-
26-02-13, 13:35 #91
-
19-03-13, 10:28 #92
K/g: Bác nguyenhuutuan
Xin lỗi anh chậm trả lời vì lâu kg vào mục này, nếu anh cần để tôi copy 1 bản gửi anh, liên hệ cell: 0913 838 424
Thân,
ThucnguyenChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "thucnguyen" về bài viết có ích này:
hoangtuden369 (20-11-13),nguyenhuutuan (05-04-13),quangdct (07-08-13)
-
13-04-13, 18:51 #93
-
Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "hungthobac" về bài viết có ích này:
hoangtuden369 (20-11-13),thang.mh (15-07-13)
-
03-07-13, 09:16 #94
K/g: anh Hungthobac,
Anh PM cho địa chỉ để mình photocopy gửi cho anh 1 bản.
TNChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
15-07-13, 14:19 #95
chào (anh) ThucNguyen và các Anh/Chị,
mình rất cần xin bản photo hoặc bản pdf (miễn là bằng tiếng Việt, vì mình không biết tiếng Hoa); nếu được thì gởi cho mình theo đ/c mail: Thang.mh77@yahoo.com.vn; hoặc cho mình xin số điện thoại để liên hệ.
Chân thành cám ơn & chúc hạnh phúc.
Thắng.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
22-07-13, 09:16 #96
xin giúp một tay với huynh anhngoc
Xét trên đây khắc ứng chưa biết nghiệm hay không hãy chép ra để đợi thử nghiệm.
Xem tiếp bản đồ về giờ quý đăng tiên môn ở trang….
LỆ VỀ ÂM DƯƠNG QUÝ.
Can ngày Dương Quý Âm Quý
Giáp Mùi Sửu
Ất Thân Tý
Bính Dậu Hợi
Đinh Hợi Dậu
Mậu Sửu Mùi
Kỷ Tý Thân
Canh Sửu Mùi
Tân Dần Ngọ
Nhâm Mẹo Tị
Quý Tị Mẹo
Thông Thư nói: Kinh rằng: Thiện của Năm không bằng Thiện của Tháng, Thiện của Tháng không bằng Thiện của Ngày, Thiện của Ngày không bằng Thiện của Giờ. Giờ Quý Nhân Đănmg Thiên Môn lá rất Thiện của Giờ. Phép ấy thế này: Lấy Nguyệt Tướng (Tướng của tháng) gia vào giờ dùng, ban ngày dùng Dương Quý, đêm dùng Âm Quý, lấy Thiên Ất Quý Nhân làm chủ, mà Đằng Xà, Chu Tước, Lục Hợp, Câu Trần, Thanh Long, Thiên Không, Bạch Hổ, Thái Thường, Huyền Võ, Thái Âm, Thiên Hậu tuỳ theo. Cho nên Quý Nhân tới Càn Hợi là Đăng Thiên Môn, thì Đằng Xà tới Nhâm Tý mà ngã xuống nước, Chu Tước tới Quý Sửu mà hun lông, Lục Hợp tới Cấn Dần mà đi xe, Câu Trần tới Giáp Mẹo mà lên bệ, Thanh Long tới Ất Thìn mà rơi ngoài biển, Thiên Không tới Tốn Tị mà gieo vào hòm (cái rương), Bạch Hổ tới Bính Ngọ mà đốt mình, Thái Thường tới Đinh Mùi mà lên chiếu tiệc, Huyền Võ tới Khôn Thân mà gẫy chân, Thái Âm tới Canh Dậu mà về cung, Thioe6n Hậu tới Tân Tuất mà vào mùng. Do vậy, 6 Cát Tướng đắc địa, mà 6 Hung tinh dẹp uy, cho nên gọi là “Thần tàng sát một”, lại làm “Lục Thần tất phục” (6 Thần nép hết), đó là diệu dụng về chọn giờ.
Xét Quý Nhân Đăng Thiên Môn (Quý Nhân lên cửa trời) là nghĩa bậc nhất về chọn giờ, đến như Nguyệt Tướng gia vào giờ Quý Nhân Âm Dương thuận hay nghịch đều là phép Lục Nhâm cả. Cho nên, lầm lấy “Tứ Sát một thời” làm “Thần tàng sát một”, mà cái thuyết Quý Nhân Đăng Thiên Môn lẫn lộn ở trong đó, khiến người xem không thể hiểu được. Nay vì lấy mà làm tựa, thì biết Thần Tàng ấy là nghĩa yên ở chỗ ở. Quách Phác bảo là “Thần Tàng hợp sóc”, Tông Kính bảo là “Quy Viên Nhập Cục” là thế. Xét từng ấy nghĩa là ẩn mà không hiện. Thông Thư bảo là “lục hung liễm uy, lục thần tất phục” là thế. Can Hợi là Thiên Môn, Quý Nhân ở đấy. Lục Hợp Mộc mà tới Cấn Dần, Thanh Long Mộc mà tới Ất Thìn, Thái Dương Thổ mà tới Đinh Mùi, Thái Âm Kim mà tới Canh Dậu, Thiên Hậu Thuỷ mà tới Tân Tuất, tất cả đều được đúng ngôi, đang Vượng hay được Sinh cả. Cho nên gọi là Thần Tàng. Đằng Xà, Chu Tước Hoả mà tới Nhâm Tý Quý Sửu; Câu Trần, Thiên Không Thổ mà tới Giáp Mẹo Tốn Tị; Bạch Hổ Kim mà tới Bính Ngọ, Huyền Vũ Thuỷ mà tới Khôn Thân, đều không được đúng chỗ, chịu chế nép nấp. Cho nên gọi là Sát Một. Song đều do Quý Nhân Đăng Thiên Môn mà được, cho nên Quý Đăng Thiên Môn tức là Thần Tàng Sát Một, mà không phải là có 2 nghĩa. Một ngày chỉ có 1 giờ, song Quý Nhân chia ra Âm và Dương, lại giờ Meọ, Dậu, Thìn, Tuất,..gồm cả ngày đêm. Cho nên 1 ngày có 2 giờ, ấy là hoặc ngày không được Dương, đêm không được Âm,, thì lại có 1 ngày không được 1 giờ. Nay đã xet ngày khởi lệ ở trước, và lại tóm thu 720 khoá giờ Quý Đăng Thiên Môn làm biểu ở sau đây:
_ Như sau Vũ Thuỷ, giờ Mẹo ngày Giáp. Lấy Nguyệt Tướng Hợi gia vào Giáp Mẹo thì là Dương Quý, Mùi gia Càn Hơi là Dương Quý, là Đăng Thiên Môn đó.
_ Lại như sau Vũ Thuỷ, giờ Dậu ngày Giáp. Lấy Nguyệt tướng Hợi gia vào Dậu Canh thì là Dương Quý, Sửu gia Càn Hợi thì là Âm Quý, là Đăng Thiên Môn đó.
Đây phép ấy: Lấy hàng Can của ngày làm chủ, lấy Quý Nhân gia vào Càn Hợi, coi xem Nguyệt Tướng nào gia vào giờ nào, tức là giờ ấy Quý Đăng Thiên Môn. Như ngày Giáp Dương ẩn ở Mùi, gia vào Càn Hợi,xem giờ buổi sớm, tiết Vũ Thuỷ, Hợi Tướng gia vào Giáp Mẹo, tức là sau Vũ Thuỷ giờ Mẹo ngày Giáp là Dương Quý Đăng Thiên Môn. Tiết Đại Hàn Nguyệt tướng ở Tý gia vào Ất Thìn, sau Đại Hàn, giờ Thìn ngày Giáp là Dương Quý Đăng Thiên Môn. Lại như ngày Giáp Âm Quý ở Sửu gia vào Càn Hợi, xem giờ buổi chiều, Vũ Thuỷ Nguyệt tướng Hợi gia vào Canh Dậu, tức là sau Vũ Thuỷ giờ Dậu ngày Giáp là Âm Quý Đăng Thiên Môn. Đại Hàn mà Nguyệt tướng Tý, gia vào Tân Tuất, tức là sau Đại Hàn giờ Tuất ngày Giáp là Âm Quý Đăng Thiên Môn. Các lệ khác theo đây mà suy.
Tông Kính lấy giờ Nhâm chánh với giờ Tý trên 4 khắc, thì cùng phép song sơn hợp nhau, mà lấy nghĩa càng thiết hơn. Như Càn làm Thiên, Quý Đăng Thiên Môn lấy Càn chứ không phải lấy Hợi vậy. Chu Tước hun lông lấy Quý chứ không phải lấy Sửu vậy. Thiên Không gieo vào hòm lấy Tốn chứ không phải lấy Tị. Huyền Võ gãy chân lấy Khôn chứ không phải lấy Thân. Thiên Hậu vào mùng lấy Tân chứ không phải lấy Tuất. Nhưng Song Sơn lấy Can Duy cùng với Chi cùng cung, cho nên Lục Nhâm dùng Chi, cũng gọi là Thần Tàng Sát Một, vậy thì biết phep 24 giờ đã có lâu rồi.. Đời sau mất cài nghĩa đó, bảo rằng giờ Càn là Tuất chính 2 khắc đến Đầu Hợi 2 khắc; giờ Hợi là đầu Hợi 2 khắc đến chính Hợi 2 khắc; giờ Nhâm làm chính Hợi 2 khắc đến đầu Tý 2 khắc; giờ tý là đấu Tý 2 khắc đến chính Tý 2 khắc; lấy 12 Chi xem trong 12 giờ 1 khắc_ mà lấy trước giờ, sau giờ đều 2 khắc, chia lệ trước sau Can Duy, dường như có lý. Song Càn là Thiên Môn, Tốn là Địa Hộ, giới hạn Âm Dương, Quý Nhân thuận nghịch do đó phân chia. Như lấy Càn giửa Tuất 2 khắc, thì Càn chìm ở Âm, Quý mắc vào lưới, mà các Thần từ Đằng Xà trở xuống đều nên chuyển đi nghịch, lại sao thấy bảo là Quý Đăng Thiên Môn, Thần Tàng Sát Một ấy ru!
(HẾT QUYỂN II)
BIỂU TỔNG QUÁT 720 KHÓA GIỜ QUÝ ĐĂNG THIÊN MÔN
Nhật Can Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý
Vũ Thủy Sớm Mẹo Dậu Dậu Thân Mùi Tị
Hợi Tướng Chiều Dậu Tuất Hợi Sửu Mẹo Dần Mẹo
Xuân Phân Sớm Thân Dậu Thân Mùi Ngọ Thìn
Tuất Tướng Chiều Dậu Tuất Tý Dần Sửu Dần Mẹo
Cốc Vũ Sớm Dậu Mùi Thân Mùi Ngọ Tị Mẹo
Dậu Tướng Chiều Hợi Sửu Tý Sửu Dần
Tiều Mãn Sớm Tuất Thân Ngọ Mùi Ngọ Tị Thìn Dần
Thân tướng Chiều Tuất Tý Hợi Tý Sửu Dần
Hạ Chí Sớm Tuất Dậu Mùi Tị Ngọ Tị Thìn Mẹo
Mùi Tướng Chiều Hợi Tuất Hợi Tý Sửu
Đại Thử Sớm Dậu Thân Ngọ Thìn Tị Thìn Mẹo Dần
Ngọ Tướng Chiều Tuất Tuất Hợi Tý Dần
Xử Thử Sớm Dậu Thân Mùi Tị Mẹo Thìn Mẹo
Tị Tướng Chiều Dậu Dậu Tuất Hợi Sữu
Thu Phân Sớm Thân Mùi Ngọ Thìn Mẹo
Thìn Tướng Chiều Dần Mẹo Dậu Tuất Tý
Sương Giáng Sớm Mùi Ngọ Tị Mẹo Dậu
Mẹo Tướng Chiều Sửu Dần Mẹo Dậu Hợi
Tiểu Tuyết Sớm Ngọ Tị Thìn Thân
Dần TướngChiều Tý Sửu Dần Thân Tuất
Đông Chí Sớm Tị Thìn Mùi
Sửu Tướng Chiều Hợi Tý Sửu Mẹo Thìn Dậu
Đại Hàn Sớm Thìn Mẹo Thân Ngọ
Tý Tướng Chiều Tuất Hợi Tý Dần Mẹo ThânChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 5 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:
hoangtuden369 (20-11-13),leostar79 (28-01-16),thegioihuyenkhonglysocuaha (27-02-15),thucnguyen (24-07-13),vanti67 (24-07-13)
-
22-07-13, 19:53 #97
quyển 3
QUYỂN III
TÓM BÀN VỀ THẤT CHÍNH, TỨ DƯ
Tinh và Thần đều có phân biệt, ở trên Trời thì là Tinh (sao), ở dưới đất thì là Thần. Sức của Thần đất đục mà mạnh, không bằng sức của sao trên Trời trong mà dài. Quách Phác có nói: "Trời sáng soi xuống dưới, Đức đất chở lên trên", Đạo Tuyển Trạch, ai chẳng nên lấy Thiên Tinh (sao trên Trời) làm trọng. Nhưng Thiên Tinh chẳng vị nào tôn trọng hơn Mặt Trời, Mặt Trăng, chẳng gì chính bằng Ngũ Tinh. Nếu Trời không có Nhật Nguyệt, thì muôn đời lúc nào cũng như đêm dài; nếu trên đời không có Ngũ Hành, thì nhân dân điên đảo hết. Đó chính là cái lý Trời, Đất không thể lìa, mà Âm, Dương không thể ở ngoài được, tất cả đều ở trong sự chuyển vận của Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh. Thử lấy ngay Bát Tự của người mà xem, đã được Nhật Chủ kiện vượng, Tài Quan có Khí, lại tra trong Tinh bàn Thất Chính, Tứ Dư xem lấy sao nào làm chủ, nếu được Quy Viên, Đăng Điện, lại tính được những Sao Cát Tam nguyên Hóa Diệu, có ơn dùng Tình quanh quẩn nhau, không tệ chiến khắc đấu hãm, thì người ấy chẳng thể chẳng giàu sang lớn; nếu Chủ tinh thất hãm, cừu nạn đánh nhau, với lại các hạng Hóa, Nhẫn, sát cùng có, thì người ấy chẳng thể chẳng nghèo hèn. Phép Tuyển Trạch cũng như thế đấy.
Năm, tháng, ngáy, giờ, trước hết chọn thành 8 chữ, Chủ yếu lấy Phù Sơn, Tướng Chủ, thành Cách, thánh Cục, lại tra xem Chân Lộc, Chân Mã, Chân Quý Nhân của Tuế-Mệnh, cùng với Sao Cát của năm, tháng đến Sơn, đến Hướng, đến Phương, rồi sau lại tra trong Thất Chính được Sao nào chiếu tới, mừng được các Sao Cát: Lộc Nguyên, Mã Nguyên, Quý Nguyên, không nên các Sao Hung chướng, Dương Nhẫn; lại được Quy Viên Đăng Điện, không phạm Trì, Lưu, Phục, Nghịch; hoặc đến Sơn, đến Phương Hướng, đến Sơn là Thủ Điện, đến Hướng là Triều Nguyên, đến Phương là Củng Viên, đó là Thượng Cách về Tạo Mệnh. Người đời đều biết lấy hợp sao Cát, mà không biết trong Sao Cát nên lấy Thất Chính là Quý; ở trong Thất Chính lại chỉ biết dùng Thái Dương, Thái Âm, mà không biết Ngũ Tinh đều có sự Cát, như vậy há được gọi là người biết Tuyển Trạch ru?.
THÁI DƯƠNG (Mặt Trời)
Thái Dương là Chủ muôn vì Sao, có nhiều sự Cát, hiệu là Tinh trung Thiên Tử (Vua trong các vì Sao), có khí tượng Ông Vua, rất tộn rất quý, soi đến muôn phương, sao Thiện gặp thỉ thêm sáng, sao Ác gặp thì nép phục, tới Sơn- tới Hướng- tới Phương, rất có thể Tu sửa làm nhà, an táng mồ mả; tới Hướng là tốt nhất, tới phương là thứ, tới Sơn lại là thứ nữa. Vì tới Hướng thì chiếu vào ta, mà ta có sáng sủa, là có ý hướng vào sự vinh hoa; tới Phương là Triều vào ta (nếu Tu sửa Phương thì tới Phương là rất tốt). Tới Sơn, thì chỉ duy bậc Đế Vương sửa dựng Cung Điện thì nên, còn kẻ sĩ và dân lại không Cát, sợ khó đương được sự Tôn Quý của nó. (Xét Thái Dương tới Sơn mà kẻ sĩ và dân khó đương được sự Tôn Quý của nó, thì Lý rất đáng, nhưng khéo dụng cũng được Cát, vì Thái Dương đến Sơn chỉ nên đón khi sắp đến, không nên lấy thẳng đến trên độ Ngôi. Nếu ở Hướng thì thẳng đến trên độ Hướng được đấy. Đến như Thái Dương đã qua phận độ rồi, thì ở Hướng hay ở Sơn cũng đều vô ích, song cũng nên Phù, Bổ hợp phép. Như Phương Tính Ngu táng Giáp Sơn Canh Hướng, "địa phùng châm tọa" ở Khảo thành hậu biện tập độ: 10 độ sao Đê, dùng năm Đinh Mão, tháng Tân Hợi, ngày Quý Mùi, giờ Ất Mão, 6 ngày sau tiết Lập Đông, Thái Dương đi qua 8 độ sao Đê, đó là đón Thái Dương vậy). Cho nên Kinh Nghi Long có nói: "Xin ngươi chuyên dùng Thái Dương chiếu, Tam Hợp đối cung: Phúc Lộc bền". Bài ca Thiên Kim nói: "...ba là cốt yếu Sao sáng vào đến Hướng", đều lấy nghĩa đến Hướng đến Phương, chưa lấy đến Sơn vậy. Nếu ga7p5 quy Viên, Đăng Điện với lại Chưởng Lộc NGuyên, Mã Nguyên, Quý Nguyên thì đến Sơn đều Cát; Kỵ chưởng Dương Nhận và La Châm cùng độ, thì đến Hướng đều không nên. Lại nói: "Thái Dương có thể đè nén tất cả mọi Hung sát, có khi lại không vì người tạo Phúc", những nhà làm nhà, táng mộ chưa nên chuyên tham Thái Dương làm chủ vậy (Xét Thái Dương có thể hàng phục được tất cả Hung Sát. Phàm Hướng hay Phương của Sơn có Hung sát, được Thái Dương đến hoặc đối chiếu, thì các Sát đều nép phục mà không làm Hung. Nếu Hướng hay Phương của Sơn đã được các Sao Cát đến rồi mà lại lấy Thái Dương cùng đến, thì các Sao Cát không dám đương với Thái Dương tôn quý, mà lui tránh đi. Cho nên nói rằng "không nên chuyên tham Thái Dương"). Phàm dùng Thái Dương nên ngày không nên đêm, ngày thì sáng sủa đêm thì không, đến cung Ngọ là Quy Viên, đi qua độ số của 4 sao Tinh, Phòng, Hư, Mão là Đăng Điện, năm Đinh, kỷ là Chưởng Lộc Nguyên, năm Tân là Chưởng Quý Nguyên: Cát; năm Bính Mậu thì Chưởng Dương Nhận: không cát.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 4 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:
huyruan (23-07-13),leostar79 (28-01-16),thucnguyen (24-07-13),vanti67 (24-07-13)
-
23-07-13, 22:44 #98
THÁI ÂM
Thái âm là hậu phi trong các sao.Có khí tượng mẫu nghi(khuôn phép bậc mẹ),đức mềm thể thuận,giúp thái dương để tuyên truyền đức hóa,kế ngày đến đêm mà sáng sủa,đến sơn đến hướng,rất có thể áp phục được hết cả các hung sát ,tấn hoá được điều tốt lành.Ca thiên kim nói:
:”lại được năm con thỏ(tức là trăng)chiếu tới chỗ ngồi khiến cho nhân dân thêm phúc trạch”,tiểu nhi sát gặp chân thái âm đến thì có thể chế được.Trăng vào cung mùi là quy viên,đi qua độ 4 sao:tâm,ngụy,tất,trương là đăng điện .Năm giáp mậu là chưởng quý nguyên:cát,năm đinh và kỷ chưởng dương nhận,không cátChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:
huyruan (23-07-13),leostar79 (28-01-16),thucnguyen (24-07-13)
-
24-07-13, 08:29 #99
TT
Mộc tinh
Mộc tinh là khí tinh anh của mộc ở phương đông,tên là tuế tinh,sắc xanh, tính nhân từ,ưng vào ngôi thanh long,chủ về quyền sinh sôi nẩy nở,việc đi thì có thuận,nghịch,phục ,lưu,đi đường thuận thì đem phúc tới,đi đường nghịch tất sinh tai họa.Gặp quy viên,đăng điện,lại chượng lộc mã quý nguyên đến sơn đến hướng rất có thể với cát ,văn chương lừng thiên hạ;gặp thái tuế cùng đến tọa sơn gọi là “văn xương đại hội”chủ được vinh hiển trạng nguyên tể tướng.Vì mộc tinh giữ đồ sách vở,cho đến chủ quý hiển,vào 2 cung dần hợi là quy viên,đi qua độ 4 sao:giác,đẩu,khuê,ngưu là đăng điện.Đến hỏa sơn là ân tinh,đến thủy sơn là dụng tinh,đến kim sơn là tài tinh,đều cát,đến thổ sơn là nạn tinh:hung.Năm giáp và nhâm chưởng lộc nguyên,năm bính tân và đinh chưởng quý nguyên, năm thân ,tý,thìn,tỵ,dậu,sử,chưởng mã nguyên :cátChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "dinhquy" về bài viết có ích này:
leostar79 (28-01-16),thucnguyen (24-07-13),vanti67 (24-07-13)
-
24-07-13, 21:21 #100
TT
HỎA TINH
Hoa tinh là khí tinh anh của hỏa phương nam,tên là huỳnh hoặc,sắc đỏ,tính nóng dữ,ứng vào ngôi chu tước(chủ về quyền thư tái,duỗi ra,lớn lên),việc đi có nhanh,chậm,thuận,nghịch,phục,lưu,đi đường thuận thì đem lành đến,đi đường nghịch thì đem tai họa,chủ về ôn dịch,huyết chứng,vào 2 cung mão,tuất là quy viên,đi qua độ 4 sao:vỹ,thất,chủy,dực là đăng điện.Đến thổ sơn là ân tinh,đến mộc sơn là dụng tinh,đến thủy sơn là tài tinh đều cát,đến ki sơn là nạn tinh :hung.Năm ất chưởng lộc nguyên,năm nhâm và quý chưởng quý nguyên:cát.Năm giáp chưởng dương nhận sát :hungChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
Dịch - Định - Tâm - Trạch
By admin in forum Về chúng tôiTrả lời: 4Bài mới: 17-08-11, 22:16 -
Đổng công tuyển nhật!
By vocuc in forum Tủ sách Huyền Không Lý SốTrả lời: 3Bài mới: 13-04-11, 07:42 -
Âm trạch
By htruongdinh in forum Phong Thủy ITrả lời: 18Bài mới: 18-02-10, 20:57 -
Nhờ xem ngày giờ nhập trạch
By lehien28 in forum Nhờ xem ngày giờTrả lời: 4Bài mới: 25-09-09, 11:48 -
Xem giúp lá số Tử Bình! Chân thành cảm ơn!
By ngoisaobang99992003 in forum Nhờ xem Tử BìnhTrả lời: 2Bài mới: 23-08-09, 21:36