_ Luận nạp âm thủ tượng :
• Âm tức Hoàng đế tương nơi Giáp Tí phân khinh trọng mà phối thành 60 , có tên Hoa Giáp tí , chữ Hoa thật rất ảo diệu . Thánh nhân mượn ý mà dụ vậy , không nên chấp nê cái ý nầy . Từ Tí đến Hợi trong 12 cung rải đều Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ , ban đầu khởi ở Tí là nhứt dương và cuối cùng ở Hợi là lục âm , ngũ hành sở thuộc Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tại Thiên là ngũ hoàng , tại địa là ngũ nhạc , ở đức là ngũ thường , ở nhân là ngũ tạng , đó là mạng vậy , nên Giáp tí sở thuộc ứng mạng , mạng tức là việc cả một đời . Cho nên các tượng Giáp tí nạp âm là thánh nhân dụ vậy , cũng như các việc của đời người vậy . Vì sao gọi Tí Sửu là âm dương thai nghén, nhân tại bào thai mà vật tạng ở căn rễ chưa có hình thành , đến Dần Mảo thì âm dương bắt đầu mở dần , nhân cũng lần sanh trưởng , sự tinh hoa của vật cũng dần tạo ra như người bắt đầu lập thân vậy , qua Thìn Tỵ thì khí âm dương đã thành vật cho trái đẹp như người đến tuổi 30, 40 , dến Ngọ Mùi thì khí âm dương sáng rõ mà vật đã tề chỉnh và người thì đến 50 , 60 ; việc bần tiện phú quý đã định rõ , sự hung suy cũng biết rành , khi qua Thân Dậu thì âm dương tiêu sát vạt thì thâu thành người thì quy súc , mỗi đều tinh cả , đến Tuất Hợi thì âm dương bế tắc , khí vật trở về gốc , người cũng ngưng nghĩ , tất cả đều quy vậy . Nói qua về 12 vị ấy cứ lần lượt trước sau mà hiểu luc thập Giáp tí vậy .
• Sao mà tương cho Giáp Tí , Ất Sửu là Hải trung Kim , bởi khí ở bao tạng có tên mà không có hình , do người ở trong bụng mẹ vậy
Nhâm Dần , Quý Mão tuyệt địa , Kim khí thô sơ bạc nhược nên gọi là Kim bạc Kim .
Canh Thìn , Tân Tỵ là Kim ở đất Thổ Hỏa , khí đã phát sanh , Kim còn tại mỏ , nơi gởi hình để sanh dưỡng lại nhận chánh sắc ở phương Tây nên gọi là Bạch lạp Kim
Giáp Ngọ , Ất Mùi tức khí đã thành , vật chất đã tự chắc thật , cuộn nơi cát mà cũng biệt nơi cát , ở nơi Hỏa mà luyện cũng nơi Hỏa nên gọi là Sa trung Kim .
Nhâm Thân , Quý Dậu khí vật cực thạnh , đang lúc thâu liễm , thoát làm mủi nhọn như dao , do chánh vị là Thân Dậu lại đặt vào can Nhâm Quý tức Kim Thủy phối luyện để thành công dụng của Kim vậy , đến Tuất Hợi thì khí Kim tạng phục hình thể đã tàn , nung đúc trang điểm đã thành hình trạng , cát chứa trong lầu các không làm gì nữa nên công dụng của Kim đã hết do đó gọi Canh Tuất , Tân Hợi là Xoa xuyến Kim .
Sao Nhâm Tí , Quý Sửu lại dùng cái tượng như cây dâu ,bởi khí ở nơi quanh co hình trạng chưa thẳng và lại cư nơi đất Thủy , nhận khí dâu tàm theo thời mà sanh vậy .
Canh Dần , Tân Mão thì khí đã qua dương , được tài bồi cái thế lực mà tráng kiện chỉ nại ở dưới Kim , nhưng thường Kim có chất sương thì trở thành chắc chắn , Mộc cư ở đó thì thành vượng nên tánh cũng được kiên cố do đó gọi là Tùng bá Mộc .
Mậu Thìn , Kỷ Tỵ thì khí không thành lượng , vật đã đúng thời , cành lá tốt thịnh sầm uất mà thành rừng , lại lúc Mộc rất thạnh nên gọi là Đại lâm Mộc .
Nhâm Ngọ , Quý Mùi Mộc mà đến Ngọ thì tử , đến Mùi thì mộ cho nên dương liễu thanh mùa Hạ lá tàn , cây nhành có phần nhược nên tánh chất là nhu mềm bèn gọi là Dương liễu Mộc .
Canh Thân , Tân Dậu thuộc Kim ngũ hành mà nạp âm thuộc Mộc , lấy tương khắc mà dùng , bởi tánh mộc cay chỉ có nơi Thạch lựu , khí đến Thân Dậu thì tịnh túc , vật dần thành thực , do Mộc ở đất Kim có vị cay nên gọi là Thạch lựu Mộc vậy , xét thấy các Mộc khác đến Ngọ thì tử nhưng chỉ riêng Mộc này đến Ngọ lại vượng đó cũng do tánh mà khác vậy .
Mậu Tuất , Kỷ Hợi thì khí quy về tàng phục âm dương bế mộ ,khí mộc về gốc , nấp ở nơi Thổ cho nên gọi là Bình địa Mộc vậy .
Bính Tí , Đinh Sửu vì sao mà dùng tuong nhuận thủy , bởi khí chưa thông tế , chẳng phải nơi thủy lưu , có được nơi thấp thì thủy tụ cũng tùy theo đất mà thôi nên gọi là Nhuận hạ Thủy .
Giáp Dần , Ất Mảo khí dương xuất rõ , thế thủy nương ở gốc , lưu hành cuồn cuộn ở phương Đông cái thế rất mạnh nên gọi là Đại khê Thủy .
Nhâm Thìn , Quý tỵ thế mạnh ở Đông Nam tàng khí Ly cung , Hỏa thế sáng mạnh , Thủy được quy khố , vừa nhiều vừa lưu nên gọi là Trường lưu Thủy .
thay đổi nội dung bởi: AnhNgoc, 07-10-09 lúc 23:01
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số