Tên đăng nhập:
Bạn đã có tài khoản chưa?
Quên mật khẩu?
  • Đăng nhập / Ghi danh

    Trang 4/5 đầuđầu ... 2345 cuốicuối
    kết quả từ 31 tới 40 trên 44
      1. #31
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ mẫu:

        Ví dụ 146 (trong cuốn Giải Mã Tứ Trụ): Adolf Hitler sinh ngày 20/4/1889 lúc 6,00’ (?). Ta xét điểm hạn năm 1944.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6055/6284208813_0b5dcc019c_z.jpg[/img]

        Adolf Hitler đã làm lên chuyện kinh thiên động địa ắt hẳn ông ta phải có tứ trụ đặc biệt.

        Chúng ta xét các giờ của ngày sinh có can Bính là: Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, .... đến Kỷ Hợi, ta dễ nhận thấy giờ Tân Mão có khả năng đúng nhất. Bởi vì tứ trụ có Bính hợp với Tân là tướng nắm binh quyền, Thực và Thương sinh Tài thì “phú quý tự nhiên đến” thêm tam hội cục Dần Mão Thìn cho biết có cả thế giới hữu hình (người dương) và vô hình (người âm) giúp đỡ. Thực tế có rất nhiều câu chuyện nói về Hitler thoát chết một cách kỳ lạ mà chúng ta đã biết. Các yếu tố này đã đưa Adol Hitler nên đỉnh cao của quyền lực. Tất nhiên ông ta chỉ có thể phát quan ở các vận hỷ dụng thần là Đinh Mão (từ 6/1894 đến 6/1904), Bính Dần, Ất Sửu, Giáp Tý, còn đại vận Quý Hợi (từ tháng 6/1934 tới tháng 6/1944) là kỵ vận nhưng can Quý là kỵ thần hợp với Mậu trụ tháng, mà Mậu và Quý đều là kỵ thần nên từ vận xấu thành vận không xấu, và rất may cho Quý là Quan bị hợp cho nên Quan tránh được tai họa do gặp Thương quan Kỷ ở trụ năm. Do vậy vận này vẫn có thể phát quan.
        Đại vận Nhâm Tuất là kỵ vận nhưng Nhâm là Sát bị Mậu là (Thực) trụ tháng chế ngự thì đáng nhẽ đại vận này đúng với câu “Thực thần chế ngự Sát anh hùng áp đảo vạn người”. Nhưng đáng tiếc là Sát (Nhâm) vượng còn Thực (Mậu) nhập mộ, vì vậy Thực không thể chế ngự được kỵ thần Sát, còn thêm Thân nhược mà dụng thần Ất và Nhật can Bính đều nhập mộ ở đại vận Tuất nên đại vận này thành hung vận. Do vậy ở đại vận này ông ta dễ gặp tai họa về Quan và tuyệt mạng.

        146a - Ta xét đại vận Nhâm Tuất bắt đầu từ tháng 6/1944.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6224/6284730674_4572860811_z.jpg[/img]

        6/1944 là năm Giáp Tuất, nó bắt đầu thuộc đại vận Nhâm Tuất và tiểu vận Ất Mùi.
        1 - Mệnh này Thân nhược thực thương Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên lấy kiêu ấn là Ất tàng trong Mão trụ giờ.
        2 - Kỷ trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục, vì vậy ta phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, dụng thần không thay đổi.
        3 – Trụ tháng Mậu Thìn TKĐX với đại vận Nhâm Tuất có 0,25đh + 0,05đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
        .....................................
        Tổng số có 4,81đh (theo sơ đồ trên). Tam hội trong tứ trụ có 3 chi liền nhau và có 2 trụ của nó động, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 4,81.1/2đh = 2,41đh. Số điểm này chấp nhận được.
        ......................................

        146b - Điểm hạn ở tiểu vận Ất Mùi của năm 1945:
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6035/6284733590_4a1f84d19a_z.jpg[/img]

        1945 là năm Ất Dậu thuộc đại vận Nhâm Tuất, ta xét tiểu vận Ất Mùi .
        Trong tứ trụ có tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Ất lưu niên dẫn hóa) có -1,5đh và bán hợp của Dậu lưu niên với Sửu trụ năm hóa Kim có 1đh.

        Nếu sử dụng giả thiết 174/146 thì TKĐX và 2 hóa cục ở chi của nó có cùng hành với các chi đó cùng xuất hiện một lúc nên TKĐX phá được Kim cục nhưng vẫn còn hợp của nó và TKĐX không phá được tam hội cục. Vì vậy TKĐX không có điểm hạn. Tam hội Mộc có -1,5đh.

        Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra và ứng dụng giả thiết 187/146 thì tam hội cục không bị phá. Tổng số là 9,56đh (theo sơ đồ trên). Nếu sử dụng giả thiết 270/50 thì tổng số của các điểm được giảm ½ đh còn 9,56.1/2.đh = 4,78đh (vì tam hội cục có 3 trụ động). Số điểm này có thể chấp nhận được (vì người bại trận cũng giống như người bị phá sản).

        Nếu tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3 hay TKĐX không phá được Kim cục hoặc vẫn có điểm hạn TKĐX thì tổng điểm hạn quá cao là không thể chấp nhận được.

        Nếu 2 trụ TKĐX vào 1 hoặc 2 trụ của tam hội hóa cục mà phá được cục của nó thì tổng điểm hạn cũng là quá cao nên không thể chấp nhận được (vì trước ngày 20/4/1945 Adolf Hitler vẫn còn sống).

        146c - Điểm hạn ở tiểu vận Giáp Ngọ, 1945:
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6114/6284738172_63bff6d00b_z.jpg[/img]

        Nếu theo sơ đồ trên thì ở tiểu vận Giáp Ngọ có Tuất đại vận hợp với Ngọ tiểu vận hóa Hỏa có -0,5đh ....
        Tổng số là 8,21đh. Số điểm này được giảm ½ còn là 8,21.1/2 = 4,11đh. Điều này chứng tỏ cuối năm 1945 Hitler vẫn còn sống.

        146d - Điểm hạn ở năm 1946
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6039/6284220873_a43e0ef0d9_z.jpg[/img]


        1946 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Nhâm Tuất, tiểu vận Giáp Ngọ và Quý Tị. Ta xét tiểu vận Quý Tị (vì điểm hạn ở tiểu vận Giáp Ngọ là thấp, do Ngọ tiểu vận hợp với 2 Tuất của tuế vận).
        Tổng số có 9,57đh (theo sơ đồ trên và ứng dụng giả thiết 214a/47a;60). Tam hội trong tứ trụ có 3 trụ của nó động, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,57.1/2.đh = 4,79đh. Số điểm này chứng tỏ năm 1946 Adolf Hitler vẫn còn sống và theo tin đồn Adolf Hitler đã sống trên 80 tuổi ở Argentinien (?).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      2. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      3. #32
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ minh họa:

        Cập nhật 18/10/2011 06:22 :00 AM (GMT+7) Vietnam.net.

        Trùm phát xít Hitler chết già ở Argentina?
        Trùm phát xít Adolf Hitler không tự sát ở Berlin vào năm 1945 mà sống ở Argentina cho tới tận khi chết già năm 1962, một cuốn sách mới khẳng định.
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6231/6294073248_44f24c0714_z.jpg[/img]
        Adolf Hitler ném một cây gậy cho con chó Blondi của ông ta.

        Các tác giả của cuốn sách khẳng định họ tìm thấy "quá nhiều bằng chứng" cho thấy lãnh đạo Đức Quốc xã và người tình Eva Braun đã được đưa ra khỏi nước Đức bằng máy bay và tới Argentina.

        Hầu hết các sử gia đều cho rằng trùm phát xít chết trong boongke của ông ta ở Berlin năm 1945, Tuy nhiên, đồng tác giả Gerrard William, một nhà báo Anh, nói nghiên cứu của họ nghi ngờ điều này.

        Ông cho biết: "Không có bằng chứng pháp lý về cái chết của ông ta hoặc của Eva Braun và chuyện của các nhân chứng về sự sống sót của họ ở Argentina rất thuyết phục".

        "Chúng tôi không muốn viết lại lịch sử, nhưng chứng cứ chúng tôi phát hiện ra về sự tẩu thoát của Adolf Hitler là quá nhiều để mà bỏ qua", ông nói thêm.

        Cuốn sách có tựa đề "Sói sám: Sự tẩu thoát của Adolf Hitler" còn cáo buộc tình báo Mỹ đã cho nhà độc tài này chạy trốn để đổi lấy việc tiếp cận công nghệ chiến tranh của Đức Quốc xã.

        Cuốn sách mới cho rằng "các mảnh hộp sọ của Hitler" mà người Nga nắm giữ thực tế là của một người phụ nữ.

        Williams và đồng tác giả Simon Dunstan đã nghiên cứu các tài liệu mới được giải mật và các thử nghiệm pháp y.

        Thanh Hảo (Theo The Sun, Sky News)

        Xét điểm hạn năm 1962:
        [img]http://farm7.staticflickr.com/6114/6293554585_1667360d17_z.jpg[/img]

        1962 là năm Nhâm Dần thuộc đại vận Tân Dậu, tiểu vận Mậu Dần và Đinh Sửu. Ta xét tiểu vận Đinh Sửu (vì tiểu vận Mậu Dần có tổng điểm hạn thấp).
        1 – Vào đại vận Tân Dậu có Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ và Tân đại vận, Dậu đại vận hợp với Sửu trụ năm hóa Kim.
        Đến năm Nhâm Dần và tiểu vận Đinh Sửu có :
        Tam hội Dần Mão Thìn trong Tứ Trụ hợp với Dần thái tuế không hóa.
        Nhâm lưu niên hợp với Đinh tiểu vận không hóa được Mộc mặc dù có Dần thái tuế động có khả năng dẫn hóa (vì Kim cục có trước ngăn cản).
        ..........
        Tổng điểm hạn quá thấp không thể chấp nhận được.

        Nếu Adolf Hitler thật sự chết vào năm 1962 thì để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

        “Bán hợp hay lục hợp chỉ có 2 can-chi là chủ khắc có trước không thể cản được các hóa cục bị khắc có tổng cộng ít nhất 6 can-chi cùng xuất hiện có sau (trừ hóa cục chỉ có các chi trong Tứ Trụ)”.

        Nếu sử dụng giả thiết này thì lục hợp và tam hội cục có tổng cộng 6 can-chi cùng hóa Mộc.
        Vì trong Tứ Trụ có Sửu và Thìn hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Mộc có 9,9đv được thêm 2,56đv của Thìn trụ tháng thành 12,46đv. Thổ có 16,17đv bị giảm 2,56đv còn 11,06đv. Ta thấy Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân, vì vậy Thân có 12,46.1/2 đv + 8đv = 14,23đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Sửu trụ tháng. Vì Hỏa là kỵ 1 động (Bính hợp với tuế vận) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 12,46đv được thêm 2.9đv của Dần thái tuế, 2.4,8đv của Nhâm lưu niên và 3đv của Đinh tiểu vận thành 43,06đv. Kim có 4,55đv được thêm 5,73đv của Dậu đại vận và 4,1đv Tân đại vận thành 14,38đv. Mộc trở thành kỵ 1 và là kỵ vượng. Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng được tăng 2 lần. Kim cục và Mộc cục đã gây ra Đại Chiến có (0,2.7 + 0,1)đh = 1,5đh. Kim cục có 1đh và lục hợp Mộc cục có 0,5đh còn tam hội cục có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đh. Nhâm và Dần lưu niên mỗi can-chi có 2.0,5đh kỵ vượng, còn Đinh tiểu vận có 2.0,5đh kỵ vượng.
        ..............................
        Tổng số là 7,79.1/2 đh = 3,9đh (vì tam hội có 3 chi liền nhau trong Tứ Trụ và có 2 trụ động). Số điểm này là không thể chấp nhận được.

        Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp ra giả thiết :

        “149a/ - Nếu ĐC được gây ra bởi hóa cục chủ khắc là hỷ dụng thần với các hóa cục có cùng hành trong đó có tam hội cục có thái tuế và hành của tam hội cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên (đòi hỏi thái tuế khi hóa cục không được thay đổi hành (?)) thì điểm hạn cho mỗi can-chi tham chiến là 0,35đh nếu hóa cục bị khắc (hành của tam hội cục) có số can-chi nhiều hơn 1 can-chi so với tổng số can-chi của hóa cục chủ khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can-chi, 0,45đh nếu nó nhiều hơn 3 can-chi, 0,5đh nếu nó nhiều hơn 4 can-chi, 0,55đh... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này)”.

        Loại ĐC này là một dạng tương tự như ĐC-1.

        Nếu sử dụng giả thiết này thì Đại chiến có (0,5.7 + 0,25)đh = 3,75đh. Tổng số là 10,04.1/2 đh = 5,02đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Ta thấy nếu năm 1962 mà Adolf Hitler không chết thì cái chết khó mà với tới được ông ta. Bởi vì trong Tứ Trụ có tới 5 can-chi trong các tổ hợp (nó giảm được rất nhiều các điểm hạn bởi hình, xung, khắc, hại...), còn thêm tam hội có 3 chi liền nhau (giảm được tới 50% tổng điểm hạn). Vận Bính Tuất là một hung vận có dụng thần và Nhật can đều nhập Mộ ở đại vận và cùng tử tuyệt tại nhiều năm của lưu niên, cộng thêm có 2 trụ TKĐX với tam hội mà còn không phá được tam hội... nên ông ta đã may mắn thoát chết (vì TKĐX vào đúng năm Ất Dậu, tam hội đã kịp hóa cục nên không nhằm nhò gì khi chỉ có 2 trụ TKĐX) huống hồ về sau không có đại vận nào có 2 trụ TKĐX với tam hội cả và dụng thần, Nhật can không nhập Mộ....

        Năm 1962 có tam hội cục mà tam hội cục này có thái tuế mà hành của nó cùng hành với hành của can chi lưu niên. Điều này cho biết các vị thần đã xuất hiện để đón Adolf Hitler đi, tương tự như họ đã xuất hiện để đón con tầu Titanic đi là rất hợp lý, có thể tin được (?).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      4. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      5. #33
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Bài 28 : Tiếp tục đi tìm các giả thiết mới

        Dương Chấn Ninh nhà Noben về Vật Lý (TQ) đã viết:

        “Nếu nói tôi có một quan điểm có tính cách mạng nào, thì đó là tôi đã vạch ra vết thương chí mạng ấy. Cho nên người ta không thích... Phương Tây có thái độ đối với học thuật khác với TQ: Người TQ quá tôn sư trọng đạo. Tiền nhân nói gì, Khổng Tử, Mạnh Tử nói gì thì không được bình luận mà phải coi là tuyệt đối đúng. Lời thầy giáo cũng tuyệt đối đúng... Thái độ ấy quá ư thâm căn cố đế...”.

        Và trong diễn văn của tỷ phú Steve Jobs tại ĐH Stanford năm 2005, có đoạn viết:

        “....Thời gian của các bạn là có giới hạn, vì thế đừng phí phạm thời gian do sống bởi đời sống của kẻ khác. Ðừng bị mắc kẹt trong những điều giáo lý vốn [chỉ] sống với các kết quả suy nghĩ của người khác. Ðừng để sự ồn ào của những ý kiến, quan điểm của người khác dìm chết tiếng nói trong tâm hồn, con tim và trực giác của chính bạn. Bằng cách nào đó, chúng đã biết bạn thực sự muốn trở thành cái gì. Tất cả những cái khác chỉ là thứ yếu…“.

        Nên tôi tạm thời dừng lại không giới thiệu tiếp “Phần Mở rộng“ như đã dự kiến mà tiếp tục Bài 28 có chủ đề này để mọi người có thể hiểu rõ phương pháp nghiên cứu của tôi đã được trình bầy qua 27 bài trên.

        Ví dụ 1 :

        Chủ đề : “Giải mã cái chết Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ dưới góc nhìn Tứ Trụ Mệnh Lý“ của GIANGHA trong mục “Xem Tứ Trụ“ bên trang web “Tuvisaigon.com“ đã viết :

        “Cái chết của Tây Sở Bá Vương Hạng Võ được nhiều người nhắc đến trong mệnh lý học Tử vi với câu phú nổi tiếng “ Hạng Võ anh hùng, ngộ Thiên Không táng quốc,Thạch Sùng hào phú, phùng Địa Kiếp vong gia”. Câu phú trên là đúng hay sai đối với cái chết của Tây Sở Bá Vương theo góc nhìn của khoa Tử vi, tôi sẽ phân tích về phần này ở một bài viết khác. Hôm nay tôi muốn phân tích cái chết của Hạng Võ dưới góc nhìn của khoa Tứ Trụ.

        Đương số: HẠNG VŨ
        Giới tính: Nam

        CÀN TẠO: ĐINH MÃO- KỶ DẬU- BÍNH TUẤT- TÂN MÃO

        Phân tích mệnh cục:
        ..................

        SƠ LUẬN
        Mệnh cách;
        Mệnh cách thân nhược, gặp can hợp chi hợp, vừa hại vừa xung, nên con người không bình thường. Người có khả năng lãnh đạo, chí lớn, có cái uy dũng của bậc vạn phu bất địch nhưng cũng sẽ vì cái uy dũng đó mà hại thân (mệnh có Bạch Hổ xung Tướng Tinh).
        Là người không được hưởng phúc ấm của tổ tiên, phúc bạc, phá bại tổ nghiệp (Kiếp đóng trụ năm, lệnh tháng bị xung). Thân nhược, lại Thực thương nhiều và vượng, nên số đoản thọ.

        Sự nghiệp:
        Thực Vận
        (8-17 tuổi):
        Nằm trong vận Thực Thần là kỵ vận của bản mệnh. Nên cha mất sớm, bản thân phải về sống với người chú là Hạng Lương. Học chữ cũng không thông, đòi học kiếm cung, học kiếm cung cũng chẳng ra hồn.
        Sau khi Hạng Lương giết chết người, 2 chú cháu bèn cùng nhau chốn đến đất Ngô Trung.

        Kiếp Vận (18-27 tuổi):

        Năm Canh Dần (209 TCN): Hạng Vũ và chú lập mưu giết chết Thái thú quận Cối Kê. Hạng Lương tự xưng làm thái thú Cối Kê, Hạng Vũ làm kì tướng, chiêu hàng các huyện trong quận.

        Năm Tân Mão (208 TCN): Cùng với Lưu Bang sát cánh đánh quân Tần.

        Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm nhưng một sự kiện làm ai cũng rùng rợn là Hạng Vũ cho chôn sống hơn 20 vạn lính Tần ở phía tây thành Tây An.

        Tỷ vận (28-37 tuổi):

        Đây là hỉ dụng thần, do đại vận Bính Ngọ, hỏa quá đầy đủ, lẽ ra Hạng Võ sẽ thống nhất được Trung Hoa và đánh bại Lưu Bang nếu như trong đại hạn này không gặp Không Vong. Hỉ thần gặp Không Vong thì sẽ trở thành Kỵ Thần, ngược lại hung thần gặp Không Vong thì tốt lại nhiều hơn xấu. Vận trình này Hạng Võ lần lượt thất bại liên tiếp: mất Mất Tam Tần, Sa lầy ở nước Tề, mất đất phía tây, Tây tiến thất bại, Mắc lừa mất Phạm Tăng, Hạ thành Huỳnh Dương, truy kích Thành Cao, Trận Cai Hạ.

        Anh hùng mạc vận

        .........................

        Sau đây là bài luận của tôi:

        Qua tiểu sử về Hạng Vũ trong đại vận Đinh Mùi (tức Kiếp vận):

        “Kiếp Vận (18-27 tuổi):

        Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm“.

        Và đại vận Bính Ngọ (tức Tỷ vận) :

        “Tỷ vận (28-37 tuổi):

        Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm“.

        Chúng ta nhận thấy 2 đại vận này hoàn toàn trái ngược nhau nên mặc dù cùng là hành Hỏa (Bính và Đinh) nhưng đại vận Bính Ngọ không thể là hỷ hay dụng thần được mà nó phải là kỵ vận thì mới đúng theo thực tế đã xẩy ra của người này (vì toàn bị thất bại liên tiếp, dồn dập …., nó hoàn toàn khác với đại vận Đinh Mùi liên tiếp thành công). Điều này đủ để ta khẳng định Thân của Tứ Trụ này vào đại vận Bính Ngọ không còn là nhược nữa mà phải là vượng thì đại vận Bính Ngọ mới trở thành kỵ thần.

        Một điều vô cùng hợp lý là vào đại vận Bính Ngọ chỉ có Thân vượng thì Bính đại vận là Tỷ Kiếp hợp và khắc Tân là Tài trong Tứ Trụ mới thể hiện sự tranh đoạt Tài với Thân. Điều này phù hợp với thực tế của ví dụ này là vì Tài ở đây đại diện cho đất đai, lãnh thổ, tài nguyên, con người… của Hạng Vũ dần dần bị mất vào tay đối phương là Lưu Bang (Tỷ Kiếp).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      6. #34
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        (Tiếp)
        1 - Sơ đồ tính điểm hạn năm Mậu Tuất:
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7018/6406687563_0eb3ce9ac1_z.jpg[/img]

        Năm Mậu Tuất thuộc đại vận Bính Ngọ, tiểu vận Canh Thân và Kỷ Mùi.
        1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Tài tinh là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Đinh ở trụ năm.
        2 – Trong Tứ Trụ có Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ không hóa.
        Vào đại vận Bính Ngọ và năm Mậu Tuất có:
        Bính đại vận cùng Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ.
        Lực hợp của Tuất trụ ngày và Tuất thái tuế với 2 Mão nhỏ hơn lực xung của Dậu trụ tháng với 2 Mão nên 2 Tuất không hợp được với 2 Mão, vì vậy mà Ngọ đại vận hợp được với 2 Tuất hóa Hỏa.
        Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì Hỏa là dụng thần nên Hỏa cục và Bính đại vận có điểm hạn âm cũng như không có các điểm hạn kỵ vượng của Hỏa nên tổng điểm hạn là rất thấp không thể chấp nhận được. Nhưng xem lại các giả thiết đã có thì trường hợp này không thuộc vào các trường hợp phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Từ đây ta có thể nghĩ ngay ra rằng: Có thể đây là một trường hợp mới về tính lại điểm vượng trong vùng tâm chăng? Nhìn vào sơ đồ ta thấy Nhật can là Bính lại vào đại vận Bính Ngọ là vận Kình Dương lại còn Kình dương hóa cục Kình Dương nên Hỏa khá mạnh có thể Thân đã trở thành vượng là có lý.

        Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết như sau:

        “6a/ - Nếu can chi của đại vận cùng hành mà chi đại vận là Kình Dương hợp với chi trong Tứ Trụ hóa cục Kình Dương thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại chỉ khi can đại vận hợp với can trong Tứ Trụ (?)“.

        Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng của Hỏa chỉ được thêm 2đv của Tuất trụ ngày và 3đv của Bính ở đại vận nên Thân vẫn nhược (vì Hỏa chỉ có 11,6đv vẫn nhỏ hơn Kim có 11,76đv). Do vậy ta phải bổ sung thêm vào giả thiết 13a/ như sau :

        13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, số điểm này được tính như sau :
        1 - Với chi của lưu niên (thái tuế) thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197).
        2 - Với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212).
        3 - Với can đại vận thì số điểm này bằng chính điểm vượng của nó ở lưu niên, trừ khi nó hợp với can trong Tứ Trụ mà chi đại vận là Kình Dương lại hợp hóa cục Kình Dương thì điểm vượng của nó ở lưu niên được tính tương tự như của chi đại vận hay chi tiểu vận (vì trường hợp này can đại vận chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi chi đại vận).

        Nếu sử dụng điều bổ sung này thì Bính đại vận có (10 + 2.3)1/2 đv = 5,33đv. Thân trở thành vượng (vì nó có 6,6 + 2 + 5,33 = 13,93đv) mà Kiêu Ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/ Kỷ ở trụ tháng. Ở đây ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có thêm 5,33đv của Ngọ đại vận và 2.3đv của Tuất thái tuế thành 25,26đv. Do vậy Hỏa là kỵ vượng.

        Theo sơ đồ trên thì tổng điểm hạn là 6,65đv. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Từ trước tới nay hầu như chưa có một cuốn sách nào hay một người nào đả động tới khái niệm “Thân có thể thay đổi“ mà chỉ thấy nói “dụng thần có thể thay đổi“, cho nên gặp các ví dụ như trường hợp này người luận thường phải “Gọt Chân Cho Vừa Giầy“. Cụ thể như bài luận trên, người luận chỉ còn bấu víu vào can chi lưu niên là Thực Thương, Ngọ đại vận và Mùi tiểu vận là Không Vong mà thôi. Nhưng Tuất thái tuế và Ngọ đại vận đã hóa Hỏa là dụng thần thì họ lại giả bộ như không nhìn thấy. Bởi vì nếu nhìn thấy thì chả nhẽ Hỏa cục này không đủ bù vào phần hao hụt do Thân bị xì hơi bởi Mậu hay sao ? Nhưng thực tế Mậu lưu niên và Kỷ trong Tứ Trụ đều ở trạng thái tĩnh (còn Tuất thái tuế đã hóa Hỏa) nên khả năng xì hơi Thân của chúng coi như là không đáng kể. Còn Không Vong thì có giá trị gì khi nó bị hợp ? Mùi ở tiểu vận là Không Vong thì phá được cái gì ở đây ngoài giá trị là có 0,13đh ?

        Theo tôi Không Vong chỉ có khả năng làm mất tính chất tốt xấu của các thần sát chứ nó không thể làm mất tính chất hỷ hay kỵ của các hành được, cũng như nó chỉ có tác dụng tốt hay xấu tại trụ mà nó đóng. Không Vong cũng như các thần sát và các khái niệm khác trong Tử Bình (như can, chi, tổ hợp, hóa cục, thiên khắc địa xung, nạp âm, hình, hại ....) đều có mặt mạnh và mặt yếu của chúng. Có lúc chúng mạnh có lúc chúng thành vô dụng.... nhưng điều này hình như chưa có sách nào nói tới thì phải (mà giả dụ có nói thì người luận cũng giả bộ không nhìn thấy như trên tôi đã viết). Cho nên kể cả các sách được cho là Kinh Điển vẫn thường thấy sử dụng các Tuyệt Chiêu “Gọt Chân Cho Vừa Giầy“ để luận, chắc họ cố tình tung hỏa mù để giấu Bí Kíp chăng?

        2 - Sơ đồ tính điểm hạn năm Giáp Ngọ:
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7035/6406691757_3ac56a3c22_z.jpg[/img]

        Năm Giáp Ngọ thuộc đại vận Bính Nggo, tiểu vận Giáp Tý và Quý Hợi.
        1 – Nếu sử dụng điều bổ xung trên thì các năm thuộc đại vận Bính Ngọ là Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu và Mậu Tuất thường phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và Thân thường là vượng, dụng thần thường là Kỷ ở trụ tháng (một vài trường hợp ngoại lệ như ở tiểu vận Giáp Tý này có Tý xung 2 Ngọ nên bán hợp của Ngọ bị phá, vì vậy ở tiểu vận này không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm).
        2 - .............

        Theo sơ đồ trên thì tổng điểm hạn là 8,62. Nếu như không tính tới các yếu tố bên ngoài tác động vào mệnh của người này (vì chúng có thể làm cho số điểm này thay đổi) thì số điểm này là quá cao không thể chấp nhận được

        Do vậy để phù hợp với thực tế của trường hợp này ta phải đưa ra giả thiết :

        280a/ - Nếu các can chi của tuế vận đều hợp với can chi trong Tứ Trụ mà các tổ hợp này có tổng cộng ít nhất 8 can-chi thì tổng điểm hạn được giảm ít nhất giữa 2 mức 5/12 và ½ (hay ½ ?) chỉ khi chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành (vì ở đây không những chỉ có can chi lưu niên đều hợp với can chi trong Tứ Trụ báo hiệu có tin mừng mà còn thêm can chi đại vận cũng vậy nên giả thiết tổng điểm hạn được giảm có một chút hợp lý).

        Nếu sử dụng giả thiết này thì tổng điểm hạn còn 8,62(7/12 + ½).1/2 đh = 4,67đh. Số điểm này có thể là chấp nhận được nếu năm Giáp Ngọ Hạng Vũ thất trận để mất đất..., còn nếu năm Giáp Ngọ Hạng Vũ không bị thất trận thì tổng điểm hạn của giả thiết này phải được giảm 1/2 còn 8,62.1/2 đh = 4,3đh.

        Tất cả các giả thiết được đưa ra trong ví dụ này đều có phần nào hợp lý cho dù là ít hay nhiều. Những giả thiết này sẽ được kiểm tra trong những ví dụ tương tự và thường thường chúng được hiệu chỉnh cho ngày càng chính xác, còn nếu thấy sai nhiều thì cần loại bỏ để tìm ra những giả thiết khác có tính thuyết phục hơn.

        Phương pháp nghiên cứu này liệu có đúng với lời khuyên của nhà Noben Vật Lý Dương Chấn Ninh và nhà tỷ phú Steve Jobs ở trên hay không ?
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      7. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      8. #35
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ 2 : Chủ đề : “Đương số liệu có tuyệt mạng năm 2013 ?" của Dunghoa trong mục Tử Bình bên trang Web "Tuvilyso.org" :

        “Chào các bác,

        Dunghoa có một người bạn hiện đang phải chạy thận 1 tuần 3 lần kể từ khi bắt đầu phát hiện bệnh năm 2010. Dunghoa thấy đại hạn này xấu, năm 2013 xấu nhưng không biết năm 2013 liệu có xảy ra sự cố trầm trọng cho bạn dunghoa không nên mong mọi người góp ý, và xin cho biết đương số có qua được đại hạn này không, cách hóa giải nếu có.

        Sơ lược về đương số:
        Cao hơn 1.7m, nước da bình thường không trắng không đen, trước kia to béo giờ rất gầy.
        Hồi nhỏ và khi lớn nhiều lần gặp tai nạn nặng nhưng không chết, phải khâu mặt, khâu đầu. Mắt phải bị lác.
        Bố đã mất khoảng gần 10 năm, mẹ ở nước ngoài. Có anh em dị bào. Năm 2008 lấy vợ, năm 2009 ly hôn, năm 2010 suy thận. Tình duyên cũng trắc trở không thành vài lần trước khi cưới. Chưa có con.
        Công danh lận đận, hồi bé rất vất vả khó khăn, lớn lên mới được mẹ trợ cấp thêm kinh tế.
        Dunghoa xin cảm ơn, ".

        Sau đây là bài luận của tôi:

        Sơ đồ tính điểm hạn năm 2010 :
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7004/6510398205_673fd2d0d9_z.jpg[/img]

        2010 là năm Canh Dần thuộc đại vận Ất Tị, tiểu vận Đinh Sửu và Bính Tý.
        1 - Tứ Trụ này có Thân quá vượng mà Kiêu Ấn không có nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ (vì nó vượng hơn Canh lộ ở trụ giờ).
        2 – Trong Tứ Trụ có 2 Tị hợp với Thân là tranh hợp giả không hóa (vì 3 cho đều ở trong Tứ Trụ hoặc 2 Tị là chủ khắc nhưng mang dấu âm nên thuộc phái nữ).
        Vào đại vận Ất Tị và năm Canh Dần có :
        Canh trụ giờ và Canh lưu niên hợp với Ất đại vận.
        Lục hợp của 3 Tị với Thân trụ tháng không hóa (vì lực xung của Dần thái tuế với Thân trụ tháng chỉ có 9đv là nhỏ hơn lực hợp của 3 Tị với Thân trụ tháng có (5,33 + 2.5,75)đv = 10,83đv).
        3 - Dụng thần Tân nhược ở lưu niên nên có 0đh.
        4 - Nhật can Đinh tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
        5 – Canh trụ giờ được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh.
        Canh lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có -0,5đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh.
        Do vậy Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động nhưng bị giảm 2 lần 25% do 2 Canh khắc nên còn 0,5.0,75.0,75 đh = 0,28đh.
        Sửu tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh.
        Dần thái tuế có 3 hung thần nên có 3.0,25đh.
        6 - Lực hợp của 3 Tị với Thân không hóa nên Tị đại vận hình Thân trụ tháng có 1đh, khi đó Tị trụ năm và Tị trụ ngày mới hình được Thân, mỗi lực có 0,5đh.
        7 - Đất dịch chuyển trụ tháng có Mậu vượng ở lưu niên nên khắc Lửa ngọn đèn đại vận có 1đh.

        Tổng số là 5,66đh. Với trường hợp này nếu không có các yếu tố bên ngoài tác động cũng như không thể BÓI ra được một giả thiết nào để làm cho tổng điểm hạn được giảm thì cách duy nhất còn lại là chúng ta có quyền nghi ngờ dụng thần có thể đã xác định sai.
        Ta thấy Thân quá vượng (Thân lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương trên 20đv) trong khi Kiêu Ấn không có nên dụng thần đầu tiên không thể là Tài tinh được mà phải là Thực Thương (trừ khi Thực Thương nhiều mới đủ sức hóa Thân sinh cho Tài thì Tài mới không bị tổn thương). Điều này có logic, vì vậy ta đưa ra giả thiết :

        1 - "Nếu Thân lớn hơn Tài, Thực Thương và Quan Sát ít nhất 20đv mà Kiêu Ấn không có thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương chỉ khi Thực Thương không nhiều".

        Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Canh Dần khi Thực Thương là dụng thần :
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7149/6510414075_65d5bde625_z.jpg[/img]

        Nếu áp dụng giả thiết vừa đưa ra thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thượng/ Mậu ở trụ tháng.
        Theo như sơ đồ trên thì tổng số là 4,94đh. Số điểm này là hơi cao.
        Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp ra giả thiết :

        2 - "Nếu can chi của tiểu vận đều nhập Mộ ở tiểu vận thì các thần sát ở chi tiểu vận không có điểm hạn".
        (Vì nhìn đi nhìn lại chỉ có thông tin này là phù hợp.)

        Nếu áp dụng giả thiết này thì Không Vong ở Sửu tiểu vận không có điểm hạn nên tổng số chỉ là 4,81đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Qua ví dụ này chúng ta đã tìm thêm được 2 giả thiết mới. Hy vọng 2 giả thiết này sẽ trở thành các quy tắc chính thức (hiện giờ tôi mới kiểm tra được giả thiết thứ 2 này trong 216 ví dụ mẫu trong sách của tôi, nó đã làm cho tổng số điểm của các ví dụ mẫu này càng thêm chính xác).
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      9. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      10. #36
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ 3 : Tìm cách giải cứu

        Tsunami trong chủ đề : "Nghiệm lý: Một việc rất quan trọng xảy ra với người này trong năm 2011" trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org đã viết :

        "Thưa các cô chú, anh chị trên diễn đàn. Em có đứa em họ, năm nay tầm cuối tháng 9 dương lịch có 1 sự kiện rất lớn xảy ra với nó. Em đưa lá số của nó lên đây để mọi người nghiệm lý.
        Sự kiện gì thì em sẽ cung cấp sau. Rất mong các thành viên mạnh dạn cho ý kiến ạ.
        Lá số của nó đây ạ:
        Nam mệnh : Giáp Tuất - Ất Hợi – ngày Giáp Thìn – Đinh Mão
        .................................................. ..............
        Em chưa thấy cao thủ nào luận rõ ràng cả. Thôi em đưa đáp án để cả nhà luận xem tại sao lại xảy ra vậy và bộ sao nào dẫn tới kết cục đó.
        Đầu tháng 9 âm, chú em em bị tai nạn xe máy, bất tỉnh 1 tuần trong viện, sau đó thì mất.
        Xin nói thêm là trong gia đình nhà này thì có nhiều người chết trẻ, có người chú ruột định sang cát mấy lần nhưng không được vì cứ dự định sang cát thì năm đó trong gia đình lại có người mất, lại phải hoãn. Năm nay cũng thế, nhưng trong lúc thằng em em đang nằm bất tỉnh (chắc chắn sẽ ra đi, khi nào rút ống thở thì nó sẽ đi) thì gia đình quyết định sang cát cho ông chú. Xong xuôi rồi thì rút ống thở, đưa được thằng em từ viện về đến nhà thì nó mất.
        Em biết là việc cũng đã rồi, gia đình em ai cũng buồn nhưng sau 1 thời gian vẫn cố gạn hỏi chú xem em sinh giờ nào để nghiệm lý lá số.
        Mong các bậc cao thủ cho ý kiến ạ".

        Sau đây là bài luận của tôi :
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7174/6594498651_862b166aa5_z.jpg[/img]

        Tháng 9/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Bính Tý và tiểu vận Giáp Thân.
        1 – Thân vượng mà Kiêu Ấn / Hợi ở lệnh tháng có 6đ v trong vùng tâm nên được xem là Kiêu Ấn đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/ Đinh ở trụ giờ.
        2 – Vào đại vận Bính Tý và năm Tân Mão ta thấy Bính đại vận hợp với Tân lưu niên hóa Thủy, vì vậy Thìn trụ ngày hợp với Tý đại vận mới hóa được Thủy (vì lực hợp của Thân tiểu vận với Tý đại vận chỉ có 3,73đv là nhỏ hơn lực hợp của Thìn trụ ngày với Tý đại vận có 4,8đv. Cũng như lực xung của Tuất trụ năm với Thìn trụ ngày quá nhỏ (vì Tuất phải hợp với 2 Mão và xung cách ngôi 4,8.1/3.2/3= 1,6đv, chưa kể Tuất phải khắc Hợi trụ tháng - giảm thêm ¾ đv) so với lực hợp của Tý đại vận với Thìn là 5,33.1/2=2,67đv, vì Tý phải hợp với Thân tiểu vận).
        Hợi trụ tháng hợp với Mão thái tuế hóa Mộc (vì lực hợp của Hợi với Mão có 7,75.1/2= 3,88đv là lớn hơn lực hợp của Tuất trụ năm với Mão chỉ có 4,8.1/2= 2,4đv (vì Hợi và Tuất đều phải hợp với Mão trụ giờ).
        Ta thấy Hợi và Thìn trong Tứ Trụ hợp với tuế vận đều hóa cục có hành khác với hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 1,24đv bị mất 0,74đv của Thìn trụ ngày còn 0,5đv. Thủy có 6đv bị mất 6đv của Hợi trụ tháng nhưng được thêm 0,74đv của Thìn trụ ngày thành 0,74đv.
        Ta thấy Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Tuất trụ năm. Hành Mộc là kỵ vượng và các điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì Mộc lớn hơn hỷ dụng thần trên 20đv). Do vậy Mộc cục có 0,5đh, Mão thái tuế có 2.0,5đh kỵ vượng. Mỗi Thủy cục có 1đh và mỗi Thủy cục sinh cho Mộc cục có 2.0,3đv = 0,6đh (vì hành Mộc chỉ có 0,5đh).
        3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
        4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh.
        5 – Giáp tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh.
        6 - Lửa đỉnh núi ở trụ năm và trụ tháng có Giáp và Ất đều vượng ở lưu niên khắc nước khe đại vận, mỗi lực có 0,5đh.

        Tổng số là 5,44đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (nếu sinh vào các giờ Bính Dần hay Mậu Thìn thì tổng số các điểm hạn là quá thấp không thể chấp nhận được).

        (Không cần biết "Âm Dương ngũ hành tứ thời luận" là gì cả, mọi người cứ áp dụng các Giả Thiết đã có của tôi sẽ tìm ra 5,44đh này. Số điểm hạn này cho biết người này có hạn rất nặng vào năm 2011. Vậy thì "Phương Pháp tính Điểm Hạn" của tôi có đủ để chứng minh môn Tử Bình là một môn Khoa Học giống như các môn khoa học của phương tây 1 + 1 = 2 hay không ?)

        Điều bất ngờ đầu tiên là : Tai họa này chủ yếu do điểm hạn của hành Thủy và Mộc gây ra mà không có can chi, đại chiến xung khắc nhau thì thường ứng vào bệnh tật có liên quan tới Thủy và Mộc. Ở đây Mộc quá vượng lại còn được Thủy vượng sinh cho nên dễ bị các bệnh về gan hay thần kinh, đầu .... nhưng tại sao lại là tai nạn giao thông, có thể do tháng Đinh Dậu (tháng 9) đã thiên khắc địa xung với lưu niên Tân Mão gây ra chăng ?

        Điều bất ngờ thứ 2 là : Vào mùa Thu Kim đang vượng còn Mộc đang hưu tù tử tuyệt nên nó không thể nhận được 2.0,6đh của 2 Thủy cục sinh cho. Vậy mà tổng số chỉ có (5,44 – 1,2)đh = 4,24đh mà tai họa vẫn xẩy ra. Tại sao lại như vậy ?
        Điều này chứng tỏ Mộc ở trạng thái Thai ở tháng Dậu nó đã nhận được phần lớn số điểm này và dĩ nhiên tới tháng Hợi, Mộc bắt đầu ở trạng thái trường sinh nó sẽ nhận được tất cả số điểm này.
        Nhưng nếu vậy thì tiểu vận Giáp Thân từ ngày 4/2 tới 14/11 có tháng Dần và Mão Mộc cực vượng, còn tháng Thìn và Tị Mộc hưu tù, vậy thì tại sao tai họa không xẩy ra ? Có thể khi đó mặc dù Mộc có thể nhận được sự sinh từ Thủy nhưng Thủy lại đang ở trạng thái hưu tù tử tuyệt nên Thủy không thể sinh được cho Mộc (?).

        Nếu các điều suy luận này là đúng thì liệu chúng ta có thể tìm ra các cách để giải cứu cho những người có cùng Tứ Trụ này được không ?

        Dĩ nhiên nếu chúng ta biết được môi trường và hoàn cảnh của những người có cùng Tứ Trụ này đang còn sống (vì không bị tai họa hoặc bị rất nhẹ) thì chúng ta dễ dàng tìm ra các nguyên nhân đã làm cho tổng điểm hạn được giảm. Đó chính là các cách để giải cứu mà bây giờ chúng ta đành phải mò mẫm đi tìm.


        Hiện nay trên thế giới có 7 tỷ người. Cho nên một điều chắc chắn rằng sẽ có trên (13.1/2 =) 6,5 nghìn người nam có cùng Tứ Trụ này (trên 13 nghìn người nếu kể cả nam và nữ) nhưng không thể tất cả đều gặp tai họa nặng và chết như người này. Do vậy tôi hy vọng mọi người cùng tham gia tìm các cách giải cứu mà những người may mắn không chết do được các yếu tố âm dương ngũ hành bên ngoài tác động vào âm dương ngũ hành trong Tứ Trụ của những người này làm cho tổng điểm hạn được giảm.
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      11. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      12. #37
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        (Tiếp)
        Trong tất cả các trường phái Tử Bình từ trước tới nay thì chỉ có trường phái của cụ Thiệu mới đưa ra và áp dụng quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“. Chính quy tắc này là nền tảng để xây dựng nên “Phương pháp tính điểm hạn“ của tôi. Do vậy với sơ đồ trên thì không có chuyện Đinh trụ giờ là Thương quan gặp được Tân ở lưu niên là Quan (vì Tân đã bị hợp hóa cục) và cũng không thể có chuyện Mão trụ giờ và Mão thái tuế cùng Thìn trụ ngày hại được với nhau (vì Thìn đã bị hợp và hóa cục), hay cũng không thể có chuyện Tý đại vận và 2 Mão hình được với nhau (vì Tý đã hợp hóa cục). Trong khi các sách cho là Kinh Điển như: “Trích Thiên Tủy“, “Tử Bình Chân Thuyên“,… cũng như các sách mới xuất hiện gần đây như : “Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa“ của Hoàng Đại Lục hay các sách về “Manh Phái“ của Đoàn Kiến Nghiệp, …. đều bác bỏ quy tắc này, thậm chí họ còn không có một quy tắc rõ ràng nào cả về tranh hợp giữa các tổ hợp như: lục hợp, bán hợp, tam hợp và tam hội. Khi 2 hay 3 tổ hợp này cùng xuất hiện thì họ thích cho tổ hợp nào được tạo thành thì họ cho, miễn là phù hợp ý muốn của họ (cụ thể như các sách về “Manh Phái“ của Đoàn Kiến Nghiệp). Một điều cần nói thêm nữa là hầu như họ cũng không quan tâm lắm tới độ vượng suy của các can chi đang luận phải phụ thuộc vào lưu niên đó (tại thái tuế - tức chi của lưu niên) thì phải (?).

        Cho nên để đi tìm cách giải cứu cho ví dụ trên theo trường phái của cụ Thiệu, ta thấy không hề có các điểm hạn về Thương quan gặp Quan; không hề có các điểm hại nhau của Thìn và Mão; không hề có sự hình nhau của Tý với Mão và cũng không hề có các điểm xung khắc nhau của các can chi…. Trên sơ đồ ta chỉ thấy các điểm hạn gây lên tai họa này là các điểm hạn của Thủy cục, Mộc cục và của Thủy cục sinh cho Mộc cục. Ngoài ra còn có điểm hạn của nạp âm khắc nhau nhưng với điểm hạn này thì tôi chưa có được một ý tưởng nào để ngăn chặn nó.

        Do vậy ở đây ta chỉ cần tập chung vào tìm cách giải cứu để ngăn cản các điểm hạn của Thủy cục (2đh), Mộc cục (0,5đh) và điểm hạn của Thủy cục sinh cho Mộc cục (2.0,6đh = 1,2đh).
        Như tôi đã thắc mắc là tại sao tai họa lại xẩy ra vào tháng Dậu mà không xẩy ra vào các tháng Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi và Thân (vì chúng cùng ở tiểu vận Giáp Thìn) ? Phải chăng Mộc không ở các trạng thái Tử, Mộ và Tuyệt tại các tháng Dần, Mão, Thìn và Tị nên nó có thể nhận được sự sinh từ Thủy nhưng tai họa không xẩy ra chỉ vì Thủy lại ở các trạng thái hưu tù tử tuyệt ở các tháng này nên nó không có khả năng sinh cho Mộc ? Còn các tháng Ngọ, Mùi và Thân thì Thủy ở các trạng thái Thai, Dưỡng và nhất là Trường sinh ở tháng Thân có thể sinh được cho Mộc cục nhưng tai họa vẫn không xẩy ra bởi vì Mộc lại ở các trạng thái Tử, Mộ và Tuyệt tại các tháng này nên Mộc không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy chăng ? Cho nên đến tháng Dậu Thủy vượng còn Mộc ở trạng thái Thai (tức bắt đầu tiến khí) nên nó có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy. Chính vì lúc này số điểm quá cao, vì vậy gặp ngày Tân Mão (3/10 dương lịch) cùng lưu niên Tân Mão thiên khắc địa xung với trụ tháng Đinh Dậu (tháng 9) đã tác động cho số điểm hạn này phát ra gây nên tai họa này chăng ?

        Nếu sự suy luận này là đúng thì đơn giản nhất là chúng ta tìm cách nào đó để Thủy không có khả năng sinh được cho Mộc hoặc Mộc không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy là được. Rõ ràng chúng ta thấy 6 tháng đầu năm đã thỏa mãn điều kiện này (như đã phân tích ở trên), vậy thì chúng ta dễ dàng nhận thấy cách giải cứu đơn giản nhất là …… Cho dù đây mới chỉ là lý thuyết cần có thực nghiệm để kiểm chứng, nhưng chả sao cả. Chúng ta cứ mạnh dạn đưa ra ý tưởng (tức lý thuyết) đi cho dù là sai (bởi vì từ trước tới nay hầu như là lý thuyết bao giờ cũng có trước sau đó mới có các thực nghiệm kiểm tra lý thuyết đó).

        Hy vọng có ai đó dựa vào câu tôi tô đậm ở trên có thể điền vào chỗ bỏ trống (…..) cách giải cứu mới mẻ này.

        Nếu như không thừa nhận quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“ thì với sơ đồ tính điểm hạn trên sẽ xuất hiện thêm rất nhiều điểm hạn nữa như:

        1 – Bính đại vận khắcTân lưu niên (mặc dù Bính đã hợp với Tân hóa Thủy).
        2 – Đinh trụ giờ là Thương quan gặp (khắc) Tân lưu niên là Quan (cho dù Tân đã hóa Thủy).
        3 – Tân lưu niên khắc Giáp hay Ất tiểu vận, khắc 2 Giáp và Ất trong Tứ Trụ (cho dù Tân đã hóa Thủy).
        4 – Mão trụ giờ và Mão thái tuế cùng Tý đại vận hình nhau (cho dù Tý và Mão thái tuế đã hợp hóa cục).
        5 – Mão thái tuế và Mão trụ giờ cùng Thìn trụ ngày hại nhau (mặc dù Mão thái tuế và Thìn đã hóa cục).
        6 - Tuất trụ năm hợp với Tuất thái tuế hóa Hỏa.
        7 – Tuất trụ năm xung Thìn trụ ngày (mặc dù Thìn đã hóa cục).
        8 - Ở đây chưa đả động gì tới các nạp âm khắc nhau (vì hình như tất cả các sách từ cổ tới kim không nói gì tới các nạp âm khắc nhau có thể gây ra các điểm hạn thì phải (?)).

        Tất cả các thông tin ở trên đều có thể gây ra các điểm hạn và hầu như tất cả các cao thủ Tử Bình từ Cổ tới Kim đều thích bơi, ngụp lặn trong cái mớ Hổ Đốn này thì phải (?). Có cao thủ cho rằng vì Tuất trụ năm (đại diện cho cha mẹ) xung với Thìn trụ ngày (đại diện cho bản thân người có Tứ Trụ) đã gây ra hạn nên muốn giải cứu hạn này thì cha con phải sống xa nhau. Có cao thủ cho rằng tai họa này do Đinh trụ giờ là Thương quan gặp Tân lưu niên là Quan gây ra. Có cao thủ cho rằng vì 2 Mão và Thìn hại nhau hay Tý và 2 Mão hình nhau mà gây ra tai họa. Còn có cao thủ cho rằng Đinh trụ giờ khắc Tân lưu niên là thái tuế và họ cho rằng phạm thái tuế chỉ có toi mạng mà thôi...

        Khi không thừa nhận quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“ thì nó sẽ xẩy ra trăm nghìn cách gây ra tai họa như nêu trên và dĩ nhiên chúng đều sai bởi một điều vô cùng đơn giản là chính các cao thủ Tử Bình đều phải thừa nhận và áp dụng một câu kinh điển: “Hợp Quan lưu Sát“ hay “Hợp Sát lưu Quan“. Chính câu Kinh Điển này đã khẳng định là phải thừa nhận quy tắc đã nói ở trên. Bởi vì nếu không thừa nhận quy tắc này thì Quan và Sát vẫn gặp nhau cho dù chúng đã bị hợp. Còn nếu ai cho rằng câu này chỉ áp dụng cho Quan và Sát thôi mà không được áp dụng cho các thần sát hay các can chi khác thì xin hãy trích dẫn các câu trong các sách cổ điển để chứng minh.

        Bây giờ chúng ta quay lại với ví dụ trên. Như tôi đã chứng minh trong 6 tháng đầu năm, nếu các tháng Thủy sinh được cho Mộc cục thì may mắn các tháng đó Mộc cục lại không có khả năng nhận được sự sinh đó, còn các tháng khác thì ngược lại. Do vậy trong 6 tháng đầu năm không có 1,2đh của Thủy cục sinh cho Mộc cục nên tai họa đã không thể xẩy ra. Nếu điều suy luận này đúng thì chúng ta biết các mùa của Bắc bán cầu và Nam bán cầu luôn luôn ngược nhau (ví dụ nếu Bắc bán cầu đang là mùa Xuân và Hạ thì Nam bán cầu đang là mùa Thu và Đông và ngược lại). Do vậy 6 tháng ở bắc bán cầu là mùa Xuân và Hạ người này không bị tai họa thì sang 6 tháng cuối năm là mùa Thu và mùa Đông của bắc bán cầu mà muốn không gặp tai họa thì người này phải sống ở Nam bán cầu, bởi vì khi đó Nam bán cầu đang là mùa Xuân và Hạ.

        Về lý thuyết thì rất đơn giản như vậy nhưng trong thực hiện lại không hề đơn giản tý nào. Bởi vì có mấy ai đủ tiền để đi du lịch xa tới 6 tháng như vậy, đấy là chưa kể tới khó khăn khi xin VISA nhập cảnh...

        Nhưng trong thực tế thì chắc rằng đa số những người nam có cùng Tứ Trụ này vẫn sống tại chỗ mà vẫn bình yên, không hề gặp tai họa nào cả. Đây mới chính là điều mà chúng ta phải nghiên cứu để tìm cho ra lời giải đáp.
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 30-10-12 lúc 17:19
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      13. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      14. #38
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ 4 : Thêm một giả thiết mới quan trọng

        Ví dụ số 142 trong "Chương 21 : Luận tinh thần vô quan cách cục – Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" đăng bên trang web "Tử bình - Mệnh lý".

        "Nam mệnh : Tân Tị / Tân Sửu / Canh Thân / Tân Tị

        Đại vận: Canh Tý -Kỷ Hợi -Mậu Tuất -Đinh Dậu -Bính Thân -Ất Mùi -Giáp Ngọ

        Kim gặp tháng rét thổ, cần dụng hỏa Điều hậu. Mà Tị Sửu hội hợp, Tị Thân hình hợp, cách cục liền chuyển đổi. Khí toàn kim thủy, đành phải thuận theo vượng khí, nên hành vận thổ kim thủy là mỹ vận. Đây là mệnh Lý Quốc Kiệt, người Hợp Phì (tỉnh An Huy). Tân kim tạp xuất mà chỉ có một Canh kim đắc quý, tuy anh em rất đông mà một mình mình kế tục ngôi vị, "quý do di ấm" là chổ đó, cho nên niên nguyệt trụ thích hợp đóng quý nhân. Vừa vào vận Mùi, lưỡng quý tương xung, hơn nữa gặp phải lưu niên Giáp Tuất, tam hình hội hợp, hình thương đến lưỡng quý mà bị họa tù ngục. Tứ trụ này nếu như thời thấu một thủy thì vận cuối không đến nỗi cùng khốn. Có thể thấy Thần sát không hoàn toàn vô căn cứ".

        Sau đây là bài luận của tôi :
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7147/6826438493_4dc5efb2ca_z.jpg[/img]

        Năm Giáp Tuất thuộc đại vận Ất Mùi, tiểu vận Mậu Tý và Đinh Hợi. Ở đây ta xét tiểu vận Mậu Tý.
        1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Bính tàng trong Tị trụ năm. Kim là kỵ vượng.
        2 – Trong Tứ Trụ có Tị hợp với Thân không hóa.
        Vào đại vận Ất Mùi và năm Giáp Tuất có Ất đại vận hợp với Canh trụ ngày không hóa.
        Trụ tháng Tân Sửu thiên khắc địa xung với đại vận Ất Mùi có 0,5đh + 0,05đh (vì Tân vượng ở lưu niên).
        3 – Dụng thần Bính tử tuyệt ở lưu niên có 1đh.
        4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh.
        5 – Canh trụ ngày thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận nên có 0,25đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh.
        3 Tân trong Tứ Trụ thất lệnh và chỉ vượng ở đại vận khắc Giáp lưu niên nên mỗi lực có 0,5đh và mỗi can có 0,5đh can động.
        Mùi đại vận xung Sửu lệnh tháng có 0,4đh.
        Tuất thái tuế có 1 hung thần có 0,25đh.
        6 – Mùi đại vận hình Tuất thái tuế có 1đh và hại Tý tiểu vận có 0,25đh (vì là lực thứ 3). Tuất thái tuế bị hình nhưng vẫn hành được Sửu trụ tháng có 1đh.
        7 - Gỗ Lựu trụ tháng có Canh thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim giá đèn ở trụ năm và trụ giờ có tổng cộng 0,25đh ( vì Canh đã sử dụng 0,5đk).

        Tổng số là 8,2đh. Số điểm này quá cao là không thể chấp nhận được.

        Nếu như không có sự tác động của ngũ hành trong môi trường mà người này sống vào mệnh của người này để làm giảm bớt số điểm hạn này thì bắt buộc chúng ta phải tìm xem trong sơ đồ này có thể xuất hiện các điểm hạn âm hay không ? Nếu như không có thì ta phải xem tiếp liệu có yếu tố nào có thể làm cho tổng điểm hạn này được giảm hay không ? Nhìn đi nhìn lại ta thấy có một điều khác lạ ở đây là có tới 3 Tân không bị hợp cùng khắc Giáp lưu niên.

        Do vậy ta có thể đưa ra giả thiết mới là:

        "Nếu trong Tứ Trụ có 3 can giống nhau không bị hợp cùng khắc can của lưu niên thì mỗi lực khắc này có 1G nếu là khắc trái dấu và 2G nếu là khắc cùng dấu (?)".

        Nếu vậy thì tổng cộng có 3G tương đương với mức giảm là 1/3. Do vậy tổng điểm hạn còn 8,2.2/3 đh = 5,47đh . Số điểm này vẫn còn quá cao nên không thể chấp nhận được.

        Để ý ta thấy Mùi đại vận hình Tuất thái tuế, vì vậy ta thấy là hợp lý nếu cho lực này có 0,5G. Nếu như vậy thì có 3,5G tương đương với mức giảm 5/12. Khi đó tổng điểm hạn còn 8,2.7/12 đh = 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Do vậy giả thiết trên phải bổ xung thêm như sau:

        "Nếu trong Tứ Trụ có 3 can giống nhau không bị hợp cùng khắc can của lưu niên thì mỗi lực khắc này có 1G nếu là khắc trái dấu và 2G nếu là khắc cùng dấu (?), khi đó chi đại vận Hình hay Hại thái tuế có 0,5G" còn xung có ...?G và khắc có ...?G.

        Ví dụ này đúng với câu Thân vượng có nhiều tỷ kiếp mà trong Tứ Trụ không có Tài thì vào vận Tài dễ vì Tài mà gặp tai họa. Do vậy người này chắc mất Quan do tam hình và vào tù vì Tài (tam hình này có thể liên quan tới Tài, tức tiền hay gái).

        Bạn đọc thử thay 1 Tân thành Quý xem tổng điểm hạn có thấp đến mức không bị "cùng khốn" như bài luận ở trên hay không ?
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 30-10-12 lúc 17:31
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      15. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      16. #39
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        Ví dụ 5:

        Sơ đồ tính điểm hạn (hạn chết) năm Nhâm Thìn (2012) của ca sĩ nổi danh Whitney Houston (USA) :
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7186/6903043855_fb9e4de82a_z.jpg[/img]

        11/2/2012 là năm Nhâm Thìn thuộc đại vận Giáp Tý và tiểu vận Quý Hợi.
        1 - Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân nhược mà Quan Sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Nhâm tàng trong Thân ở trụ tháng. Kim là hành kỵ vượng.
        2 - Ta thấy 2 Thân trong Tứ Trụ hợp với Tý và Thìn ở tuế vận hóa Thủy thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Thủy có 1,86đv được thêm 9đv của Thân trụ ngày và 5,4đv của Thân trụ tháng thành 16,26đv. Kim có 23,4đv bị mất 9đv của Thân trụ ngày và 5,4đv của Thân trụ tháng còn 9đv. Thân vẫn nhược và dụng thần vẫn không thay đổi. Vì Kim là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Thủy có 16,26đv được thêm 5,33đv của Tý đại vận và 2.8đv của Thìn thái tuế thành 39,59đv. Mộc có 4,41đv được thêm 5,1đv của Giáp đại vận (Giáp động vì nó bị Canh trong Tứ Trụ khắc) thành 9,51đv.

        Bình thường sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận thì điểm hạn của các hành không được phép thay đổi. Nhưng nếu áp dụng điều này ở đây thì Thủy vẫn là dụng thần nên tổng điểm hạn quá thấp là không thể chấp nhận được (vì Thủy cục 4 chi có điểm hạn âm, điểm hạn can động của 3 Giáp cũng là âm...). Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải thừa nhận sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận thì điểm hạn của ngũ hành phải được xác định như bình thường. Nếu như vậy thì ta phải sửa lại giả thiết đã được đưa ra ở ví dụ minh họa "Giờ Thân hay Hợi ?" trong "Bài 24 - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng", ở tại chủ đề này (vì 2 ví dụ này có 1 điểm giống nhau) :

        “2/ - Nếu tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận thì phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận, và nếu sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà Thân mới bị thay đổi thì dụng thần và điểm hạn của ngũ hành được xác định như bình thường“.

        Thành 2 giả thiết độc lập như sau :

        7b/ - Nếu tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận thì phải tính lại điểm vượng ở vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận.

        30a/ - Nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà Thân không thay đổi nhưng khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Thân bị thay đổi thì dụng thần và điểm hạn của ngũ hành được xác định như từ khi mới sinh chỉ khi có tổ hợp của chi đại vận và thái tuế cùng với chi trong Tứ Trụ hóa cục cũng như hóa cục này không tham gia Đại Chiến.

        Nếu áp dụng giả thiết 30a/ thì trường hợp này ta thấy chi đại vận, thái tuế và chi trong Tứ Trụ tạo thành tam hợp hóa Thủy cũng như Kiêu Ấn lớn hơn Tài và Thực Thương cộng thêm Thân lớn hơn Tài và Quan Sát (vì Thân lúc này có 9,51đv còn Tài có 1,44đv và Quan Sát có 9đv) nên Kiêu Ấn có thể sinh được cho Thân 50% đv của nó. Thân đã trở thành vượng (vì nó có (39,59.1/2 + 9,51)đv = 29,39đv) mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Mậu tàng trong Tuất ở trụ giờ. Thủy là kỵ vượng và các điểm kỵ vượng được tăng gấp 3 lần (nếu áp dụng giả thiết : 30/(18;158) – Nếu hành của tam hợp cục hay tam hội cục có ít nhất 4 chi có thái tuế là kỵ 1, khi hành này giống với hành của can lưu niên mà can lưu niên không bị hợp thì điểm kỵ vượng của hành này (đoạn này đã được sửa lại cho chính xác hơn) mới được tăng 5/4 nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, 3 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 30đv, 4 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 40đv, .... (kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược hay ngược lại)).

        Do vậy Thủy cục có 1.2đh + 0,25đh. Tý đại vận và Thìn thái tuế mỗi chi có 3.0,5đh kỵ vượng.

        3 - Dụng thần Mậu vượng ở lưu niên có -1đh.
        4 - Nhật can Gi áp nhược ở lưu niên có 0đh.
        5 – Canh trụ tháng được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có -0,5đh và khắc 3 Giáp có tổng cộng 0,25đh, vì vậy mỗi lực có 0,08đh, riêng lực khắc Giáp trụ giờ chỉ có 0,04đh (vì cách 1 ngôi). Do vậy Giáp đại vận chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh nhưng bị giảm 8% còn 0,46đh can vượng (vì bị Canh khắc), Giáp trụ ngày thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh nhưng cũng bị giảm 8% chỉ còn 0,46đh, Giáp trụ giờ cũng có 0,5đh nhưng chỉ bị giảm 4% còn 0,48đh.
        Giáp đại vận có 1 cát thần có -0,25đh nhưng bị giảm 8% (do Canh khắc) chỉ còn -0,23đh. Nhâm lưu niên có 2 cat thần có -2.0,25đh. Quý tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh. Hợi tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh.
        6 - Nước sông ở lưu niên có Nhâm chỉ vượng ở đại vận khắc Lửa đỉnh núi ở trụ giờ có 0,75đh.

        Tổng số là 5,24đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

        Qua sơ đồ này rõ ràng người này đã chết chủ yếu bởi các điểm hạn về Thủy (tức chết vì nước), vậy mà pháp y khám nghiệm đã kết luận không phải chết đuối vì trong phổi không có nhiều nước. Có thể thủ phạm (nếu có) đã dốc ngược đương số để cho nước trong phổi thoát ra ngoài (như cấp cứu người chết đuối) trước khi pháp y khám nghiệm chăng ?
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 30-10-12 lúc 17:53
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      17. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      18. #40
        Tham gia ngày
        Jan 2011
        Đến từ
        Germany
        Bài gửi
        789
        Cảm ơn
        2
        Được cảm ơn: 643 lần
        trong 390 bài viết

        Default

        (Tiếp)
        Qua Wikipedia tiếng Việt của Whitney Houston cho ta thấy tiểu sử của nữ ca sĩ này huy hoàng nhất vào các vận Nhâm Tuất và Quý Hợi đúng như dụng thần là Thủy"Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần" của tôi đã chỉ ra. Điều này là một bằng chứng để chứng minh thêm một lần nữa phương pháp của tôi theo "Vượng Suy Pháp" hay "Dụng Thần thăng bằng" là đúng.

        Nhưng vì sao vào vận Giáp Tý là vận hỷ thần có Giáp vượng ở đại vận Tý và chi đại vận Tý hợp với 2 Thân trong Tứ Trụ hóa Thủy là dụng thần mà sự nghiệp của người này lại tụt dốc và cuối cùng đã kết thúc bi thảm bằng cái chết như vậy ?

        Nói chung ngoài những người theo trường phái của cụ Thiệu (lấy Can đại vận làm trọng) thì hầu như các cao thủ lẫn các đại cao thủ Tử Bình (như Trưởng Lão Hoàng Đại Lục đại diện cho "Cách Cục Pháp", Đoàn Kiến Nghiệp đại diện cho "Manh Phái",....) đều lấy Chi đại vận làm trọng. Điều này dễ dẫn họ đi đến kết luận Thủy phải là kỵ thần (vì vào vận Tý - Thủy nên người này thất bại liên tiếp và kết cục bằng cái chết). Nếu vậy thì họ sẽ giải thích ra sao với vận Quý Hợi có can chi toàn Thủy là kỵ thần mà người này vẫn huy hoàng như vậy ? Chắc là họ cho rằng 10 năm của đại vận này đương số đã sống và biểu diễn ở xa mạc SAHARA ở châu Phi, cho nên kỵ thần Thủy ở đó bị "Bốc Hơi Hết" còn hỷ dụng là Hỏa và Thổ cường vượng (vì xa mạc này ở phương nam lại gần đường xích đạo nên lúc nào cũng nóng ấy mà). Còn vận Nhâm Tuất thì chắc chắn họ cho rằng Tuất là Thổ là hành hỷ dụng thần nên mới đẹp như vậy. Chính vì lấy Chi đại vận làm trọng (ở đây chưa xét đến khả năng xác định Thân vượng hay nhược của họ), cho nên họ đã không thể giải thích được đa số các ví dụ trong thực tế. Chính vì vậy mà họ đã phủ nhận trường phái "Dụng Thần thăng bằng" để đi đến thừa nhận các trường phái khác.

        Theo trường phái "Dụng Thần thăng bằng" lấy Can đại vận làm trọng của tôi thì giải đáp câu hỏi ở trên ra sao ? Nếu nhìn qua thì dễ dàng cho rằng đại vận Giáp Tý có chi hóa Thủy là dụng thần còn can Giáp là hỷ thần lại vượng ở đại vận Tý thì đây phải là một vận có nhiều thành công hơn là thất bại nhưng trong thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại. Muốn giải thích điều này thì phải thừa nhận sự vượng suy của tất cả các can chi phải được xác định tại chi lưu niên (tức lấy thái tuế làm "Lệnh Lưu Niên" tương tự như lấy chi tháng làm "Lệnh Tháng" trong Tứ Trụ).

        Nếu chấp nhận như vậy thì vận Giáp Tý bắt đầu vào tháng 7/2003.
        Các năm Quý Mùi (2003), Giáp Thân (2004), và Ất Dậu (2005), Canh trụ tháng vượng ở lưu niên khắc 3 Giáp ở đại vận, trụ ngày và trụ giờ (đều nhược ở lưu niên), vì vậy 3 Giáp bị tổn thương nên hầu như không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy cục. Điều này dẫn đến Thân đã nhược càng thêm nhược không thể thắng được Tài Quan, vì vậy 3 năm này đương số chỉ vùi mình vào nghiện ngập Ma Túy, sự nghiệp không có gì cả.

        Năm Bính Tuất (2006) mặc dù Canh bắt đầu suy nhược ở lưu niên nhưng nó vẫn khắc được 3 Giáp (vì nó được lệnh tháng) và mặc dù lực khắc yếu hơn nhưng bù vào là can lưu niên Bính Hỏa là kỵ thần, cộng thêm Tuất thái tuế hợp chặt Mão trong Tứ Trụ nên Thân coi như bị mất Mão nên Thân đã suy nhược (vì không nhận được sự sinh từ Thủy cục) lại càng thêm nhược. Chính đều này đã dẫn đến sự bại tài (thực tế có thể coi như là phá sản) của Whitney Houston vào năm 2006 (mất quyền sở hữu khu đất ở Atlanta vì phải thế chấp, bán đồ đạc, quần áo, nhạc cụ và nhất là phải bán biệt thự trị giá 5,6 triệu đô la để trả nợ....vào tháng 1/2007 (theo Tử Bình vẫn thuộc năm 2006).

        Sơ đồ hạn phát Tài tháng Sửu năm Ất Dậu (2005) của ca sĩ Whitney Houston như sau:
        [img]http://farm8.staticflickr.com/7065/6910105187_a2577f6e1e_z.jpg[/img]

        Tháng Sửu năm Ất Dậu thuộc đại vận Giáp Tý và tiểu vận Đinh Tị.
        Vào đại vận Giáp Tý có Tý đại vận hợp với 2 Thân trong Tứ Trụ hóa Thủy.
        Tới năm Ất Dậu có :
        1 - Canh trụ tháng hợp với Ất lưu niên hóa Kim thành công (vì có lệnh tháng dẫn hóa, nếu không thì Dậu thái tuế cũng trở thành thần dẫn do bị Mão trụ năm xung).
        2 - Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

        "Nếu bán hợp hay lục hợp của chi đại vận với ít nhất 2 chi giống nhau trong Tứ Trụ đã hóa cục thì tam hợp hay tam hội của thái tuế với 2 chi giống nhau này mất quyền ưu tiên khi thái tuế bị xung khắc bởi Tý, Ngọ, Mão, Dậu, khi đó tam hợp hay tam hội này muốn tranh được hợp thì lực hợp của nó phải ít nhất bằng lực hợp của bán hợp hay lục hợp cục này".

        Nếu sử dụng giả thiết này thì Mão trụ năm xung Dậu thái tuế nên tam hội Thân Dậu Tuất bị mất quyền được ưu tiên. Do vậy tam hội này muốn phá được bán hợp Thủy thì lực hợp của Dậu với mỗi Thân phải ít nhất là bằng lực hợp của Tý với mỗi Thân. Ta thấy lực của Dậu hợp với mỗi Thân là 9.1/4đv = 2,25đv (vì Dậu thái tuế có 9đv phải hợp với 4 chi gồm 2 Thân, Tuất trong Tứ Trụ và thêm Tị tiểu vận) là nhỏ hơn lực hợp của Tý đại vận với mỗi Thân là 8.1/2 đv = 4đv (vì điểm vượng của Tý tại lưu niên là (10 + 2.7).1/3 đv = 8đv và Tý chỉ hợp với 2 Thân). Do vậy tam hội không phá được Thủy cục.

        Rõ ràng Canh trụ tháng đã hợp với Ất lưu niên hóa Kim nên nó không còn khả năng khắc 3 Giáp. 3 Giáp không bị thương tổn sẽ nhận được sự sinh từ Thủy cục nên năm Ất Dậu là một năm đẹp đã phát tài. Cho dù Ất lưu niên hóa Kim nhưng vì Ất chỉ ở trạng thái tử tuyệt ở lưu niên nên điểm thêm của Ất hóa Kim là quá nhỏ (chỉ có 3đv) so với sự mất của Kim bởi 2 Thân trong Tứ Trụ hóa Thủy (tới 14,4đv). Chính vì vậy mà Thân không còn quá nhược so với Quan Sát, nên Mão và Dậu thái tuế xung nhau không còn đáng ngại nữa.

        Ở tiểu vận Bính Thìn Thủy cục cũng không bị phá vì lực hợp của Tý với mỗi Thân có 8.1/3 đv = 2,67đv (vì Tý phải hợp thêm với Thìn tiểu vận) vẫn lớn hơn lực hợp của Dậu với mỗi Thân là 2,25đv (vì Dậu vẫn phải hợp với Thìn tiểu vận).

        Kết luận năm Ất Dậu là 1 năm đẹp.

        Qua đây cho biết hầu như tất cả các trường phái Tử Bình từ cổ tới kim hầu như không hề biết đến khả năng tranh phá hợp của các địa chi này (ở đây chỉ đề cập tới các sách đã được in bán công khai).
        thay đổi nội dung bởi: VULONG, 30-10-12 lúc 17:55
        Chào mừng bạn đến với huyền không lý số

      19. Danh sách Hội Viên đã cảm ơn "VULONG" về bài viết có ích này:

        thucnguyen (08-11-12)

      Trang 4/5 đầuđầu ... 2345 cuốicuối

      Đề tài tương tự

      1. Danh ngôn về Đàn Bà
        By thulankl in forum Thư Giãn - Giao Lưu
        Trả lời: 1
        Bài mới: 03-05-11, 09:18
      2. Ma y thần tướng diễn thi
        By hoa mai in forum Nhân tướng học
        Trả lời: 1
        Bài mới: 14-03-11, 04:38
      3. Thông điệp từ những người anh
        By hoa mai in forum Khoa Học - Kỹ Thuật
        Trả lời: 4
        Bài mới: 11-03-11, 23:02
      4. Người Việt và tiếng Việt tại Úc
        By hoa mai in forum Xã Hội - Con Người
        Trả lời: 0
        Bài mới: 21-01-11, 13:21

      Tags for this Thread

      Quuyền Hạn Của Bạn

      • Bạn không thể gửi đề tài mới
      • Bạn không thể gửi trả lời
      • Bạn không thể gửi đính kèm
      • Bạn không thể sửa bài viết của mình
      •