-
02-10-09, 16:56 #11
_ Tổng luận nạp âm : (Tiếp theo)
Lại xét trong lục vi âm luận nói : Nạp âm tức là Tí Ngo đếm đến Canh , Sửu Mùi đếm đến Tân , Dần Thân đếm đến Mậu , Mảo Dậu đếm đến Kỷ , Thìn Tuất đếm đến Bính , Tỵ Hợi đếm đến Đinh ; 7 phần nầy tứ phương khí số nạp âm thuộc Kim vậy ; phương Nam thiên khí màu đỏ nên nạp âm thuộc hỏa vậy , được 9 tức phương Đông khí dương 9 nên nạp âm thuộc Mộc vậy , được 1 tức trung ương khí tỗn thống nên nạp âm thuộc Thổ vậy , được 5 tức Bắc phương khí huyền cực nên nạp âm thuộc thủy vậy .
Giả như Giáp Tí Giáp Ngọ từ Giáp đến Canh , Ất Sửu Ất Mùi từ Ất đến Tân thỉ số đều là 7 nên nạp âm thuộc Kim . Bính Dần Bính Thân theo Bính đến Mậu , Đinh Mảo Đinh Dậu từ Đinh đến Kỷ thì đều số 3 nên nạp âm thuộc Hỏa . Mậu Thìn Mậu Tuất từ Mậu đến Bính , Kỷ Tỵ Kỷ Hợi từ Kỷ đến Đinh thì đều số 9 nên nạp âm thuộc Mộc . Canh Tí Canh Ngọ , Tân Mùi Tân Sửu , đều là số 1 nên nạp âm thuộc Thổ . Bính Tí Bính Ngọ từ Bính dến Canh , Đinh Mùi Đinh Sửu từ Đinh dến Tân đều là số 5 nên nạp âm thuộc Thủy . Sở dĩ chỉ lấy Can số mà không lấy Chi số , như từ Bính đến Canh tức là Bính đinh mậu kỷ canh đó tức 5 số vậy . Lại như từ Giáp đến Canh tức Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh thì 7 số vậy . Đây là cái nghĩa của Lạc sứ .
• Lại trong Tục đường hà lục nói : Nạp âm lục thập Giáp tí tức là dùng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà làm rõ vậy . Nhứt lục là Thủy , nhị thất là Hỏa , tam bát là Mộc , tứ cửu là Kim , ngủ thập là Thổ . Nhưng ở trong ngũ hành chỉ có Kim và Mộc là có âm tự nhiên , còn Thủy Hỏa Thổ thì nương giả mà sau đó có âm vậy . Thủy giả Thổ , Hỏa giả Thủy , Thổ giả Hỏa nên Kim âm là 4 , 9 Mộc âm là 3, 8 . Nhứt lục là Thủy , ngũ thập là Thổ , nhị thất là Hỏa ; như Giáp Tí Ất Sửu có số là 34 thừa 4 là Kim âm vậy . Mậu Thìn Kỷ Tỵ có số 28 thừa 8 là Mộc âm vậy . Canh Ngọ Tân Mùi có số là 32 thừa 2 là Hỏa vậy . Thổ dùng Hỏa làm âm nên bèn là Thổ vậy . Giáp Thân Ất Dậu có số 30 là Thổ vậy . Mà Thủy dùng Thổ làm âm nên bèn là Thủy vậy .Mậu Tí Kỷ Sửu có số 31 thừa 1 là Thủy , Hỏa lấy Thủy làm âm nên bèn là Hỏa vậy .
Thường lục thập Giáp Tí đều gồm lưỡng Kim lưỡng Mộc tương kích tự nhiên mà thành âm và Thủy thì dùng Thổ kích , Hỏa thì dùng Thủy kích , tương thắng mà thành âm . Thổ nhờ Hỏa nung đúc mà thành khí vật sau đó mới có âm , đấy cũng là cái lý tự nhiên vậy .
Lại nói rằng Lục thập Giáp tí nạp âm đều do ngũ âm mà sanh , ngay thẳng thông suốt , bởi Giáp tí là đầu mà ngũ âm đầu tiên ở cung Thổ nhưng cung Thổ sanh kim nên Giáp Tí là Kim còn Ất Sửu là âm theo dương ; lấy Kim mà sanh Thủy nên Bính Tí là Thủy mà Đinh sửu tòng theo . Giác Mộc sanh Hỏa nên Mậu Tí là Hỏa , dùng hỏa sanh Thổ nên Canh Tí là Thổ . Vũ Thủy sanh Mộc nên Nhâm tí là Mộc mà Kỷ sửu Tân sửu Quý sửu tùng theo , đến nơi Giáp Dần thì nạp âm khởi ở Thương , Thương là Kim sanh Thủy cho nên Giáp Dần là Thủy ; giác Mộc sanh Hỏa nên Bính Dần là Hỏa , trưng Hỏa sanh Thổ nên Mậu Dần là Thổ . Vũ thủy sanh Mộc nên Canh Dần là Mộc , cung Thổ sanh Kim nên Nhâm Dần lá Kim , ngũ Mảo đều theo đó . Dến Giáp Thìn thì nạp âm khởi ở Giác , Giác Mộc sanh Hỏa nên Giáp Thìn là Hỏa , chủy tương Hỏa sanh Thổ nên Bính Thìn là Thổ , Vũ thủy sanh Mộc nên Mậu thìn là Mộc , cung Thổ sanh Kim nên Canh Thìn là Kim , Thương Kim sanh Thủy nên Nhâm Thìn là Thủy mà ngũ Tỵ đều tong theo . Cung Thương Giác đều vậy chỉ có Trùng Vũ thì không thể ở đầu , đó là Giáp Ngọ trở lại như Giáp Tí , Giáp Thân như Giáp Dần , Giáp Tuất như Giáp Thìn mà ngũ Mùi ngũ Hợi cũng tùng theo các loại.
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (12-10-09),htruongdinh (02-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (02-10-09),VP (24-08-13)
-
04-10-09, 12:27 #12
_ Tổng luận nạp âm : (Tiếp theo)
Lại một thuyết nói : số đại diễn ngũ thâp thì dùng 49 ,trước dùng 49 số mà bố , không dùng số thái huyền : Giáp Kỷ tí Ngọ 9 , Ất Canh Sửu Mùi 8 ,Bính Tân Thân Dần 7 , Đinh Nhâm Mảo Dậu 6 Mậu Quý Thìn Tuất 5 , Tỵ Hợi đơn danh 4 . Lấy số 5 mà trừ , không đủ 5 thì lấy nạp âm mà thuộc , Thủy 1 Hỏa 2 Mộc 3 Kim 4 Thổ 5 hể tương sanh thì tiện dùng vậy ; như dư 1 thủy thì sanh Mộc , dư 2 Hỏa thì sanh Thổ , dư 3 Mộc thì sanh Hỏa , dư 4 Kim thì sanh Thủy , dư 5 Thổ thì sanh Kim . Giã sử Giáp Tí Ất Sửu 4 vị Can Chi cọng được số 34 , lấy 49 trừ đi ta có số 15, lấy 15 trừ 10 còn dư 5 thuộc Thổ , Thổ năng sanh Kim nên Giáp Tí Ất sửu là Kim ; Bính Dần Đinh Mão 4 vị can chi cộng số được số 26 , lấy 49 trừ đi ta có số 23 , lấy 23 trừ 20 còn lạ 3 thuộc Mộc , Mộc năng sinh Hỏa nên Bính Dần Đinh Mão thuộc Hỏa ; Các vị khác cứ theo đó mà tính vậy . Đại để Lục thập Giáp tí như vậy , luật nạp âm vậy , cái khác của can chi nạp âm vậy , đây là cái số tự nhiên của trời đất , Hà Đồ sanh số thì tả toàn nên dùng trung ương là Thổ mà sanh Tây phương Kim , Tây phương Kim mà sanh Bắc phương Thủy , Bắc phương Thủy mà sanh Đông phương Mộc , Đông phương Mộc mà sanh Nam phương Hỏa , Nam phương Hỏa mà trở lại sanh trung ương Thổ . Lạc Thư khác số thì Hữu chuyển nên lấy trung ương Thổ mà khắc Bắc và Tây Bắc Thủy , Bắc và Tây Bắc Thủy mà khắc Tây và Tây Nam Hỏa , Tây và Tây Nam Hỏa mà khắc Nam và Đông Nam Kim , Nam và Đông Nam Kim mà khắc Đông và Đông Bắc Mộc , Đông và đông bắc Mộc mà trở lại khắc trung ương Thổ . Thật là thông suốt cho nên Nạp âm đúng là vi diệu vậy , từng đoạn đều xuất từ Hoàng đế không nghi vậy .
Trở lại xét số Thái huyền thì vì sao lấy Giáp Kỷ Tí Ngọ là số 9 , bởi lẻ nguồn gốc của vạn vật thì từ Thiên Địa mà Vận thì lại ở Tứ Thời , Xuân vạn vật tươi tốt nơi Cấn , Thu vạn vật điêu linh ở Khôn , Sanh thì phát , Quy thì chứa mà chẳng rời nơi Thổ , Thổ tức là Khôn Cấn vậy . Dịch nói : Cấn trước sanh ra vật mà Khôn thì vật trưởng thành , Giáp thì đầu thiên can còn Tí thì đầu địa chi , hai nghĩa tuần hoàn mà 1 dương trở lại nên Giáp Tí khởi số ở nơi thiên địa l2 vậy .
Tí 1 dương thuộc Càn tức là đạo cha vậy , Giáp phối với Nhâm theo Tí đếm đến Thân thì gặp Nhâm được 9 số cho nên Nhâm lấy số 9 vậy . Phu phụ phối hợp nên hai can Giáp Kỷ đều mang số 9 vậy . Sửu trước có Ất đến thân được số 8 nên Ất Canh đều mang số 8 vậy . Dần trước có Bính đến Thân được số 7 nên hai can Bính Tân đếu mang số 7 . Mảo trước có Đinh đếm đến Thân được số 6 nên hai can Đinh Nhâm đều mang số 6 . Thìn trước có mậu đến Thân được 5 nên hai can Mậu Quý đều mang số 5 . Đây là thiên can khởi ở Càn vậy .
Ngọ là nhứt âm thuộc Khôn là cái đạo làm thần ( tôi ) vậy . Ất phối với Quý , từ Ngọ gia ất đếm đến Dấn gặp Quý được 9 số , Tí là nhứt dương , Ngọ là nhứt âm phụ phụ tương phối nên hai chi Tí Ngọ đếu mang số 9 . Sửu gia Dần đếm đến Mùi được 8 nên 2 chi Sửu Mùi đều mang số 8 ,lấy Dần gia Thân đếm đến Dần được 7 nên hai chi Dần Thân đều mang số 7 . Lấy Mảo gia Dậu đếm đến Dần được 6 nên hai chi Mảo Dậu đều mang số 6 . Lấy Thìn gia Tuất đếm đến Dần được 5 nên hai chi Thìn Tuất đều mang số 5 . Lấy Tỵ gia Hợi đếm đến Dần được 4 nên hai chi Tỵ Hợi đều mang số 4 . Số chỉ dừng nơi 9 mà không phải là 10 bởi nếu 10 thì lại khởi 1 , cho nên thường số 10 thì viết nhứt thập . Số Lạc Thư bắt đầu ở 1 mà hết ở 9 , cái số sanh hắc tự nhiên của Thái Ất đồ thư vậy . ( Bởi vạn vật có nguồn gốc là Thiên địa mà vận thì ở tứ thời . ) . Thái Huyền chỉ tùng theo 4 mà khởi số chứ không nói 1 , 2, 3 bởi vì 1 sanh 2 , 2 sanh 3 , 3 sanh vạn vật , 1 là Thiên , 2 là Địa , 3 là Nhân , có thiên địa mà sau mới có vạn vật cho nên nói rằng Tam nguyên ; còn thiên can 10 , địa chi 12 thì khởi ở 9 mà hết ở 4 , thiên can địa chi đã tận tự không có 1 ,2 , 3. Số Thái Huyền khởi đều do cái lý tự nhiên như vậy , không thể không biết vậy.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (12-10-09),htruongdinh (04-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (05-10-09),Kloan (10-10-09),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)
-
07-10-09, 13:43 #13
_ Luận nạp âm thủ tượng :
• Âm tức Hoàng đế tương nơi Giáp Tí phân khinh trọng mà phối thành 60 , có tên Hoa Giáp tí , chữ Hoa thật rất ảo diệu . Thánh nhân mượn ý mà dụ vậy , không nên chấp nê cái ý nầy . Từ Tí đến Hợi trong 12 cung rải đều Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ , ban đầu khởi ở Tí là nhứt dương và cuối cùng ở Hợi là lục âm , ngũ hành sở thuộc Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tại Thiên là ngũ hoàng , tại địa là ngũ nhạc , ở đức là ngũ thường , ở nhân là ngũ tạng , đó là mạng vậy , nên Giáp tí sở thuộc ứng mạng , mạng tức là việc cả một đời . Cho nên các tượng Giáp tí nạp âm là thánh nhân dụ vậy , cũng như các việc của đời người vậy . Vì sao gọi Tí Sửu là âm dương thai nghén, nhân tại bào thai mà vật tạng ở căn rễ chưa có hình thành , đến Dần Mảo thì âm dương bắt đầu mở dần , nhân cũng lần sanh trưởng , sự tinh hoa của vật cũng dần tạo ra như người bắt đầu lập thân vậy , qua Thìn Tỵ thì khí âm dương đã thành vật cho trái đẹp như người đến tuổi 30, 40 , dến Ngọ Mùi thì khí âm dương sáng rõ mà vật đã tề chỉnh và người thì đến 50 , 60 ; việc bần tiện phú quý đã định rõ , sự hung suy cũng biết rành , khi qua Thân Dậu thì âm dương tiêu sát vạt thì thâu thành người thì quy súc , mỗi đều tinh cả , đến Tuất Hợi thì âm dương bế tắc , khí vật trở về gốc , người cũng ngưng nghĩ , tất cả đều quy vậy . Nói qua về 12 vị ấy cứ lần lượt trước sau mà hiểu luc thập Giáp tí vậy .
• Sao mà tương cho Giáp Tí , Ất Sửu là Hải trung Kim , bởi khí ở bao tạng có tên mà không có hình , do người ở trong bụng mẹ vậy
Nhâm Dần , Quý Mão tuyệt địa , Kim khí thô sơ bạc nhược nên gọi là Kim bạc Kim .
Canh Thìn , Tân Tỵ là Kim ở đất Thổ Hỏa , khí đã phát sanh , Kim còn tại mỏ , nơi gởi hình để sanh dưỡng lại nhận chánh sắc ở phương Tây nên gọi là Bạch lạp Kim
Giáp Ngọ , Ất Mùi tức khí đã thành , vật chất đã tự chắc thật , cuộn nơi cát mà cũng biệt nơi cát , ở nơi Hỏa mà luyện cũng nơi Hỏa nên gọi là Sa trung Kim .
Nhâm Thân , Quý Dậu khí vật cực thạnh , đang lúc thâu liễm , thoát làm mủi nhọn như dao , do chánh vị là Thân Dậu lại đặt vào can Nhâm Quý tức Kim Thủy phối luyện để thành công dụng của Kim vậy , đến Tuất Hợi thì khí Kim tạng phục hình thể đã tàn , nung đúc trang điểm đã thành hình trạng , cát chứa trong lầu các không làm gì nữa nên công dụng của Kim đã hết do đó gọi Canh Tuất , Tân Hợi là Xoa xuyến Kim .
Sao Nhâm Tí , Quý Sửu lại dùng cái tượng như cây dâu ,bởi khí ở nơi quanh co hình trạng chưa thẳng và lại cư nơi đất Thủy , nhận khí dâu tàm theo thời mà sanh vậy .
Canh Dần , Tân Mão thì khí đã qua dương , được tài bồi cái thế lực mà tráng kiện chỉ nại ở dưới Kim , nhưng thường Kim có chất sương thì trở thành chắc chắn , Mộc cư ở đó thì thành vượng nên tánh cũng được kiên cố do đó gọi là Tùng bá Mộc .
Mậu Thìn , Kỷ Tỵ thì khí không thành lượng , vật đã đúng thời , cành lá tốt thịnh sầm uất mà thành rừng , lại lúc Mộc rất thạnh nên gọi là Đại lâm Mộc .
Nhâm Ngọ , Quý Mùi Mộc mà đến Ngọ thì tử , đến Mùi thì mộ cho nên dương liễu thanh mùa Hạ lá tàn , cây nhành có phần nhược nên tánh chất là nhu mềm bèn gọi là Dương liễu Mộc .
Canh Thân , Tân Dậu thuộc Kim ngũ hành mà nạp âm thuộc Mộc , lấy tương khắc mà dùng , bởi tánh mộc cay chỉ có nơi Thạch lựu , khí đến Thân Dậu thì tịnh túc , vật dần thành thực , do Mộc ở đất Kim có vị cay nên gọi là Thạch lựu Mộc vậy , xét thấy các Mộc khác đến Ngọ thì tử nhưng chỉ riêng Mộc này đến Ngọ lại vượng đó cũng do tánh mà khác vậy .
Mậu Tuất , Kỷ Hợi thì khí quy về tàng phục âm dương bế mộ ,khí mộc về gốc , nấp ở nơi Thổ cho nên gọi là Bình địa Mộc vậy .
Bính Tí , Đinh Sửu vì sao mà dùng tuong nhuận thủy , bởi khí chưa thông tế , chẳng phải nơi thủy lưu , có được nơi thấp thì thủy tụ cũng tùy theo đất mà thôi nên gọi là Nhuận hạ Thủy .
Giáp Dần , Ất Mảo khí dương xuất rõ , thế thủy nương ở gốc , lưu hành cuồn cuộn ở phương Đông cái thế rất mạnh nên gọi là Đại khê Thủy .
Nhâm Thìn , Quý tỵ thế mạnh ở Đông Nam tàng khí Ly cung , Hỏa thế sáng mạnh , Thủy được quy khố , vừa nhiều vừa lưu nên gọi là Trường lưu Thủy .thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 07-10-09 lúc 23:01
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (12-10-09),htruongdinh (07-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (07-10-09),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)
-
09-10-09, 11:58 #14
_ Luận nạp âm thủ tượng : ( Tiếp theo )
Bính Ngọ , Đinh Mùi khí đang lên xuống , ở cao thì hỏa sáng có thủy chảy do mưa , trong thủy có hỏa thì chỉ ở trên trời mới có nên gọi là Thiên hà Thủy .
Giáp Thân , Ất Dậu khí an tịnh dừng nghĩ , mẫu tử đồng vị , xuất mà không cùng , múc mà không kiệt nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy .
Nhâm Tuất , Quý Hợi là đất thiên môn , khí quy về bế tắc thủy trãi khắp mà không xa , thế quy mà yên lặng , đến mà không cùng , nạp vào mà không đầy tràn nên gọi là Đại hải Thủy vậy .
Mậu Tí , Kỷ Sửu sao lại lấy tượng Tích lịch Hỏa , bởi khí tại nhứt dương mà hình thì ở thủy vị , thủy ở trong hỏa khí là hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa .
Bính Dần , Đinh Mảo khí dần phát huy , do nơi cây cỏ mà hiển ra , âm dương thì lửa thiên địa thì lò nên gọi là Lư trung Hỏa .
Giáp Thìn , Ất Tỵ là nơi hình khí thạnh , thế ở chỗ cao chiếu sáng tới chỗ tối tăm nên gọi là Phúc đăng Hỏa .
Mậu Ngọ , Kỷ Mùi khí quá dương cung , trùng ly tương hội , chớp sáng giao nhau phát nóng lên trên nên gọi là Thiên thượng Hỏa vậy .
Bính Thân , Đinh Dậu thì khí dừng mà hình núp , cái thể hỏa quang đã cát giấu mà quy về Đoài vị nên sức nhỏ thế yếu nhìn chẳng rõ xa nên gọi là Sơn hạ Hỏa vậy .
Giáp Tuất , Ất Hợi gọi là Sơn đầu Hỏa bởi sơn tạng hình mà đầu thì đơn quang , trong sáng ngoài tối , ẩn dấu không lộ , đem ánh quang đến hết quy về dừng nghĩ ở trong nên gọi là Sơn đầu Hỏa vậy .
Canh Tí , Tân Sửu sao dùng tượng Bích thượng Thổ , bởi khí ở nơi bế tắc , vật chuộng được bao nấp , che hình chận thể , trong ngoài không giao nhau nên gọi là Bích thượng Thổ vậy .
Mậu Dần , Kỷ Mảo khí đã thành vật , có công nuôi vật , phát ở nơi rễ mà trưởng thành ở nhụy đài nên gọi là Thành đầu Thổ vậy .
Bính Thìn , Đinh Tỵ khí đã thành dương , phát sinh đã quá , thành mà chưa đến nên gọi là Sa trung Thổ vậy .
Canh Ngọ , Tân Mùi thì khí đang thành mà hình vật đã lộ hình , có hình tức đã có chất tức vật đã rõ ràng nên gọi là Lộ bàng Thổ .
Mậu Thân , Kỷ Dậu khí đã dừng nghĩ , vật đã thâu liễm quy về , đẹp mà vô sự nên gọi là Đại trạch Thổ .
Bính Tuất , Đinh Hợi khí đã thành mỹ mãn , âm dương trãi khắp , thế đã nhàn hạ nên gọi là Ốc thượng Thổ vậy .
Ta thấy Lộ bàng Thổ sanh ra năm thứ cốc mễ nơi Ngọ Mùi cũng là thời hưng thạnh trưởng dưỡng . Đại trạch Thổ thông đạt 4 phương nơi Thân Dậu cũng đạt được lý hanh thông ; Thành đầu Thổ dùng để phòng sự công kích , Vương hầu nhờ nó để lập nước giữ dân vậy . Bích thượng Thổ là phấn để trang sức , thần dân đều cho dùng vậy . Sa trung Thổ là đất rất nhuận , Thổ mà nhuận thì sanh nên chưa tới mà hữu dụng vậy . Ốc thượng Thổ chỉ cho sự thành công , đã thành công thì dừng mà nhất định không đổi , bởi trong ngũ hành sự che chở dưỡng dục , tam tài ngũ hành đều không thể mất nơi cao thấp, mà đắc vị ở tứ quý mà có công , Kim thì được sắc nhọn cứng cáp , Hỏa thì được quang minh chiếu diệu , Mộc thì được tươi tốt xum xuê , Thủy thì được sung mãn không phiếm , Thổ thì được cấy gặt dồi dào , tụ mà không tán tức phải là sơn , sơn thì cao ; tán mà không tụ tức đúng căn nguyên , dùng mà không cùng , sanh mà không hết , cái công dụng hết sức to lớn vậy .Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (12-10-09),htruongdinh (09-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (09-10-09),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)
-
10-10-09, 13:16 #15
_ Luận nạp âm thủ tượng : ( Tiếp theo )
Lại nghe các nhà nhựt gia nói :
Giáp Tí , Ất Sửu , tí thuộc thủy lại là hồ , tất thủy dụng , kim lại tử ở tí mộ ở sửu , thủy vượng mà kim tử mộ nên gọi là Hải trung Kim .
Nhâm Thân Quý Dậu , thân Dậu là chánh vị của Kim , Lâm quan ở thân Đế vượng tại Dậu , Kim đã được sanh vượng tức thành cường vậy nên gọi là Kiếm phong Kim .
Canh thìn Tân tỵ , kim dương ở Thìn mà sanh ở Tỵ , hình chất chưa thành nên chưa được cứng mạnh nên gọi là Bạch lạp Kim .
Giáp Ngọ , Ất Mùi là đất vượng Hỏa , hỏa vượng thì Kim bại , Mùi là đất hỏa suy , hỏa suy thì kim quan đới bại mà phương quan đới thì chưa thể cắt chặc nên gọi là Sa trung Kim .
Nhâm Dần , Quý MẢo , dần mảo là đất vượng mộc , mộc vượng thì kim loa , kim thì lại tuyệt ở dần thai ở mảo kim đã không còn lực nên gọi là Kim bạc Kim .
Canh Tuất , Tân Hợi , kim đến tuất thì suy , đến hợi thì bịnh , Kim đã suy bịnh thì yếu mềm vậy nên gọi là Xoa xuyến Kim .
Bính Dần , Đinh Mảo , dần là 3 dương mà mảo là 4 dương , Hỏa đã đắc địa lại được dần mảo mộc sanh , đây là thời thiên địa khai lư vạn vật thì sanh nên gọi là Lư trung Hỏa .
Giáp Tuất , Ất Hợi là thiên môn , hỏa chiếm thiên môn thì ánh quang rất cao nên gọi là Sơn đầu hỏa .
Mậu Tí , Kỷ Sửu , sửu thuộc thổ tí thuộc thủy , thủy ở chánh vị mà nạp âm thuộc hỏa chỉ có nơi hạng thần long nên gọi là Tích lịch Hỏa .
Bính Thân , Đinh Dậu , thân là đất nhà dậu là nhựt nhập chi môn , nhựt đến đây thì hết ánh quang nên gọi là Sơn hạ Hỏa .
Giáp Thìn , Ất Tỵ , thìn là thực thời tỵ là khu trung , nhựt ở đây thì đẹp thế dương chiếu cho thiên hạ nên gọi là Phúc đăng Hỏa .
Mậu Ngọ , Kỷ Mùi , Ngọ là nơi vượng hỏa , Mộc ở trong Mùi trở lại sanh cho Hỏa , tánh nóng phát lên lại gặp sanh địa nên gọi là Thiên thượng Hỏa .
Mậu Thìn , Kỷ Tỵ là cồn bãi ; Tỵ là lục dương , mộc đến đây thì cành lá tươi tốt , đã tốt cành lá mà lại ở nơi cồn bãi nên gọi là Đại lâm Mộc vậy .
Nhâm Ngọ , Quý Mùi ; mộc tử ở ngọ mộ ở mùi , mộc đã tử mộ tuy được thiên can Nhâm Quý thủy sanh nhưng cũng bị nhu nhược nên gọi là Dương liểu Mộc .
Canh Dần , Tân Mảo ;Mộc lâm quan dần đế vượng mảo Mộc đã sanh vượng thì không còn nhu nhược nữa nên gọi là Tòng bá Mộc .
Mậu Tuất , Kỷ Hợi ; tuất là cồn bãi hợi là nơi sanh mộc , Mộc mà ở nơi cồn bãi thì như thể một gốc một cây nên gọi là Bình địa Mộc .
Nhâm Tí , Quý Sửu ; tí thuộc thủy sửu thuộc thổ , thủy thhi2 sanh mộc mà bị thổ phạt nên phải làm loại dâu tằm để phương sanh do đó gọi là Tang đố Mộc .
Canh Thân , Tân Dậu ; Thân thuộc tháng 7 dậu thuộc tháng 8 , đây là thời mộc tuyệt , chỉ có thạch lựu mới kết thật nên gọi là Thạch lựu Mộc .
Canh Ngọ , Tân Mùi ; ngọ mùi thì vượng hỏa , hỏa vượng thì thổ được thêm , lại thọ sanh nơi thổ , nên gọi là Lộ bàng Thổ vậy .
Mậu Dần , Kỷ Mảo ; thiên can mậu kỷ thuộc thổ , dần là cấn do tích thổ mà thành sơn nên gọi là Thành đầu Thổ .
Bính Tuất , Đinh Hợi ; Bính Đinh thuộc Hỏa , Tuất hợi là thiên môn , Hỏa đã nóng lên trên thì thổ chẳng ở dưới mà sanh nên gọi là Ốc thượng Thổ .
Canh Tí , Tân Sửu , sửu tuy là thổ chánh vị mà tí lại là nơi vượng thủy , thổ gặp thủy thì thành bùn nên gọi là Bích thượng Thổ .
Mậu Thân , Kỷ Dậu ; thân thuộc đất khôn dậu thuộc đoài trạch , Mậu Kỷ thổ lại thêm Khôn Đoài nên là nơi đầm trạch lớn mới gọi Đại trạch Thổ .
Bính Thìn , Đinh Tỵ ; Thổ khố ở Thìn tuyệt ở tỵ mà thiên can là Bính Đinh hỏa đến thin là quan đới , tỵ là lâm quan , trên đã tuyệt khố mà gặp hỏa vượng trở lại sanh nên gọi là Sa trung Thổ .
Bính Tí , Đinh Sửu ; thủy vượng ở tí , suy ở sửu , vượng mà trở lại suy nên không thể là sông hồ do đó gọi là Giãn hạ Thủy .
Giáp Thân , Ất Dậu ; lâm quan thân đế vượng dậu , Kim đã sanh vượng thì thủy nương đó mà sanh , sức lực chưa lớn nên gọi là Tỉnh tuyền Thủy .
Nhâm Thìn , Quý tỵ ; thin là thủy khố , tỵ là nơi kim tràng sanh , kim đã sanh mà thủy đã vượng lại khố thủy mà gặp kim sanh thì tất dòng chảy không cạn nên gọi là Trường lưu Thủy .
Bính Ngọ , Đinh Mùi ; Bính Đinh thuộc hỏa , Ngọ là nơi vượng hỏa nạp âm lại là thủy , thủy từ hỏa mà xuất chỉ là ngân hà mới có nên gọi là Thiên hà Thủy .
Giáp Dần , Ất Mảo ; Dần là Đông Bắc , Mảo là chánh Đông , Thủy lưu ở chánh Đông thì tánh được thuần nên sông ngòi hồ lạch đều hợp lại mà về nên gọi là Đại khê Thủy .
Nhâm Tuất , Quý Hợi thủy , Tuất Quan đới , Hợi Lâm quan nên lực rất mạnh , lại Hợi là sông chẳng có thủy nào sánh được nên gọi là Đại hải Thủy .
Thuyết tuy không thông nhưng có thể thấy rõ được cái nghĩa tương hỗ dùng tương của cổ nhân vậy .
Thường luận rằng ngũ hành thủ tượng do nơi sự đối đải mà phân âm dương , trước sau biến hóa rõ ràng .
Như Giáp Tí Ất sửu đối với Giáp Ngọ Ất Mùi , Hải trung Sa trung lấy Thủy sanh mà biện phân âm dương vậy . Nhâm Dần Quý Mảo đối với Nhâm Thân Quý Dậu lấy Kim Mộc mà biện cương nhu khác nhau vậy . Canh Thìn Tân Tỵ , Canh Tuất Tân Hợi ,Bạch lạp Xoa xuyến , Càn Tốn khác phương , hình sắc mổi lạ vậy . Nhâm Tí Quý Sửu đối với Nhâm Ngọ Quý Mùi , Tang đố Dương liểu , một cong một mềm , hình chất khác nhau vậy . Canh Dần Tân Mảo đối với Canh Thân Tân Dậu , Tùng bá Thạch lựu một cứng một cay , tánh vị đều khác vậy . Mậu Thìn Kỷ Tỵ đối với Mậu Tuất Kỷ Hợi , Đại lâm Bình địa một thịnh một suy , Tốn Càn đối phương vậy . Mậu Tí Kỷ Sửu đối với Mậu Ngọ Kỷ Mùi , Tích lịch Thiên thượng , lôi đình huy tiên nhật nguyệt đồng chiếu vậy . Bính Dần Đinh Mảo đối với Bính Thân Đinh Dậu , Lư trung Sơn hạ hỏa thịnh mộc thiếu kim cường hỏa diệt vậy . Giáp Thìn Ất Tỵ đối với Giáp Tuất Ất Hợi , Phúc đăng Sơn đầu , hàn quang sợ gió , đưa quang về Cấn vậy . Bính Thìn Đinh Tỵ đối với Bính Tuất Đinh Hợi , Sa trung Ốc thượng , cạn ướt tương hỗ biến hóa thỉ chung vậy .
Xét tròn xét vuông không ngoài vượng tướng tử hưu tù . Lấy gần lấy xa chẳng rời Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ . Lấy can chi mà phân phối ngũ hành , luận âm dương mà sáng tỏ trước sau , thiên thành nhân lực gồm tương sanh vượng tử tuyệt các loại . Kêu là lục thập Giáp tí chẳng qua Thánh nhân mượn cái tượng mà làm rõ cái lý ; tính chất hình sắc của ngũ hành công dụng chẳng thể không khúc tận mà tạo hóa không dư chứa vậy .
Trong Dịch nói đạo lập thiên âm với dương nhật là Thiên đạo vậy , 10 ngày thay đổi là đã rõ cái nghĩa âm dương , còn cái đạo lập địa thì cương nhu thời tức địa đạo vậy . Từ Tí đến Hợi có 12 thời thứ bậc mà rõ nghĩa âm dương , trước bày thanh sau đó là âm , cho nên dùng nhật thời thác tống nạp giáp để thành ngũ âm , lấy lục tượng đó là tam tài đủ mà ngũ hành không dư vậy . Dùng can là Lộc mà định quý tiện , lấy chi là mệnh để định trường đoản , lấy nạp âm là thanh để xét thanh suy , người nếu có Lộc , mệnh thân đều được vượng tướng , tam tài đắc khí thì chắc khoái lạc trường thọ ; nếu bị tử tuyệt hưu tù , tam tài thất khí thì một đời trần ai khốn khổ chẳng sai vậy .thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 13-10-09 lúc 12:16
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 12 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (12-10-09),htruongdinh (10-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (13-10-09),Kloan (10-10-09),macchulan (25-04-11),ProCEO (28-04-10),sonthuy (10-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (10-10-09),VP (24-08-13)
-
13-10-09, 17:54 #16
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :
• Giáp tí Kim là thực vật thích Kim Thủy vượng địa , tấn thần hỷ phúc tinh , bình đầu huyền ngoại phá tự .
• Ất sửu Kim là khoáng vật thích Hỏa và Nam phương nhựt thời , phúc tinh Hoa cái chánh ấn .
• Bính dần Hỏa là Lư khôi thích Đông và Mộc , phúc tinh lộc hình , bính đầu lung á .
• Đinh mảo Hỏa là Lư yên thích Tốn và Thu đông , bính đầu triệt lộ huyền châm .
• Mậu thin Mộc là sơn lâm sơn dã , mộc bất tài , thích thủy lộc khố hoa cái , thủy lộc mã khố , bổng trương phục thần bình đầu .
• Kỷ Tỵ Mộc là hoa quả trên núi , thích Xuân và Thu , Lộc khố nhập chuyên .
• Canh Ngọ Thổ là đất mỏng bên đường , thích Thủy và Xuân , phúc tịnh quan quý , triệt lộ bổng trượng huyền châm .
• Tân Mùi Thổ, thích Thu với Hỏa , hoa cái huyền châm phá tự .
• Nhâm Thân Kim là kích chiến , thích Tí Ngọ Mảo Dậu , bình đầu đại bại, phường hại lung á phá tự huyền châm .
• Quý Dậu Kim là Kim thôi tạc , thích Mộc và Dần Mảo , phục thần phá tự lung á .
• Giáp Tuất Hỏa thích Xuân và Hạ , chánh ấn hoa cái , bình đầu huyền châm phá tự bổng trượng .
• Ất Hợi Hỏa , Hỏa khí nóng thích Thổ và Hạ , Thiên đức khúc cước .
• Bính Tí Thủy sông hồ , thích Mộc và Thổ , phúc tinh quan quý, bình đầu lung á , giao thần phi nhận .
• Đinh sửu Thủy , thủy bất lưu thanh , triệt cứ , thích kim và hạ , hoa cái thối thần , bình đầu phi nhận .
• Mậu Dần Thổ , đề tinh thành quách , thích Mộc và Hỏa , phục thần bổng trượng lung á .
• Kỷ Mão Thổ , phá đê bại thành , thích Thân Dậu và Hỏa , tấn thần đoản thiên cửu xá , khúc cước huyền châm .
• Canh Thìn Kim Tích lạp , thích Thu và triệt Mộc , hoa cái đại bại , bổng trượng bình đầu .
• Tân Tỵ Kim ; Kim sanh thì sa thạch tạp , thích Hỏa và Thu , Thiên đức phúc tinh quan quý , triệt lộ đại bại huyền châm khúc cước .
• Nhâm Ngọ Mộc : dương liểu cán tiết , thích Xuân Hạ , thích quan quý , cửu xú phi nhận bình đầu lung á huyền châm .
• Qúy Mùi Mộc : Dương liểu căn , thích Đông với thủy và chánh ấn ở Xuân , hoa cái đoản thiên phục thần phi nhận phá tự .
• Giáp Thân Thủy : Cam tỉnh thích Xuân và Hạ , phá lộc mã triệt lộ bình đầu.
• Ất Dậu Thủy : âm Thủy thích Đông và Nam phương , phá lộc đoản thiên cửu xú khúc cước phá tự lung á .
• Bính Tuất Thổ : gò đồi , thích Xuân Hạ và Thủy , thiên đức hoa cái , bình đầu lung á .
• Đinh Hợi Thổ : Bình nguyên , thích Hỏa và Mộc , thiên đức phúc tinh quan quý đức hợp bình đầu .
• Mậu Tí Hỏa : Sét vậy , thích Thủy và Xuân Hạ , đắc thượng thần thiên , phục thần đoản thiên cửu xú trượng hình phi nhận .
• Kỷ Sửu Thổ : điện vậy , thích thủy và Xuân Hạ , đắc địa mà tối , hoa cái đại bại phi nhận khúc cước .
• Canh Dần Mộc : Thân cây tùng bách , thích Thu Đông , phá lộc mã tướng hình trượng hình lung á .
• Tân Mão mộc : Rễ cây Tùng, thích Thủy Thổ và Xuân , phá lôc giao thần cửu xú huyền châm .
• Nhâm Thìn Thủy : Long Thủy , thích Lôi điện và Xuân Hạ , chánh giáp thiên đức thủy lộc mã tất thối thần bình đầu lung á .
• Quý Tỵ Thủy : Không nghĩ khi chảy về biển , thích Hợi Tí mà biến hóa thiên ất quan quý đức hợp , phục mã phá tự khúc cước .
• Giáp Ngọ Kim : Bách luyện tinh Kim , thích Mộc Thủy Thổ , thối thần đức hợp , bình đầu phá tự huyền châm .
• Ất Mùi Kim : Lư khôi dư Kim , thích dại hỏa và thổ , hoa cái triệt lộ khúc cước phá tự .
• Bính Thân Hỏa : Bạch nha dã thiêu , thích Thu Đông và Mộc , bình đầu lung á đại bại phá tự huyền châm .
• Đinh Dậu Hỏa : Quỷ thần thừa hưởng Hỏa vô hình , thích Thìn Tuất Sửu Mùi , thiên ất hỷ thần bình đầu phá tự lung á đại bại .
• Mậu Tuất Mộc : Thứ cỏ ngải khô , thích Hỏa và Xuân Hạ , hoa cái đại bại nhập chuyên trượng hình triệt lộ .
• Kỷ Hợi Mộc : mầm cỏ ngải , thích Hỏa và Xuân Hạ , khúc cước .
• Canh Tí Thổ : Thổ giữa không , là ốc vũ , thích Mộc và Kim Mộc , đức hợp trượng hình .
• Tân Sửu Thổ : Mộ , thích Mộc và Hỏa với Xuân , hoa cái huyền châm.
• Nhâm Dần Kim : Kim hoa sức , thích Mộc Hỏa , triệt lộ bình đầu lung á .
• Quý Mão Kim : Dây ngọc , thích Hỏa mạnh và Thu , quý nhân phá tự huyền châm.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 12 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (18-10-09),htruongdinh (13-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (15-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),QuocTrung (13-10-09),sonthuy (15-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (13-10-09),VP (24-08-13)
-
14-10-09, 15:44 #17
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )
• Giáp Thìn Hỏa : Đèn vậy , thích đêm và Thủy , Hoa cái đại bại bình đầu phá tự huyền châm .
• Ất Tỵ Hỏa : Ánh đèn vậy , thích Thân Dậu và Thu , chánh Lộc mã , đại bại khúc cước .
• Bính Ngọ Thủy : Nguyệt luân , thích đêm và Thu thủy , hỷ thần dương nhận , giao thần bính đầu lung á huyền châm .
• Đinh Mùi Thủy : Hỏa quang đồng thương , hoa cái dương nhận thối thần nhập chuyên bình đầu phá tự .
• Mậu Thân Thổ : Điền địa , thích Thân Dậu và Hỏa , phúc tinh phục mã phục hình phá tự huyền châm .
• Kỷ Dậu Thổ : thích Thân Dậu và Đông , tấn thần triệt lộ cửu xú , khúc cước phá tự lung á .
• Canh Tuất Kim : thích dùng Hỏa và Mộc , hoa cái trượng hình .
• Tân Hơi Kim : chung đỉnh bảo vật , thích Mộc Hỏa và Thổ , chánh lộc mã huyền châm.
• Nhâm Tí Mộc : thương Thủy Mộc , thích Hỏa Thổ và Hạ ,dương nhận cửu xú bình đầu lung á .
• Quý Sửu Mộc : thương Thủy Mộc , thích Kim Thủy và Thu , hoa cái phúc tinh nhập chuyên , phá tự dương nhận .
• Giáp Dần Thủy : Mưa vậy , thích Hạ và Hỏa chánh lộc mã phúc thần nhập chuyên bình đầu phá tự huyền châm lung á .
• Ất Mão Thủy : Lộ vậy , thích Thủy và Hỏa , kiến lộc , nhập chuyên cửu xú khúc cước huyền châm .
• Bính Thìn Thổ : Đê ngạn , thích Kim và Mộc , lộc khố chánh ấn , hoa cái triệt lộ bình đầu lung á .
• Đinh Tỵ Thổ : Thích Hỏa và Tây Bắc , lộc khố bình đầu khúc cước .
• Mậu Ngọ Hỏa : Nhựt về Hạ thì nhân úy , qua Đông thì nhân ái , kỵ Mậu tí Kỷ sửu Giáp dần Ất mão , phục thần dương nhận cửu xú bỗng trượng huyền châm .
• Kỷ Mùi Hỏa : Ngày kỵ đêm , phúc tinh hoa cái dương nhận khúc cước phá tự .
• Canh Thân Mộc : Lựu hoa , Hạ bất nghi , Thu Đông kiến lộc mã , nhập chuyên trương hình phá tự huyền châm .
• Tân Dậu Mộc Lựu nhỏ , thích Thu và Hạ kiến lộc giao thần cửu xú nhập chuyên huyền châm lung á .
• Nhâm Tuất Thủy : Biển vậy thích Xuân Hạ và Mộc , hoa cái thối thần bình đầu lung á trượng hình .
• Quý Hợi Thủy : Bách xuyên thích Kim trên Hỏa , phục mã đại bại phá tự triệt lộ .Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (18-10-09),htruongdinh (14-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (15-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (15-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (14-10-09),VP (24-08-13)
-
16-10-09, 11:47 #18
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )
* Lục thập Giáp Tí thịnh lớn thì kỵ biến nhỏ yếu , nếu bị nhỏ yếu thì muốn thành lớn mạnh , giống như trước bần tiện mà về sau phú quý vinh hoa , trước phú quý mà sau bần tiện nhỏ mọn ; không nên dùng phú quý trước mà không luận bần tiện , cũng không thể thấy bần tiện trước mà không luận phú quý .
Niên sanh thuộc Mộc , ví dụ như Canh Dần Tân Mão tức Mộc lớn mạnh , nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc thì lấy Tòng bá Mộc mà luận ; vạn nhứt mà gặp Dương liểu hoặc Thạch lựu tức bỏ đại mà về tiểu , không lấy Tòng bá mà luận vậy .
Còn như sanh nhân là Nhâm Ngọ Quý Mùi thì Mộc nhỏ yếu nếu nhựt nguyệt thời không gặp các Mộc khác thì lấy Dương liểu mà luận , vạn nhứt nếu gặp Tùng bách hoặc Đại lâm Mộc tức bỏ nhỏ mà luận lớn , không nên luận như Dương liểu vậy .
Cho nên Thiên thượng Hỏa , Kiếm phong Kim , Đại hải Thủy Đại trạch Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp các vị nạp âm đều nhỏ yếu ; hay như Phúc đăng Hỏa , Kim bạc Kim , Tỉnh tuyền Thủy , Sa trung Thổ sanh nhân mà nhựt nguyệt thời không gặp vị khác thì nạp âm đều lớn mạnh , hoặc đem phàm nhập thánh , hoặc trước trọng mà sau khinh , đều theo sự biến mà luận chứ không thể chấp ở một mặt .
- Giáp tí là Kim tùng cách nên khí tán , nếu được Mậu Thân Thổ , Quý Tỵ Thủy tương hợp thì tốt , Mậu Thân là đất Lâm quan Kim, Thổ thì vượng ở Tí nên được sanh thành vậy , Quý tỵ thuộc hệ Kim sanh ở Tỵ , Thủy sanh ở Tí, nạp âm tat61` cả đều quy lại là triều nguyên lộc , kỵ Đinh Mão Đinh Dậu Mậu Ngọ Hỏa . Diêm đông Sưu nói : Giáp Tí Kim là tấn thần bẩm cái đức trầm tiệm hư vô nên tứ thời đều tốt , nhập quý cách thừa vượng khí nên tay nghề tinh vi chủ về vinh hoa hiễn đạt .
- Ất sửu là Kim phủ khô , Hỏa không thể khắc bởi Kim đã ân núp nên không bị hình hại xung phá lại là hiễn vinh , chỉ kỵ Kỷ Sửu Kỷ Mùi Hỏa . Diêm đông Sửu nói : Ất sửu là chánh ấn , là đại phúc đức , Thu Đông được phú quý thọ khảo , Xuân Hạ thì tốt , trong đó tự nhập cách thì kiến công hưởng phước . Ngọc Tiêu bửu Giám nói : Giáp Tí Ất Sửu chưa thành khí , Kim gặp Hỏa thì thành , gặp nhiều thì tốt .
- Bính Dần là Hỏa hách hy , Thủy không chế được nên cái Hỏa thiêu đốt dữ dội , Thủy không qua được , chỉ thích một mình Giáp Dần Thủy , đồng vị với nhau lại gọi là triều nguyên Lộc . Yếu luận nói : trong Dần Hỏa chứa khí linh minh , tứ thời sanh đức , nhập quý cách thì văn chương phát khoa giáp .
- Đinh Mão là Hỏa phục minh , khí yếu nên cần Mộc sanh , gặp Thủy thì hung , nếu gặp Ất mão Ất dậu thủy thì rất độc . Ngũ hành Yếu Luận nói : Đinh mão là Hỏa mộc dục , khí hàm lôi đông phong , thủy tề khí đạt , thổ tải thì mộ hậu , lấy mộc mà cho thì văn chương , lấy kim mà hợp lại gặp hạ thì hung bạo . Quỷ Cốc nói : Bính dần Đinh mão thu đông cần phải bảo trì . Chú rằng : hỏa không vượng tây đến thu đong thì thế sợ không bền .
- Mậu thin là lưỡng thổ hạ mộc , các kim không thể khắc bởi là thổ sanh kim tức cái đạo mẫu tử , được thủy sanh là tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Mậu thìn Canh dần Quý sửu 3 thần này tánh mộc tráng kiện , sanh ở Xuân Hạ có chất độc lập , tùy biến hóa mà thành công , thừa được vượng khí thì chí tận mây xanh , chỉ kỵ sanh ở Thu, tuy bị hoại tiết chí bị khuất phục nhưng chẳng theo vậy .
- Kỷ tị là mộc cận hỏa , kim sanh ở đây , ở ta mà không sát , kỵ gặp hỏa sanh vượng . Diêm Đông nói : Kỷ tỵ tại Tốn là Mộc bị phong đông , rễ dể bị bạt , hòa với Kim , Thổ vận ở Đông nam mà thành vật dụng , tuy ngoài dương trong âm mà chẳng phụ trợ nên khí hư tán , lại thêm Kim quỹ khắc nên thành Mộc bất tài dung vậy . Lạc lộc Tử nói : Kỷ tỵ Mậu thìn qua Càn cung mà thoát ách . Chú rằng : Kỷ tỵ Mậu thìn là loại cử mộc , kim quỹ vượng ở phương Tây , nạp âm mà Mộc thì đến đây phải tuyệt vậy . Như bị hạn ách nếu đến Càn Hợi cung thì Mộc đắc Thủy thành trường sanh mới khỏi ách .
- Canh ngọ Tân mùi Thổ , Mộc không dến khắc , chỉ kỵ nhiều Thủy thì bị thương khí , còn Mộc nhiều thì nhủ quy về , bởi Mộc quy Mùi vậy . Diêm Đong nói : Canh ngọ Tân mùi Mậu thân Kỷ dậu đều có đức hậu , Thổ bao hàm trấn tịnh , dung hợp hòa khí , nhân cách phước lộc .
- Nhâm thân là Kim lâm quan , thích gặp Thủy Thổ , nếu gặp Hỏa Bính thân Bính dần Mậu ngọ thì tác hại . Diêm D(ông nói : Nhâm thân Kim là cái uy của thiên tướng cho khí lâm quan , Thu Đong chủ quyền bị sát , Xuân Hạ thì tốt ít xấu nhiều , nhân cách lấy công danh mà phấn chấn , đế sát dùng để khắc bạc .
- Quý dậu là Kim cứng mạnh , Hỏa tử ở Dậu nên gặp Hỏa chẳng hề gì , chỉ kỵ Hỏa Đinh dậu cùng vị nên khắc vậy . Diêm Đông nói : Quý dậu là tự vượng Kim , cái khí chất thuần túy , Xuân Hạ thì tánh anh minh , Thu Đong rất quý nhân cách nên công danh sự nghiệp tiết tháo hơn người , đới sát thì niên thiếu ngang ngạnh đến sau 40 thì dần thuận tánh . Vương tiêu Bửu Giám nói : Nhâm thân Quý dậu là vị vượng Kim , không nên vượng lại vì vượng thì sát vật , không nên gặp Hỏa vì gặp Hỏa thì bị thương .Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
cuongbao (18-10-09),htruongdinh (16-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (18-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),sonthuy (16-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (17-10-09),VP (24-08-13)
-
19-10-09, 14:44 #19
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )
- Giáp tuất là tự khô Hỏa , không sợ các thủy chỉ sợ Nhâm tuất , đó là cái họa mộ trung thọ khắc , khó tránh được . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp tuất Hỏa là Ấn là khố , gồm cho đến khí dương tạng mật , gặp được qúy cách thì phú quý quang đại , chỉ kỵ sanh Hạ thì trong cát có hung .
- Ất hợi là Hỏa phục minh nên khí uất ức mà không phát tịch được , Kỷ hợi , Tân mão Kỷ tỵ Nhâm ngọ Quý mùi là Mộc sanh cho nên tinh thần vượng tướng , có Quý hợi Bính ngọ Thủy thì không tốt . Diêm Đông nói : ẤT hợi là Hỏa tự tuyệt , khí hàm minh mẫn mà tự tịnh , thuộc hệ ám quang tịch nhiên vô hình , nếu được đắc số thì cao nhân diệu đạo , quân tử tốt đức .
- Bính tí là Thủy lưu hành , không sợ các Thổ , chỉ hiềm Canh tí bởi trong vượng gặp quỷ chẳng được tốt lành . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính tí tự vượng Thủy , dương thượng âm hạ , tinh thần hoàn hảo , bẩm chất thiên tư khoáng đạt , tri thức uyên thâm , Xuân Hạ thì khí tề vật , công năng kiện lợi .
- Đinh sửu là phước tụ Thủy , rất thích Kim sanh , sợ bị Tân mùi Bính thìn Bính tuất tương hình phá vậy .Ngũ hành yếu luận nói “ Đinh sửu Ất dậu tại số là thủy tam yếu , có bẩm chất âm thạnh dương yếu , tuy trong sáng nhiều huệ mà thiếu phước , dùng Thủy Mộc vượng khí thì quân bình được âm dương mà phát quý đạt hiển sĩ “.
- Mâu Dần là Thổ thọ thương , chẳng có chút lực , cần được Hỏa sanh vượng để giúp khí , kỵ Kỷ hợi Canh dần Tân mão Mộc khắc , chủ bị đoãn triết đại hung . Ngũ hành yếu luận nói : Mậu dần , Bính tuất hai vị này thừa khí Thổ , một mặt sanh Hỏa , một mặt giữ Hỏa , tức là linh dương theo trong được phước khánh , đắc quý cách , đạo đức hơn đời , đến tận thân vương công tử , nhiều nơi chỗ nhựt sanh thường được dắc cách , cũng đếu phước thọ dài lâu , trước sau đều an dật .
- Kỷ mão là Thổ tư tử , bị ức chế nhiều , quý nhờ ở cái HỎa Đinh mão Giáp tuất Đinh hợi Kỷ mùi mà có phước . Ngũ hành yếu luận nói : Kỷ mão tự tử Thổ , mạnh ở nơi chánh vị , gió nỗi sét động , tán mà hòa khí , bẫm loại đạo hành , tùy biến mà thích ứng , phức thọ tự tại , chỉ không lợi nơi tử tuyệt tức là cửu giả vật quý chi đồ . Tam mệnh soán cục nói : Mậu dần Kỷ mão Thổ thọ thương không sợ lấy Mộc lâm tổn vì Thổ không còn lực . Vương tiêu bửu giám nói : Mậu dần Kỷ Mão Thổ không nên gặp Thủy , gặp Thủy thì tổn tài , không sợ Mộc , gặp Mộc thì thành chắc . Mậu dấn thừa Thổ đức vượng khí mà hàm sanh Hỏa , đắc thì chỉ phước thọ dài lâu , Kỷ mão không nên gặp lại tử tuyệt , gặp thì hung.
- Canh thìn là Kim tụ khí , không dùng Hỏa chế thì khí vật tự thành , Hỏa mạnh thì thành tổn thương khí vật , gặp Hỏa bệnh tuyệt thì vô hại , nếu gặp Giáp thìn Ất tỵ thì xấu ác rất nhiều , cũng không thể khắc các Mộc được . Diêm Đông nói : Canh thìn Kim có được sự cương kiện trầm hậu , lại có tánh thông minh lanh lợi , Xuân Hạ họa phước cũng có , nhập cách thì tài kiêm văn võ , đới sát thì hảo lộng binh quyền .
- Tân tỵ là bạch kim , tinh thần đầy đủ , khí thế hoàn bị , có bị thiêu đốt cũng không tiêu vong , kỵ Bính thìn Ất tỵ Mậu ngọ các Hỏa , bởi Kim bạch ở tỵ mà không thường sanh , bại ở ngọ tuyệt ở dần , khí tán mà lại gặp Hỏa sanh vượng thì khó mà đương nổi . Ngũ hành yếu luận nói : Tân tỵ Kim là tự sanh học đường , đủ anh minh khối kỳ , Thu Đong sức lực đầy đủ , Xuân Hạ bảy phần xấu ba phần tốt , nhập quý cách thì chủ học hành thông minh , thân được thanh quý , có lòng thương vật . Vương tiêu bửu giám nói : Canh thìn Tân tỵ chưa thành Kim khí nên cần gặp Hoa . Tân tỵ là tự sanh , tỵ thì đắc Hỏa nên quang huy nhựt tân .
- Nhâm ngọ là Mộc nhu hòa `, thân rễ đều nhỏ yếu , mộc năng sanh hỏa nên kỵ gặp nhiều hỏa , gặp thì thiêu hết vậy , tuy là kim sanh vương nhưng cũng không làm cho thương tổn được bởi kim đến đây thì bại , được kim trở thành quý , thủy thổ thạnh thì cũng quý , chỉ sợ kim Giáp ngọ làm thương tổn thôi . Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm ngọ mộc tự tử , mộc tử tuyệt thì hồn đi mà thần khí linh tú , bẩm được cái đức tịnh minh , có dõng lực mà phá tịnh lập công , diên niên ích thọ .
- Quý Mùi mộc tự khố , sanh vượng thì tốt , tuy ẤT sửu kim không thể xung phá cũng đều phải quy về gốc mới không tương phạm , kỵ Canh tuất Ất mùi kim . Ngũ hành yếu luận nói : Quý mùi là chánh ấn , có tánh văn minh tài đức , muốn đươc phước thanh hoa . Ngọc tiêu bửu giám nói : Nhâm ngọ Quý mùi là Dương liễu mộc , mộc đến ngọ thì tử , đến mùi thì mộ , cho nên thịnh mùa Hạ lá nhiều , được thời thì phú thọ , chẳng đựơc thời thì bần yểu .Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 10 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
Ducminh (21-10-09),htruongdinh (19-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (20-10-09),Kloan (19-10-09),macchulan (25-04-11),thucnguyen (16-01-12),vocuc (19-10-09),VP (24-08-13)
-
22-10-09, 13:44 #20
_ Lục thập Giáp Tí tánh chất cát hung :(Tiếp theo )
- Giáp thân thủy tự sanh , khí lưu hành nên có nơi quy cũng mượn kim sanh , không sợ các Thổ khác chỉ sợ Mậu thân Canh tí thổ . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp thân thủy bạch sanh có thiên chân học đường mà đắc nhập cuộc thì trí thức thông tuệ diệu dụng vô cùng .
- Ất dậu tự bại thủy , cần các kim tương trợ , bởi khí tự đã yếu , muốn được mẹ dưỡng , kỵ Kỷ dậu Kỷ mão Mâu thân Canh tí Tân sửu các Thổ , nếu gặp thì yểu triết cùng tiện .
- Bính tuất phước tráng lộc hậu thổ , mộc không thể khắc được , sợ gặp Kim sanh vượng , nếu gặp được Hỏa thạnh thì quý không nói hết .
- Đinh hợi Lâm quan thổ , Mộc không thể khắc , chỉ hiềm nhiều Kim thì tiết , cần có Hỏa sanh để cứu thì tốt , kỵ Kỷ hợi Tân mão Mộc . Ngũ hành yếu luận nói : Đinh hợi Canh tí hai thổ có chứa kim , trong cương ngoài hòa , có được đinh lực , dùng Thủy Hỏa vượng khí thì kiến công lập nghiệp vậy .
- Mậu tí Kỷ sửu hỏa ở trong thủy , lại gọi là thần long hỏa , gặp thủy thì quý là ma lục khí vậy . Ngũ hành yếu luận nói : Mậu tí chứa tinh thần quang huy toàn thật , khí cả 4 thời , bảo sanh cái phước , nhập quý cách tức là quý nhân quân tử khí chất gồm lớn phú quý hết đời .
- Kỷ sửu là hỏa Thiên tướng , lại là nhà Thiên Ất ,hàm chứa khí oai phúc quang hậu , phát rất dũng mãnh , là tướng đức là khôi danh . Kinh nói : Hỏa được thai dưỡng thì khí dần mạnh , nếu được Bính Dần Mậu ngọ Hỏa trợ thêm thì trở thành có công tế vật .
- Canh dần Tân mão tuế hàn Mộc , sương tuyết không thể làm mất tiết tháo hướng chi là kim , như gặp thổ Canh dần Tân mão chẳng muốn chế trị , tự nhiên thành rừng . Diêm dông nói : Tân mão Mộc , tự vượng Xuân Hạ thì khí tiết xuất chúng ,kiến công lập nghiệp , sanh ở Thu thì bị ngông cuồng hẹp hòi tỏa triết , khí vượng khí nhuần .
- Nhâm thìn là tự khố thủy , nếu là đất ao hồ tích thủy thì kỵ kim đến quyết phá , nếu gặp lại Nhâm thìn tức là tự hình , gặp nhiều Thủy Thổ thì thích , chỉ sợ gặp Nhâm tuất Quý hợi Bính tí Thủy , được sanh vượng thái quá trở thành tràn lan hỗn tạp . Ngũ hành yếu luận nói : Nhâm thìn là chánh ấn thủy , chứa cái đức thanh minh huần ốc , có tánh bao dung quãng đại , tâm thức như gương , được mùa Xuân Hạ thì đại phước tuệ , Thu Đông thì thuộc loại gian trá bạc đức .
- Quý tỵ là tự tuyệt thủy , tên gọi là hạc lưu ( chảy cạn ) , nếu gặp Bính tuất Đinh hợi Canh tí thổ hùng hậu thì còn giữ cạn , nếu gặp kim tam hợp sanh vượng thì thành nguyên lưu dồi dào khoa danh tấn đạt vậy . Ngũ hành yếu luận nói : Quý tỵ Ất mão là Thủy tự tuyệt tự tử , bèn đến âm lui ẩn , chân tình sắc dưỡng ngưng thành khí quý trở nên quý cuộc , loại nầy thuộc diệu đạo quân tử hiễn công cập vật .
- Giáp ngọ là tự bại kim cũng gọi là cường hãn ( dữ mạnh ) kim gặp hỏa sanh vượng thì khí vật thạnh , gặp Đinh mão Đinh dậu Mậu tí hỏa đại hung . Ngũ hành yếu luận nói : Giáp ngọ kim là tấn thần khí tốt có , có đủ đức cang minh , Thu Đông thì tốt Xuân Hạ thì xấu , nhập quý cách thì khoa trương xuất chúng , nếu chẳng gặp thời mà đới sát thì bạo liệt vô ơn thiếu nghĩa . Chúc thần kinh nói : Giáp ngọ kim dương dữ mạnh , nếu ức chế thì trầm . Chú viết : Sa thạch kim cứng thích sát , muốn ức thì lấy hỏa mà dùng vậy . Quỷ Cốc di văn rằng : giáp ngọ thích quan quỷ . Lý hư trung nói : Giáp ngọ kim tổn dữ mạnh , Nhâm tí mộc hết nhu ,hoặc Nhâm tí gặp Giáp ngọ hoặc Giáp ngọ gặp Nhâm tí , âm dương giành vị không còn sáng tỏ .
- Ất mùi kim thiên khố ( không chánh khố ) , cũng là hỏa khắc mà thổ sanh thì phước mạnh khí tụ , kỵ Kỷ mùi Bính thân Đinh dậu các hỏa . Ngũ hành yếu luận nói : Ất mùi kim ở số là mộc khố lại là thiên tướng có đủ các đức thuần nhân hậu nghĩa , được quý cách thì anh kiệt xuất chúng khôi trấn tứ luân , nếu được cách thường mà đới sát xung phạm cũng được quân tử bình thường .
- Bính thân hỏa tự bịnh , Đinh dậu hỏa tự tử , khí nhỏ yếu , cần mộc tương trợ thì khí mới sanh , kỵ Giáp thân Ất dậu Giáp dần Ất mão các thủy , Diêm Đông nói : Bính thân hỏa bịnh hư , gặp Mộc đức văn minh , thủy khoáng đạt thì được phước tuệ , chỉ có kim là bạo hại , nếu dù có tốt thì cũng đổi thành cái khí bất hòa . Ngũ hành yếu luận nói : Bính thân Đinh dậu hỏa tư tử , hàm khí dấu kín yên tịnh , ngoài hòa trong cương , quý cách ở đó , thuộc loại có đạo quân tử , đức hạnh tự nhiên .
- Mậu tuất mộc trong thổ kỵ gặp lại thổ , nếu nạp âm gặp nhiều thổ thì một đời truân chuyên , kim không thể khắc bởi kim đến tuất thì bại , gặp kim có khi lại được phước , thích gặp nhiều thủy , thịnh mộc sẽ thành quý cách . Diêm Đông nói : Mậu tuất mộc cô thân độc vị , hòa với thủy hỏa vượng khí thì được cái đức chân thật anh minh , nhập cách thì văn chương tấn đạt , phước lộc thủy chung , nhưng vì thừa khí thiên tướng nên trãi nhiều gian hiểm song tiết tháo không đổi thì mới được phước về sau .
- Kỷ Hợi mộc tự sanh , căn bản phồn thịnh không sợ các kim khác chỉ sợ Tân hợi Tân tỵ Quý dậu kim , nếu gặp Ất mão Quý mùi Đinh mùi mộc chưa hẳn là không đại quý . Ngũ hành Yếu luận nói : Kỷ hợi mộc tự sanh , anh minh tài trí , như đắc được nơi thì thanh quý . Diêm Đông nói : Kỷ hợi mộc được thời thì thanh quý , chẳng gặp thời thì tân khổ .
- Canh tí thổ hậu đức , hay khắc các thủy và không kỵ các mộc , bởi mộc đến tí thì vô khí , nếu gặp được Nhâm thân kim thì là được Lộc vị tức quý vậy .
- Tân sửu thổ phước tụ , bởi lộc không thể khắc và Sửu là Kim khố , trong Sửu có Kim nên không sợ gặp Mộc . Ngọc tiêu Bửu giám nói : Canh tí Tân sửu thổ thích Mộc mà ghét Thủy , gặp Mộc là quan , gặp Thủy thì không tương nghi . Diêm Đông nói : Tân sửu Kỷ dậu Thổ trong có chứa ít Kim , đức hậu tánh cứng hòa mà bất đồng , trên dưới tề nhau dùng Thủy Hỏa vượng khí thì công lớn danh oai vậy .
- Nhâm dần tự tuyệt kim , Quý mão là kim tám khí , nếu gặp các Hỏa thì phải tiêu khí , chỉ tốt khi được Thủy Thổ triều . Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm dần Quý mão là Kim hư hoại bạc nhược nhưng cũng có đức nghĩa nhu cương , Thu Đông khang kiện không xấu , xấu lại là điềm tốt , Xuan Hạ thì nội hung ngoại cát , tốt thì bị xấu trước , nhập quý cách thì tiết chí anh minh , đới sát thì hung bạo không cùng vậy .Tam mệnh soán cuộc nói : Quý mão là Kim tự thai , nếu gặp Bính dần Đinh mão Lư trung Hỏa thì không sợ , vì thai Kim nên ở trong lư thì thì khí vật được thành vậy .
- Giáp thìn là Hỏa thiên khố ( không chánh khố ) , có nhiều Hỏa trợ thì tốt , đó là đồng khí tương trợ , nếu gặp được Mậu thìn Mậu tuất Mộc sanh cho thì đắc quý cách , kỵ Nhâm thìn Nhâm tuất Bính ngọ Đinh mùi Thủy rất độc . Ngũ hành yếu Luận nói : Giáp thìn là Thiên tướng Hỏa , tánh khí nóng mạnh nhanh nhẹn , nhập quý cách thi văn khôi đặc biệt , lợi ở Thu Đông mà không lợi ở Hạ .
- Ất tỵ lâm quan Hỏa , Thủy không thể khắc bởi Thủy tuyệt ở Tỵ , được Thủy tương tề thì là thuần túy , nếu có hai ba Hỏa tương trợ thì cũng tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Ất tỵ chứa thuần dương , phát khí ở Tốn nên quang huy sung mãn , Xuân Đông theo tốt , Thu Hạ theo xấu .
- Bính ngọ Đinh mùi Thiên hà Thủy thổ không thể khắc Thủy ở trên trời nên đất Kim không sanh được , như sanh vượng thai quá thì phát dục nơi vạn vật , nếu tử tuyệt thái quá thì lại không thể sanh vạn vật . Ngũ hành yếu Luận nói : Bính ngọ là thủy chí cao , khí thể ôn hậu ở phương Nam tánh loại có đạo khí hư thì biến thành xuất sắc .
- Đinh Mùi thì đủ cả tam tài , toàn số được xung chánh khí bẩm được tinh thần toàn khí , căn tánh cao diệu , biến hóa vô cùng .
- Mậu thân trọng phụ thổ , mộc không thể khắc vì mộc tuyệt ở thân , nếu được kim thủy trợ nhiều thì chủ phú quý tôn vinh vậy .
- Kỷ dậu là tự bại thổ , khí không đầy đủ , cần lấy hỏa tương trợ , gặp được Đinh mão Đinh dậu hỏa thì tốt , kỵ nhất là tử tuyệt , nếu gặp Tân Mão Tân dậu mộc thì tai ương yểu triết
- Canh tuất Tân hợi là kiên thành kim không nên gặp hỏa dễ bị thương tổn , nếu được thủy thổ tương giúp thì quý . Diêm Đông nói : Canh tuất kim mộ ở hỏa , kim cương liệt trở thành hung bạo , Thu Đong ít nhiều trầm hậu , Xuan HẠ động sanh hối tiếc , quân tử nắm binh quyền , tiểu nhân thì tánh hung ác . Tân hợi kim mạnh ở Càn , có khí thuần minh trung chánh , Xuan Thu Đông đều tốt , Hạ thì 7 tốt 3 xấu , lấy nhân mà hành nghĩa , nếu có hình sát thì hung bạo bần tiện..
- Nhâm tí mộc chuyên vị , Quý sửu là mộc thiên khô , gặp tử tuyệt thì phú quý , gặp sanh vượng thì bần tiện , nhiều mộc thì yểu triết , kim thổ nhiều và thịnh thì tốt . Ngũ hành yếu Luận nói : Nhâm tí là mộc âm u , dương yếu mà âm mạnh , nhu mà không lập , gặp Bính ngọ thủy thì đức tánh thuần túy thuộc loại thần tiên dị sĩ tánh cách phi thường . Chúc thần Kinh nói : Nhâm tí mộc mắc ở chỗ nhu mềm , hoặc phát dương nhân thì cao minh . Chú rằng : Nhâm tí mộc ở nơi vượng thủy , tí được ít dương khí mà sanh , nhu thoát dễ triết tức là mộc tự bại , nếu phát lên được thì khí hỏa thượng tăng ích mà khiến cho phồn vinh nên cao minh nhân nghĩa.
- Bản gốc thiếu Quý sửu .Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 11 Hội viên đã cảm ơn đến "AnhNgoc" về bài viết có ích này:
Ducminh (26-10-09),htruongdinh (22-10-09),Hungle64 (22-09-15),huyenphong (02-12-10),kimcuong (12-11-09),macchulan (25-04-11),ProCEO (28-04-10),sonthuy (22-10-09),thucnguyen (16-01-12),vocuc (22-10-09),VP (24-08-13)
-
Thông Ðiệp Huyền Diệu Từ Nước
By dhai06 in forum Xã Hội - Con NgườiTrả lời: 3Bài mới: 17-06-12, 10:25 -
Sách Tổ của Phong Thủy
By VinhL in forum Phong thủy IITrả lời: 17Bài mới: 18-10-11, 02:45 -
Xét nghiệm giá trị của huyền không.
By NhấtLụcTamBát in forum Phong Thủy ITrả lời: 7Bài mới: 04-08-11, 23:40 -
Thông Huyền Linh Kinh
By hoa mai in forum Phong Thủy ITrả lời: 1Bài mới: 21-03-11, 08:50 -
Nhạc cổ điển có giúp trẻ thông minh hơn
By dhai06 in forum Xã Hội - Con NgườiTrả lời: 0Bài mới: 31-07-10, 14:23