối với nhau lại thành tốt.
        Rõ ràng ngay từ đầu ông ta đã viết:

        Niên can thấu quan, nguyệt can thấu thực, quan tinh chịu khắc mà phá quan cách. Nhưng còn có thể khí quan tựu thực, nói cách khác quan cách không thành, có sao đâu trở lại lấy tài cách. Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập.“.

        Tức là Quan cách đã bị phá trở thành “Tài cách“ hay “Tài tinh phối Ấn“ như bạn nói.

        Còn khi có thêm Quan tinh ở tuế vận thì bạn nói:

        “Tài cách phối Ấn có thực thương thấu lộ cũng vậy, Ấn đang suy lại phùng vận quan sinh ấn cũng là bại cách, bởi lại trở thành tài sinh quan mà thương quan thấu lộ phá quan thì hỏng.“.

        (Bạn hãy đọc lại định nghĩa Tài sinh Quan: “a - Nguyệt lệnh tài vượng, không có thực thương tương sinh, dù không có quan tinh cũng quý (vì tài vượng tự nó có thể sinh quan). Nếu có tỉ kiếp khắc tài, gặp quan tinh chế kiếp hộ tài, đây đều là “tài vượng sinh quan cách“, vì vậy đây không phải là Tài sinh Quan như bạn nói.)

        Tức là khi có thêm Quan ở tuế vận thì bạn cho rằng nó thành “Tài sinh Quan cách“ nhưng cũng bị phá.

        Vậy thì chả nhẽ nó không thành “tài phùng thực sinh cách“ hay sao (vì Nhật can Ðinh có căn tàng trong Tuất trụ năm - mục đích cũng giống như “Tài tinh phối Ấn“ là khi Tài nắm lệnh thì Nhật can cần có căn hay Ấn để Thân vượng mới có thể thắng Tài Quan mà phát tài ấy mà - cái manh phái này làm sao thoát được Thân vượng hay nhược cơ chứ)?

        Có cái gì có thể phá được cánh này ? Vì ở đây như bạn nói: “Quan bị Thương quan thấu lộ phá Quan“ thì rõ ràng Quan đã bị tổn thương thì làm sao Quan có thể sinh được cho Ấn. Ấn đã suy và không được Quan sinh thì làm sao nó khắc được Thực để mà phá được cách “tài phùng thực sinh cách“ ?

        Mà rõ ràng ở đây ngay từ đầu Ấn không khắc được Thực nên Thực mới phá được Quan cách.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      10. #19
        Tham gia ngày
        Feb 2011
        Bài gửi
        37
        Cảm ơn
        101
        Được cảm ơn: 19 lần
        trong 14 bài viết

        Default

        Chào bác Vulong.

        Tài phùng thực sinh và Tài cách phối ấn là 2 cách gần giống nhau.

        Tài phùng thực sinh thì Lệnh tháng/hóa khí là Tài tinh, Thực thấu lộ và Tỷ Kiếp nhiều.
        Tài cách phối ấn thì Lệnh tháng/hóa khí là Tài tinh; Thực, Ấn thấu lộ và Tài Ấn không hại nhau.

        cả 2 cách trên đều không nên gặp Quan tinh vì Quan tinh xuất hiện sẽ bị Thực khắc chế, do vậy vận gặp Quan tinh không phải là vận tốt.

        Cách cục gọi là thành nếu như các thần tham gia vào cách cục đó phải phối hợp hữu tình phải có 1 sự thăng bằng nhất định, như tứ trụ trên thì Ấn yếu, Thương mạnh sinh Tài do vậy gặp vận Ấn mạnh sẽ là hỉ vận.

        * Tựu chung thì phương pháp định cách cục nói là bỏ qua vượng nhược của nhật nguyên nhưng hầu hết khi đã thành cách thì tứ trụ sẽ có một sự thăng bằng nhất định và thông thường là nhật nguyên được cân bằng, tối thiểu là trong một số tứ trụ mẫu mà cháu đọc được thì đều nhận thấy "tương thần" để cách cục thành công thường rất gần với "dụng thần" trong cách sách hiện đại.
        thay đổi nội dung bởi: G-R-E-E-N, 28-07-11 lúc 07:37
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      11. #20
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Trích Nguyên văn bởi G-R-E-E-N Xem bài gởi
        Chào bác Vulong.

        Tài phùng thực sinh và Tài cách phối ấn là 2 cách gần giống nhau.

        Tài phùng thực sinh thì Lệnh tháng/hóa khí là Tài tinh, Thực thấu lộ và Tỷ Kiếp nhiều.
        Tài cách phối ấn thì Lệnh tháng/hóa khí là Tài tinh; Thực, Ấn thấu lộ và Tài Ấn không hại nhau.

        cả 2 cách trên đều không nên gặp Quan tinh vì Quan tinh xuất hiện sẽ bị Thực khắc chế, do vậy vận gặp Quan tinh không phải là vận tốt.

        Cách cục gọi là thành nếu như các thần tham gia vào cách cục đó phải phối hợp hữu tình phải có 1 sự thăng bằng nhất định, như tứ trụ trên thì Ấn yếu, Thương mạnh sinh Tài do vậy gặp vận Ấn mạnh sẽ là hỉ vận.

        * Tựu chung thì phương pháp định cách cục nói là bỏ qua vượng nhược của nhật nguyên nhưng hầu hết khi đã thành cách thì tứ trụ sẽ có một sự thăng bằng nhất định và thông thường là nhật nguyên được cân bằng, tối thiểu là trong một số tứ trụ mẫu mà cháu đọc được thì đều nhận thấy "tương thần" để cách cục thành công thường rất gần với "dụng thần" trong cách sách hiện đại.
        Ðoạn trên G-R-E-E-N đã sử dụng lý thuyết của trường phái nào ?

        Ở đây là chúng ta đang tranh luận xem trường phái Dụng Thần là Cách cục của Trầm thị mà Hoàng Ðại Lục đang muốn chứng minh là đúng hay sai. Vì vậy tốt nhất chúng ta chỉ sử dụng chính lý thuyết của ông ta để chứng minh lý thuyết của ông ta là sai hay đúng mà thôi.

        Sau đây là một vài định nghĩa của ông ta (trích chủ đề "luận dụng thần thành bại ứng cứu" của toahuongquy bên tuvilyso.org):

        "1 - Chính quan cách. Cách này phải có tài tinh cùng ấn tinh tương hổ phối hợp, hơn nữa tài cùng ấn còn phải không ngăn trở lẫn nhau, quan tinh cũng không gặp hình xung phá hại.

        2 - Tài cách. Cách này chia làm ba tiểu cách:

        Một là tài vượng sinh quan cách; hai là tài phùng thực sinh cách; tam là tài cách phối ấn.

        a - Nguyệt lệnh tài vượng, không có thực thương tương sinh, dù không có quan tinh cũng quý (vì tài vượng tự nó có thể sinh quan). Nếu có tỉ kiếp khắc tài, gặp quan tinh chế kiếp hộ tài, đây đều là tài vượng sinh quan cách.".

        b - Nguyệt lệnh tài vượng, có thực thương tương sinh, thì hỉ nhật nguyên hữu căn hoặc mang tỉ, thì thành tài phùng thực sinh cách.

        c - Nguyệt lệnh tài vượng, có thực thương tương sinh, và có ấn tinh phù thân, hơn nữa tài ấn không ngăn trở lẫn nhau, thì thành tài cách phối ấn.".


        Câu a - Rõ ràng Tứ Trụ này không phải là "Tài vượng sinh Quan cách" vì có "Thực Thương tương sinh".

        Câu b - "Tài phùng Thực sinh cách" có thể thỏa mãn với Tứ Trụ này bởi vì có "Nhật nguyên hữu căn" tức Nhật nguyên Ðinh có căn là Ðinh tàng trong Tuất trụ năm, với điều kiện Ấn không chế được Thực. Thì rõ ràng Ấn không chế được Thực nên ông ta mới cho rằng có Thực chế Quan, vì vậy Quan cách bị phá ngay từ đầu rồi.

        Câu c - "Tài cách phối Ấn" là đúng nhất với Tứ Trụ này. Nhưng ở đây ông ta chỉ nói một điểm là "có Ấn phù Thân" chứ không hề nói tới nó cần phải vượng hay nhược gì cả.

        Tiếp:

        "5 - Thất sát cách. Trầm thị ở đây chi nói một câu : "Thân cường thất sát gặp chế, sát cách thành dã". Nhưng một chữ "chế" này lại bao hàm ba ý tứ. Một là sát gặp ấn hóa; hai là sát gặp thực chế; ba là sát gặp kiếp hợp.
        a - Thất sát đương lệnh, có ấn tinh hóa sát sinh thân, tức là sát gặp ấn hóa, cùng sát ấn tương sinh cách đồng luận.
        b - Thất sát đương lệnh, không có ấn mà có thực thương chế sát, tức là sát phùng thực chế, cách thành sát yêu thực chế.
        c - Thất sát đương lệnh, không có ấn hóa hoặc thực chế, chỉ có kiếp nhận hợp sát, cách thành sát phùng kiếp hợp, cũng gọi dương nhận hợp sát cách."

        Rõ ràng ở đây Trầm thị đã nói "Thân Cường" vậy mà ông ta khuyên mọi người:

        "Chú ý, nói cách cục chính là nói tổ hợp bát tự, nói kết cấu mệnh thức, chớ nên nhấn mạnh điều kiện thân cường thân nhược. Vì thân cường cũng tốt, thân nhược cũng tốt, chỉ cần bát tự tổ hợp tốt, cách chính cục thanh, như vậy mệnh chủ sẽ phát phúc. Trái lại, cho dù là thân cường tài quan vượng, chỉ cần tổ hợp bát tự khó coi, cách phá cục tổn, thường không có mệnh tốt."

        Vì không nhấn mạnh Thân cường Thân nhược nên ông ta mới không thể giải thích được tại sao vào vận Giáp Dần và Ất Mão người này lại đại phát tài còn các vận trước thì người này lại không phát tài trong khi cách cục không thay đổi.

        Cũng như ông ta không biết khả năng tranh đoạt tài của Tỷ Kiếp nên năm Giáp phát tài thì ông ta cho rằng có Tỷ Kiếp trợ Thân còn ngay năm sau là Ất phá tài thì ông ta cho rằng do Tỷ Kiếp tranh đoạt tài với Thân trong khi ông ta có dám nói là do cách cục thay đổi đâu. Rõ ràng ông ta đã sử dụng Tuyệt Chiêu "Gọt chân cho vừa giày " còn gì nữa. Ðiều này đủ để chứng minh cái lý thuyết Dụng thần là Cách cục của ông ta chả có giá trị gì cả.

        Cái mà chúng ta học được ở đây là cách xác định cách cục, còn sự Quý hay Tiện (tốt hay xấu) của nó có phát được nhiều hay ít thì phải dựa vào các vận hỷ dụng được xác định qua Thân vượng hay nhược. Mà cách xác định cách cục đã được cụ Thiệu Vĩ Hoa trình bầy trong sách của cụ còn chi tiết và dễ hiểu hơn nhiều so với trình bầy ở đây.
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 28-07-11 lúc 11:24
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •