-
27-10-12, 23:17 #41
III – Thân nhược và ví dụ minh họa
Mẫu 5 cho Thân nhược
M-5/1 : Nữ sinh ngày 13/6/1961 lúc 20,16’ .
[img]http://farm7.staticflickr.com/6001/5899216728_30775cb8f2_z.jpg[/img]
Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có: Canh và Giáp bị khắc gần, Tân được Sửu cùng trụ sinh cho ½ đv của nó, Sửu trụ ngày được Đinh cùng trụ sinh cho ½ đv của nó, nhưng không có các tổ hợp.
[img]http://farm6.staticflickr.com/5261/5899219596_ff1ba522a6_z.jpg[/img]
Thân (Hỏa) nhỏ hơn thực thương Thổ, vì vậy Nhật Chủ nhược. Thân nhược mà Thổ là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn là (Mộc) và dụng thần chính của nó là Giáp ở trụ tháng.
Mộc là dụng thần có -1đh. Kim khắc dụng thần Mộc nên có 1đh. Hỏa là hỷ thần có -0,5đh. Thủy và Thổ là kỵ thần đều có 0,5đh.
M-5/2 : Nam sinh ngày 7/4/1971 lúc 12,50’
[img]http://farm6.staticflickr.com/5311/5899222504_3f3246799b_z.jpg[/img]
Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có : Ngọ trụ giờ không hợp được với Tuất trụ ngày (vì lực hợp của Ngọ với Tuất là 8đv không lớn hơn lực xung của Thìn với Tuất là 8đv), Hợi bị khắc gần và 2 Nhâm bị khắc trực tiếp .
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.
[img]http://farm7.staticflickr.com/6035/5898659293_ce1a5eae6d_z.jpg[/img]
Thân (Thủy) có điểm vượng vùng tâm nhỏ hơn quan sát và tài tinh, vì vậy Nhật Chủ là nhược. Thân nhược mà quan sát và tài tinh đều có điểm vượng trong vùng tâm bằng nhau. Chúng ta nhận thấy quan sát khắc Thân xấu hơn so với tài tinh chỉ là làm hao Thân, vì vậy quan sát (Thổ) phải là kỵ 1. Do vậy dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn (Kim) và dụng thần chính của nó là Tân ở trụ năm.
Kim là dụng thần có -1đh. Hỏa khắc Kim nên nó có 1đh. Thủy có -05đh. Thổ và Mộc là kỵ thần nên có 0,5đh.
M-5/3 : Nam sinh ngày 20/9/1978 lúc 9,30’ .
[img]http://farm6.staticflickr.com/5156/5898821365_bd7c584642_z.jpg[/img]
Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có bán hợp của Tị với Dậu hóa Kim (vì có Tân dẫn hóa), Dậu của trụ tháng và Ất bị khắc gần.
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi đã được mô tả trên sơ đồ .
[img]http://farm6.staticflickr.com/5280/5899391084_4474e0168e_z.jpg[/img]
Thân (Mộc) nhỏ hơn quan sát (Kim), vì vậy Nhật Chủ là nhược. Thân nhược mà quan sát là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn (Thủy). Nhưng trong tứ trụ không có kiêu ấn nên dụng thần thứ hai phải là tỷ kiếp. Nhưng trong tứ trụ cũng không có tỷ kiếp, vì vậy dụng thần thứ 3 phải là kỵ thần thực thương (Hỏa) (bởi vì trong thực tế người ta vẫn có thể lấy độc để trị độc) và dụng thần chính của nó là Đinh tàng trong Ngọ trụ năm (vì Quan sát khắc (hay nó bị kiêu ấn xì hơi để sinh cho Thân) Thân nên là xấu nhất, tài tinh làm hao Thân và sinh cho kỵ thần quan sát cũng là rất xấu, chỉ còn thực thương mặc dù xì hơi Thân là xấu nhưng nó khắc kỵ thần quan sát là có lợi một ít cho Thân).
Hỏa là dụng thần có -1đh. Thổ có 1đh (vì nó xì hơi dụng thần Hỏa để sinh cho kỵ thần Kim là xấu nhất). Kim có 0,5đh. Thủy và Mộc là hỷ thần nên đều có -0,5đh.thay đổi nội dung bởi: VULONG, 29-10-12 lúc 04:39
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 5 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
ChucSonTu (05-09-13),cưu an (01-04-14),minhman1970 (03-05-14),thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)
-
27-10-12, 23:18 #42
M-5/4 : Nam sinh ngày 21/5/1949 lúc 22,00’ .
[img]http://farm6.staticflickr.com/5115/5898669743_69c484672f_z.jpg[/img]
Qua sơ đồ ta thấy trong tứ trụ có : Hợi trụ giờ bị khắc trực tiếp, Tị bị khắc gần, không các tổ hợp.
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi được mô tả trên sơ đồ.
[img]http://farm6.staticflickr.com/5115/5898690425_9bf19a8d4a_z.jpg[/img]
Thân (Kim) nhỏ hơn Hỏa, vì vậy Nhật Chủ nhược (vì nếu sử dụng giả thiết 194/98 thì kiêu ấn không sinh được ½ đv của nó cho Thân). Thân nhược mà quan sát là kỵ 1, vì vậy dụng thần đầu tiên thường phải là kiêu ấn (Thổ), nhưng ở đây kiêu ấn lớn hơn Thân trên 20đv, vì vậy nếu sử dụng giả thiết 27/12 thì kiêu ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh. Cho nên dụng thần đầu tiên phải là tỷ kiếp (Kim) và dụng thần chính của nó là Canh tàng trong Tị trụ tháng.
Kim là dụng thần có -1đh. Hỏa khắc dụng thần Kim nên nó có 1đh. Thủy là kỵ thần có 0,5đh. Mộc khắc Thổ là kiêu ấn quá vượng làm lợi cho Thân nhiều hơn là làm hao tổn Thân, vì vậy nó được xem là hỷ thần có -0,5đh.
M-5/5 : Nam sinh ngày 8/7/1968 lúc 20,00’. Từ 4/2/2008 đến 8/7/2008 người này không có hạn.
[img]http://farm7.staticflickr.com/6037/5898833623_479a11faa0_z.jpg[/img]
1 - Nếu Mão trụ ngày ở trong hợp khắc được Kỷ cùng trụ cũng ở trong hợp thì điểm hạn và điểm vượng g vùng tâm của các hành như sau:
[img]http://farm6.staticflickr.com/5239/5898836405_a2ebd53d87_z.jpg[/img]
Thân (Thổ) có 1đv nhiều hơn thực thương, tài tinh và quan sát, vì vậy Nhật Chủ vượng. Nếu Thân vượng mà kiêu ấn và thực thương ít thì dụng thần đầu tiên thường phải là quan sát, nhưng nếu sử dụng giả thiết 57/ thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (Kim) và dụng thần chính của nó là Canh tàng trong Thân của trụ năm. Nếu như vậy thì điểm hạn của 6 tháng đầu năm 2008 là thấp mới có thể chấp nhận được.
Từ ví dụ này chúng ta đã tìm ra quy tắc :
Nếu can và chi trong cùng trụ đều bị hợp hóa cục hay không hóa cục thì chúng không có khả năng sinh hay khắc với nhau.
M-5/6 (xem ví dụ 45): Nam sinh ngày 5/9/1977 lúc 3,00’ am . Tháng 3/1978 bị đi kiết rất nặng.
[img]http://farm7.staticflickr.com/6036/5899263562_545467f61d_z.jpg[/img]
[img]http://farm6.staticflickr.com/5119/5899266580_45cc8d3abd_z.jpg[/img]
Từ ví dụ này chúng ta đã đưa ra giả thiết 82/45 :
Nếu can hay chi trong cùng trụ trong Tứ Trụ sinh được cho nhau thì can hay chi chủ sinh sẽ bị giảm ít nhất 1/10 đv của nó chỉ khi nó là thực thương.thay đổi nội dung bởi: VULONG, 29-10-12 lúc 04:40
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 4 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
cưu an (01-04-14),minhman1970 (03-05-14),thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)
-
27-10-12, 23:33 #43
Bảng lấy dụng thần khi Thân nhược
[img]http://farm7.staticflickr.com/6017/5899270084_06d649e877_z.jpg[/img]
(Chú ý : “Kiêu ấn quá nhiều* ”, nó có nghĩa là điểm vượng trong vùng tâm của kiêu ấn nhiều hơn của Thân ít nhấi 20đv).
Bảng lấy dụng thần khi Thân vượng
[img]http://farm6.staticflickr.com/5111/5899274424_8c00a17aac_z.jpg[/img]
Chú thích :
“Tỷ/kiếp – Quan/s >5đv”*, nó nghĩa là điểm vựợng trong vùng tâm của tỷ kiếp (Thân) nhiều hơn của quan sát ít nhất 5đv.
“Tỷ/kiếp - Hỷ/dụng 1 < 1,5đv”*, nó nghĩa là điểm vượng trong vùng tâm của Tỷ kiếp (Thân) không lớn hơn 1,5đv so với điểm vượng trong vùng tâm của hành là hỷ dụng thần số 1
Qua đây chúng ta thấy xác định dụng thần khi Thân vượng mà kiêu ấn ít là phức tạp nhất. Do vậy tôi hy vọng bạn đọc cùng tôi kiểm tra các quy tắc đã đưa ra ở đây và tìm thêm các quy tắc mới.
Thêm một quy tắc mới về xác định điểm vượng trong vùng tâm
Chủ đề “Một đánh giá về Thương Quan“ của Toahuongquy trong mục Tử Vi bên tuvilyso.org có đoạn viết:
“ 6, Trùm Thượng Hải Chu Bác Tuyền mệnh:
Mậu Tuất - Tân Dậu - ngày Mậu Tuất - Bính Thìn
Bát tự trùm Thượng Hải Chu Bác Tuyền, nhân thìn tuất xung, bính hỏa vô căn, không thể cấu thành thương quan phối ấn, chỉ có thể cấu thành thương quan hỉ tỉ cách, tẩu giáp tý ất sửu vận mặc dù gặp quan sát, nhân có thương quan hồi khắc, khiến cho không thể khắc tỉ kiếp mà phá cách, nên mệnh chủ có thể trên Bến Thượng Hải long tranh hổ đấu, dương danh lập vạn, được xưng đại gia công thương nghiệp "Nửa Thượng Hải". Đến sau bính dần vận, ấn tinh đắc địa, nhân có tỉ kiếp hóa tiết mà không thể cấu thành thương quan phối ấn cách, cho nên sự nghiệp như mặt trời lặn phía trời tây, không còn chói lọi. Cuối cùng trở thành một người trú tại khu hộ ở lều, làm tạp vụ công - trường kỳ bị quần chúng giám sát.“.
Ðoạn này tác giả luận về Tài Quan Ấn qua các cách cục về Thương Quan như: “thương quan phối ấn“, “thương quan hỉ tỉ cách“…. Nó thuộc trình độ cao cấp nên bài luận sau đây tôi chỉ dừng lại ở mức độ trung cấp là xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này thông qua các vận hạn đã biết của người này.
Sơ đồ Tứ Trụ như sau:
[img]http://farm7.staticflickr.com/6144/5929459048_b2825c9a90_z.jpg[/img]
Qua sơ đồ trên ta thấy Thân Thổ có 11,1đv trong vùng tâm nhỏ hơn điểm vượng trong vùng tâm của Thực Thương có 12,06đv, vì vậy Tứ Trụ này có Thân nhược và dụng thần phải là Kiêu Ấn /Ðinh tàng trong Tuất trụ năm.
Nếu Ðinh là dụng thần thì vào đại vận Ðinh Mão là vận dụng thần thì nó phải là đẹp nhất trong cuộc đời của người này nhưng thực tế lại ngược lại hoàn toàn, ông ta không còn một xu nào và phải đi ăn mày. Tại sao lại như vậy ? Ðiều này chứng tỏ Ðinh (Hỏa) không thể là dụng thần được mà phải là kỵ thần.
Ðể phù hợp với thực tế của ví dụ này thì dĩ nhiên Muốn Hỏa là kỵ thần thì bắt buộc Tứ Trụ này phải có Thân vượng.
Do vậy ta phải đưa ra quy tắc mới là:
“Nếu Thân nhược mà trong Tứ Trụ có 4 can chi tỷ kiếp (kể cả can ngày) thì điểm vượng trong vùng tâm của Thân được tăng 1đv, và 2đv nếu nó có từ 5 can chi tỷ kiếp trở lên“.
Nếu sử dụng quy tắc này thì Thân có thêm 2đv thành 11,1đv + 2đv = 13,1đv, vì vậy điểm vượng của Thân lớn hơn điểm vượng của Thực Thương 1đv nên Thân đã trở thành vượng.
Ðiều này có thể được giải thích như sau:
Thường thì trên thế giới khi các nước nhỏ chiếm đa số trên 50% thì khi bị một hay vài nước lớn nào đó xâm chiếm, hay áp bức, đô hộ thì họ sẽ đoàn kết để chống trả lại. Do vậy mà họ có thêm sức mạnh hơn là từng nước đơn phương chống lại các nước đó (ví dụ như các nước ở Ðông nam Á hiện nay về vấn đề Biển Ðông chẳng hạn).
Ta thử áp dụng quy tắc mới này để phân tích các vận trình đã qua của người này xem có phù hợp hay không ?
Nếu Tứ Trụ này có Thân vượng thì vì Thực Thương nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/Quý tàng trong Thìn trụ giờ. Thực Thương (Kim) và Quan Sát (Mộc) là hỷ thần.
Các vận Nhâm, Quý, Giáp và Ất đều là các vận hỷ dụng thần nên rất đẹp, vì vậy ông ta đã nổi tiếng và trở thành triệu phú.
Vận Bính Dần là kỵ vận nhưng may là Bính chỉ hợp và khắc Tân trụ tháng, nó không có khả năng sinh cho Thân (vì bị hợp) mà chi là Dần (Mộc) là hỷ thần có khả năng chế ngự Tỷ Kiếp (Thổ) trùng phùng (nhiều) trong Tứ Trụ. Vì vậy mà vận này ông ta mới chỉ bị hao tài chưa đến mức phải đi ăn xin.
Vận Ðinh Mão thiên khắc địa xung với trụ tháng Tân Dậu làm cho toàn bộ Kim (Thực Thương) trong Tứ Trụ bị thương tổn không thể hóa Thân vượng để sinh cho Tài (Thủy) được nữa. Mặt khác Ðinh còn có thể hóa Mão (Mộc) cùng trụ để sinh cho Thân. Thân vượng không bị xì hơi còn được sinh phù, dẫn đến Tỷ Kiếp nhiều trong Tứ Trụ đã tranh đoạt Tài với Thân. Do vậy mà ông ta đã mất hết tài sản và phải đi ăn mày trong vận này.thay đổi nội dung bởi: VULONG, 27-10-12 lúc 23:35
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
minhman1970 (03-05-14),thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)
-
29-10-12, 04:56 #44
Bài 15 : Sự xấu, tốt của đại vận và lưu niên
Chương 12
Cát hung của đại vận và lưu niên
1 – Cát hung của đại vận và lưu niên khi chưa tính đến các lực hình, xung, khắc, hại, hợp giữa các can chi với nhau
a - Ðại vận hay lưu niên đẹp nhất là can của chúng giống với dụng thần chính, sau mới đến dụng thần phụ (vì khác dấu), cuối cùng mới đến các can có hành là các hỷ thần. Chi đại vận và chi lưu niên chỉ có tác dụng làm cho cho các đại vận hay lưu niên đó tốt thêm một chút nếu chúng mang hành của hỷ dụng thần hay giảm tốt một chút nếu chúng mang hành của kỵ thần.
b - Các đại vận hay lưu niên có can mang hành của kỵ thần là xấu, trong đó can đại vận vượng mà khắc được dụng thần chính là hung vận, tức là vận xấu nhất. Các chi của chúng cũng chỉ có tác dụng làm thay đổi một phần sự tốt xấu của tuế vận.
c - Can đại vận là hỷ dụng thần thì 10 năm đó thường là đẹp còn là kỵ thần thì 10 năm đó thường là xấu. Can lưu niên là hỷ dụng thần thì chỉ đẹp tại năm đó còn là kỵ thần thì cũng chỉ xấu tại năm đó.
2 – Cát hung của đại vận và lưu niên khi đã tính đến các lực hình, xung, khắc, hại, hợp giữa các can chi với nhau
a - Khi can hay chi của lưu niên, đại vận hợp với các can chi khác hóa cục có hành là hỷ hay dụng thần là tốt còn hóa thành kỵ thần là xấu.
b - Nếu các can của tuế vận bị hợp nhưng không hóa thì tuế vận này thường bị giảm tốt rất nhiều nếu chúng là hỷ dụng thần (nhất là chúng bị khắc) và giảm xấu nếu chúng là kỵ thần (nhất là chúng bị khắc), còn các chi của tuế vận hợp mà không hóa thì thường là tốt bởi vì nó thường giảm được nhiều các lực hình, xung, khắc và hại giữa các chi với nhau.
c - Nói chung nếu các can chi, nạp âm trong tứ trụ và ở tuế vận, tiểu vận mà hình, xung, khắc, hại với nhau nhiều hay chúng hóa thành các cục là kỵ thần cũng như chúng hóa thành 2 hay nhiều hóa cục khắc nhau, thì năm đó bất kể đang là đại vận hay lưu niên là hỷ dụng thần cũng thường trở thành xấu, nặng có thể dẫn đến tử vong.
(Nếu theo một số sách mệnh học cổ truyền thì trong 10 năm của đại vận, 70% xấu hay tốt của 5 năm đầu của đại vận chủ yếu do thiên can của đại vận đó quyết định, địa chi chỉ quyết định 30%, còn 70% xấu hay tốt của 5 năm sau chủ yếu do địa chi của đại vận đó quyết định, còn thiên can chỉ quyết định 30%.)
Ví dụ minh họa sau đây (trích trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“) có thể giải đáp được một phần thắc mắc cho nhiều người là môn Tứ Trụ có giúp được gì cho chúng ta trong cuộc sống ?
Ví dụ 140: Tổng thống Ðức Horst Koehler sinh ngày 22/2/1943 lúc 20,00’ (?) có Tứ Trụ:
[img]http://farm7.staticflickr.com/6122/5948261878_e28c2712d9_z.jpg[/img]
Tứ trụ này có Thân khá nhược mà Tài tinh là kỵ thần số 1, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tỷ kiếp/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Các đại vận hỷ dụng thần của Tứ Trụ này là Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu và Mậu Thân (được xác định theo hàng can như trong lý thuyết tôi đã phân tính – 10 năm trong một đại vận chúng liên quan tới 10 thiên can), còn các đại vận kỵ thần là Quý Sửu, Nhâm Quý, Ðinh Mùi…trong chúng đại vận Ðinh Mùi thường là xấu nhất bởi vì nó khắc dụng thần chính là Tân của Tứ Trụ này nhưng ở đây không xấu bởi vì nó đã bị Quý trụ năm là Thực chế ngự. Vận Sát (Ðinh) có Thực thần (Quý) chế ngự thường là vận “Anh hùng áp đảo vạn người“.
Trong Tứ Trụ có các thông tin đẹp như Mậu trụ giờ là Ấn vượng, nó đại diện cho con dấu tức là chức vụ và quyền lực của quan lại trong xã hội, nó cũng đại diện cho học vấn, nghề nghiệp, bằng cấp…; và “Thực Thương sinh Tài thì phú quý sẽ tự nhiên đến“, đó chính là Quý trụ năm là Thực vượng sinh Giáp ở trụ tháng là Tài cũng vượng. Mặc dù chúng là các thông tin rất đẹp nhưng làm thế nào để cho chúng có thể trở thành hiện thực ?
Thân (Kim) nhược nó rất cần nhận được sự sinh của Ấn (Thổ), vì vậy người này nên làm các nghành nghề hay công việc liên quan tới Ấn, nó chính là làm công nhân viên chức nhà nước (tức làm công ăn lương). Bởi vì nếu dựa vào thông tin Thực Thương sinh Tài mà đi vào kinh doanh làm ăn cá thể (tức làm ông chủ) thì ở Tứ Trụ này, Thân khá nhược còn bị Thực Thương xì hơi để sinh cho Tài, vì vậy nó sẽ dẫn đến Thân càng nhược mà Tài càng vượng, Thân không thắng được tài thì vì tài mà gặp tai họa. Khi đó làm sao có “...phú quý tự nhiên đến“ được nữa mà là “...tai họa tự nhiên sẽ đến”.
Không biết có ai cố vấn cho ông ta không mà các vận Tân Hợi tới Mậu Thân (từ tháng 2/1969 tới tháng 2/2009) ông ta đã làm công nhân viên chức của chính phủ đúng theo mệnh nên Thân vượng (đều là các vận là hỷ dụng và nghành nghề - công chức - bên ngoài bổ xung thêm) đã liên tiếp được thăng quan tiến chức ầm ầm cả trong nước Ðức và Europa, rồi cuối cùng được làm tổng thống nước Ðức. Rõ ràng ở đây “Phú quý tự nhiên đã tới“ với ông ta, dĩ nhiên Quý (chức vụ) nhiều hơn Phú (tiền, của cải) bởi vì Thân khá nhược nên vào các vận hỷ dụng cũng không thể phát Tài to được.
Chúng ta thử xem vận Ðinh Mùi có phải là vận “Thực thần chế Sát anh hùng áp đảo vạn người“ hay không?
Năm Kỷ sửu (2009) bắt đầu đại vận Ðinh Mùi là kỵ vận (nhưng nó không phải là hung vận - tức vận khắc dụng thần - vì có Quý trụ năm chế ngự) nhưng may mắn có Giáp trong Tứ Trụ hợp Kỷ đại vận hóa Thổ thành công mà Thổ là hỷ thần, thêm Quý trụ năm vượng ở lưu niên chế ngự được Ðinh đại vận. Do vậy năm Kỷ Sửu mặc dù có tam hình Sửu Mùi Tuất vẫn được xem là một năm đẹp (nhưng chưa thấy gì là áp đảo vạn người cả),
Năm Canh Dần (2010) có Dần lưu niên hợp thêm với Hợi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Vì vậy Mộc cục có thể xì hơi Quý (Thủy) để sinh cho Ðinh (Hỏa). Sát (Ðinh) không bị chế ngự lại được sinh càng vượng khắc Thân (Kim) là Canh và Tân. Thổ trong Tứ Trụ ở trạng thái tĩnh (Mậu, Mùi và Tuất) nên không có khả năng hóa Ðinh (Hỏa) để sinh cho Thân (Kim), vì vậy Thân (Kim) đã bị tổn thương. Thực tế ông ta đã bị chỉ trích quá nặng đành phải từ chức về hưu vào ngày 31/5/2010.
Chúng ta thử xem nguyên nhân nào dẫn đến ông ta bị chỉ trích nặng nề như vậy? Nguyên nhân chính gây ra chính là Mộc cục mà Mộc trong Tứ Trụ này là Tài tức tiền hay gái. Dĩ nhiên gái thì không phải rồi nên chỉ còn nguyên nhân là tiền nhưng không thấy ôn ta dính dáng đến tiền long gì cả. Vậy thì nó là cái gì liên quan đến tiền ở đây ? Ðó chính là khi đến thăm Afghanistan ông ta đã phát biểu đại loại (không liên quan tới trách nhiệm của ông ta) là nước Ðức can thiệp vào Afhanistan là để tuyên truyền, quảng cáo...nhằm nâng cao uy tín của nước Ðức trên thị trường thế giới để duy trì và ký kết thêm được nhiều hợp đồng làm ăn kinh tế với các nước trên thế giới.... Ðúng là sự chỉ trích ông ta có liên quan đến tiền (Tài - Mộc) thật.thay đổi nội dung bởi: VULONG, 03-11-12 lúc 08:27
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
cưu an (01-04-14),minhman1970 (03-05-14),thucnguyen (08-11-12)
-
29-10-12, 04:59 #45
Bài 16 : Các cách giải cứu cơ bản
Chương 18
Các cách giải cứu cơ bản
I – Đặt tên (điều quan trọng nhất)
Khi trẻ mới được sinh ra chúng ta phải xác định ngay tứ trụ của nó, sau đó xác định điểm vượng vùng tâm của các hành và dụng thần chính của tứ trụ. Qua sự mạnh hay yếu của các hành với dụng thần chúng ta sẽ biết được dụng thần có lực hay không có lực để đặt tên mang hành của dụng thần nhiều hay ít cho phù hợp.
Ví dụ : Nếu dụng thần của tứ trụ là Thủy mà hành Hỏa hay Thổ quá vượng thì phải đặt tên có hành Thủy nhiều như Biển, Sông, Hồ, mưa,….. , còn nếu Thủy không quá yếu, Hỏa và Thổ không quá mạnh thì chỉ cần đặt tên có hành Thủy yếu như Hơi Nước, Sương Mù, …… . Nếu Thổ quá vượng mà Mộc là hỷ thần thì có thể đặt tên mang hành Mộc có lợi hơn tên mang hành Thủy cho dù dụng thần vẫn là Thủy, nhất là khi Thủy không quá nhược trong tứ trụ,…….Hoặc nếu Kim là hỷ thần thì cũng có thể đặt tên mang hành Kim, vì Kim có khả năng hóa Thổ để sinh cho dụng thần Thủy. Dụng thần của các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy để đặt tên.
II – Phương hướng cần sinh sống (quan trọng thứ 2)
Sau cách đặt tên thì đến phương để sinh sống cũng rất quan trọng trong việc giải hạn, vì nếu dụng thần mang hành nào thì người này nên sống ở phương mang hành đó là tốt nhất. Theo môn Tứ Trụ thì phương ở đây được so với nơi người này được sinh ra (hiện giờ tôi vẫn chưa biết chính xác là phải cách vị trí được sinh ít nhất là 10km; 20km hay 30km).
1 - Thủy là dụng thần bị Thổ khắc
Nếu Thủy là dụng thần thì người này nên sống về phương bắc so với nơi người này được sinh ra, vì phương bắc là phương của Thủy vượng nó sẽ hỗ trợ một phần Thủy cho dụng thần Thủy và làm Thổ bị suy yếu đi một phần. Tại một năm đã được dự đoán có hạn rắt nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Thổ và Hỏa thì nó cần rất nhiều Thủy để giải cứu, người này ở phương bắc chưa đủ mà phải xuống sống ở dưới thuyền như dân chài lưới ở sông hay biển. Nếu như làm được một căn nhà bằng thủy tinh và nó được đặt ở khoảng giữa đáy và mặt nước của một cái hồ lớn và sâu để sống qua khoảng thời gian mà hạn có thể xẩy ra là lý tưởng nhất (?).
Bởi vì thủy tinh mang hành Kim, nó có khả năng sinh cho dụng thần Thủy, nhưng điều quan trọng hơn là sống trong ngôi nhà thủy tinh, người đó luôn luôn nhìn thấy các phía đều là nước bao bọc, đó chính là con đường mà Thủy có thể vào được tứ trụ của người này để phù trợ cho dụng thần Thủy mạnh hơn cũng như nó có thể ngăn cản được phần lớn các tác dụng xấu từ bên ngoài của các hành Hỏa và Thổ tới dụng thần Thủy trong tứ trụ của người này (?).
Ví dụ : Giả sử qua tứ trụ của một người, chúng ta xác định được người này sẽ có hạn nặng vào năm X. Tai họa này sẽ được gây ra bởi các tác động xấu từ vũ trụ tới tứ trụ của người này tại năm đó. Các tác động xấu này bắt buộc phải xuyên qua lớp nước dầy này mới đến được tứ trụ của người này, cho dù chúng đi từ trong lòng của trái đất lên. Cho nên lớp nước dầy này có thể sẽ ngăn cản được phần lớn các tác động xấu này, vì vậy tai họa tại năm đó có thể sẽ không còn nặng như vậy.
Ngoài ra có thể dùng Mộc (nếu Mộc là hỷ thần và dụng thần Thủy không quá nhược) để giải cứu (như câu 4), hoặc dùng Kim (nếu Kim là hỷ thần) vì Kim có khả năng hóa Thổ để sinh cho dụng thần Thủy (như câu 5).
2 - Thổ là dụng thần bị Mộc khắc
Nếu dụng thần Thổ không quá nhược mà Kim là hỷ thần, thì người này nên sống ở phương Tây so với nơi sinh, vì phương Tây là phương của Kim vượng nó sẽ làm cho Mộc bị suy yếu đi một phần. Giả sử tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Mộc khắc dụng thần Thổ thì tốt nhất người này nên đi về phương tây và sống trong lòng một mỏ sắt, bởi vì dụng thần Thổ được lòng đất mẹ che trở và khí Kim hộ vệ (vì là mỏ sắt). Nếu cẩn thận thì từ cửa hang vào bên trong treo vài trăm thanh gươm hay kiếm của các võ sĩ Tầu hay Nhật (nhớ phải vứt bỏ bao) thì bố khí Mộc dám bén mảng tới. Tất nhiên về logic là như vậy nhưng nó có giải cứu được hay không thì chúng ta phải có các thực nghiệm mới có thể biết được.
Nếu Dụng thần Thổ quá yếu mà Hỏa là hỷ thần thì đầu tiên phải lấy Hỏa để giải cứu, vì Hỏa có khả năng hóa Mộc để sinh cho dụng thần Thổ, vì vậy người này nên sống ở phương nam là phương của Hỏa vượng (như câu 3).
3 – Hỏa là dụng thần bị Thủy khắc
Nếu Hỏa là dụng thần mà bị Thủy khắc thì người này nên sống ở phương nam vì phương nam là phương của Hỏa vượng sẽ bổ xung một phần Hỏa cho dụng thần và làm Thủy suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Thủy khắc Hỏa thì tốt nhất người này đi về phương nam và sống trong rừng già (vì nó có Mộc nhiều) và ở phía nam của một ngọn núi lửa đang hoạt động. Khí Thủy từ phương bắc xuống phải qua ngọn núi lửa mới đến được người này thì tất nhiên nó phải bị suy yếu đi rất nhiều. Gần ngọn núi lửa cũng như ở gần bếp lò rèn Hỏa nhiều sẽ hỗ trợ được phần nào cho dụng thần Hỏa và nếu người này còn sống trong rừng già thì càng tốt vì có thêm Mộc của rừng già sẽ hóa một phần nào Thủy để sinh cho dụng thần Hỏa.
Nếu Thổ là hỷ thần và dụng thần Hỏa không quá nhược thì ta có thể dùng Mộc để giải cứu (như câu 2), hoặc nếu Mộc là hỷ thần thì ta có thể dùng Mộc để giải cứu (như câu 4).
4 – Mộc là dụng thần bị Kim khắc
Người này nên sống ở phương đông, vì phương đông là phương Mộc vượng sẽ hỗ trợ một phần Mộc cho dụng thần Mộc và làm cho khí Kim bị suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Kim khắc Mộc thì tốt nhất người này chui vào một gốc cây cổ thụ trong rừng già ở phía đông để sống hoặc sống trong một ngôi nhà bằng gỗ được đặt ở khoảng giữa đáy và mặt nước của một cái hồ lớn và sâu để sống qua khoảng thời gian mà hạn có thể xẩy ra. Bởi vì ở giữa lòng hồ Thủy quá vượng, nó sẽ hóa được phần lớn khí Kim từ vũ trụ đến để sinh cho dụng thần Mộc.
Nếu Hỏa là hỷ thần và dụng thần Mộc không quá nhược thì ta có thể dùng Hỏa để giải cứu (như câu 3), hoặc nếu Thủy là hỷ thần thì ta có thể dùng Thủy để giải cứu (như câu 1).
5 – Kim là dụng thần bị Hỏa khắc
Người này nên sống ở phương tây bởi vì phương tây là phương Kim vượng sẽ hỗ trợ một phần Kim cho dụng thần Kim và làm cho khí Kim bị suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Hỏa khắc Kim thì phải dùng Kim để giải cứu (như câu 2) .
Nếu dụng thần Kim không quá nhược mà Thủy là hỷ thần thì ta có thể dùng Thủy để giải cứu (như câu 1).
III - Lấy chồng hay lấy vợ (điều quan trọng thứ 3)
Lấy chồng hay lấy vợ cũng là một cách giải hạn khá quan trọng. Nếu trụ năm của người chồng và người vợ của anh ta là thiên hợp địa hợp với nhau thì nó thường là tốt và nó là tốt nhất khi chúng hóa thành hỷ dụng thần của cả hai người, nhưng nếu chúng hóa thành kỵ thần khắc dụng thần của một trong hai người hoặc cả hai người thì nó có thể là xấu nhất. Cái cần tránh nhất là trụ năm của hai người không được TKĐK với nhau, vì nếu như vậy thì lúc nào hai người cũng đã có một ít về điểm hạn khắc nhau.
Ngoài ra 2 người nên chọn sao cho các hành nào đó của người này nhiều có thể bù trừ cho sự thiếu hụt của người kia. Có như vậy thì cuộc sống của hai người sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Ví dụ : Nếu dụng thần của người này là Mộc mà hành Mộc của người kia lại nhiều là rất tốt, nhất là Mộc lại là tài tinh chẳng hạn thì tiền tài dễ kiếm....
IV – Ngăn chặn về hình, tự hình và hại
Chúng ta đã biết hình và hại do các địa chi gây ra mà các địa chi là đất, nó nghĩa là đất nước mà con người đang sống ở trong đó. Đó chính là xã hội của con người, nó vô cùng phức tạp, ở trong đó phát sinh ra mọi thứ tệ nạn xã hội từ tốt đến xấu. Một trong các tệ nạn xấu của xã hội đó chính là con người làm hại lẫn nhau, chúng được gọi là hình và hại, còn nếu do chính các thói xấu của mình mà làm hại chính mìmh được gọi là tự hình. Do vậy nếu một ai muốn giải cứu các tai họa được gây ra bởi các điểm hạn chính của hình, tự hình hay hại thì tất nhiên người này phải rời xa những người đó, xã hội đó, với mọi tham vọng hay tuyệt vọng của chính mình. Một trong các cách giải cứu này là bãi quan, từ chức rút về ở ẩn trong rừng hay trên núi cao hoặc trong các chùa, nhà thờ,…… nghĩa là sống cách ly với xã hội và con người.
Đối với trẻ em còn bé nhỏ thì các bậc cha mẹ, anh chị em, người lớn …. phải hết sức chú ý và chăm sóc tốt cho em bé đó. Bởi vì hình và hại có thể do người lớn gây ra hoặc do chính em bé đó đùa nghịch mà gây lên.
V - Nghề nghiệp và mầu sắc
Mầu sắc của quần áo mặc hay các thứ trong nhà (cây cảnh, bàn, ghế, giường, tủ....) cũng như khi trưởng thành nên làm những nghành, nghề theo đúng hành của dụng thần thì cuộc sống chắc chắn sẽ thuận lợi hơn nhiều (vì chúng cũng có một phần nào bổ xung thêm cho hành làm dụng thần).
VI - Các hạn chưa có cách nào để ngăn chặn
Các hạn được gây ra bởi các điểm hạn của thiên khắc đia xung, nạp âm, các hợp cục gây ra đại chiến, đại chiến 1 hay đại chiến 2,…….. thì đến giờ tôi vẫn chưa có một ý tưởng nào để ngăn chặn chúng.
Các cách ngăn chặn (giải cứu) cơ bản ở trên tôi cũng chỉ từ các suy luận có lý mà đưa ra, còn chúng có giá trị hay không thì tôi chưa biết. Bởi vì năm 2004 tôi mới được biết đến môn này qua cuốn Dự Đoán Theo Tứ Trụ của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa. Sau đó tôi tự nghiên cứu không có thầy và bạn, vì vậy tôi chưa có thời gian và điều kiện để thử nghiệm chúng trong cuộc sống.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
minhman1970 (03-05-14),thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)
-
29-10-12, 05:14 #46
Đại Vận Can trọng hơn Chi
Sau đây là bằng chứng để khẳng định xét Đại Vận phải lấy Can của đại vận làm trọng (tức Can đại vận có tính chất quyết định tốt xấu nhiều hơn Chi đại vận).
“Chương 25 - Luận Hành Vận“ của cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ được đăng bên trang web “Tử Bình - Mệnh Lý“.
Ngay đoạn đầu tiên của chương này sách đã viết:
“Nguyên văn (do tác giả là Trầm Hiếu Chiêm viết):
Phương pháp luận Vận và xem Mệnh cũng không khác nhau. Xem Mệnh lấy can chi Tứ Trụ phối với hỷ kỵ nguyệt lệnh, còn thủ Vận thì lại lấy can của Vận phối với hỷ kỵ Bát Tự. Cho nên ở hành Vận, mỗi Vận là một chữ, tất lấy chữ này phối với can chi trong Mệnh để thống nhất xem toàn cục, là hỷ hay kỵ, cát hung phân rõ ra“.
Rõ ràng đoạn này tác giả Trầm Hiếu Chiêm đã khẳng định : “…lấy Can của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự“, nghĩa là đại vận chỉ lấy Can chứ không lấy cả Chi như xem Mệnh : “Xem Mệnh lấy Can Chi (trong) Tứ Trụ phối với hỷ kỵ nguyệt lệnh“. Tác giả còn nói rõ hơn “Cho nên ở hành Vận, mỗi Vận là một chữ“, tức chữ này đã là Can đại vận rồi thì còn đâu chữ thứ hai mà động chạm tới Chi đại vận nữa cơ chứ.
Vậy mà Từ Lạc Ngô đã bình (giảng giải):
“Từ chú thích :
…….Riêng Vận lấy phương làm trọng, tức quan trọng Dần Mão Thìn Đông phương, Tị Ngọ Mùi Nam phương, Thân Dậu Tuất Tây phương, hoặc Hợi Tý Sửu Bắc phương“.
Tức người bình muốn nói là : “Xét Vận phải lấy Chi của Vận làm trọng“.
Điều này rõ ràng người bình đã trắng trợn thay đổi ý của tác giả từ “…lấy Can của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự“ thành “lấy Chi của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự“.
Vậy thì tại sao đến tận bây giờ người ta vẫn hầu như chỉ tin là khi xét đại vận thì phải lấy Chi làm trọng ?thay đổi nội dung bởi: VULONG, 03-11-12 lúc 08:32
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
minhman1970 (03-05-14),thucnguyen (08-11-12),trung1521980 (26-11-13)
-
04-11-12, 00:22 #47
Theo yêu cầu của một số người tôi đã đăng lên toàn bộ "Bảng xác định lệnh tháng của lịch Can Chi" từ năm 1898 đến 2018 ở "Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ".
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
congtacvien (14-12-12),cưu an (01-04-14),thucnguyen (08-11-12)
-
23-01-14, 05:40 #48
Một giả thiết mới về xác định điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm
Sau đây là ví dụ 146 trong chương 25 : “Luận Hành Vận“ của cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ của Từ Nhạc Ngô:
“146 – Như mệnh của Hoàng Đô Đốc:
Kỷ...............Kỷ................Giáp...... ..........Bính
Mùi..............Tị..................Dần..... ...........Dần
Các đại vận: Mậu Thìn / Đinh Mão / Bính Thìn / Ất Sửu / Giáp Tý / Quý Hợi / Nhâm Tuất
Giáp Mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần, Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy, duy chỉ có Hỏa nhiều thì gặp tai họa bị cháy thiêu. Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết, duy cuối cùng chỉ sợ thiên lệch, quý nhiều liền muốn nối gót, hành vận vẫn cần đất của Ấn Kiếp. Vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp, tuy mệnh tạo vốn cũng cần có vận trợ giúp vậy“.
Rõ ràng tác giả viết: “Giáp Mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần“ nên tác giả kết luận: “Nhật Nguyên quá vượng“, nghĩa là Thân quá vượng. Bởi vì tác giả tin vào câu mà các cổ nhân để lại là : “3 can không bằng 1 chi Lộc Nhận“ mà ở đây Dần là chi Lộc của Giáp (tức Giáp ở trạng thái Lộc tại Dần).
Chính vì cái câu “Bất Hủ“ không thể sai được này nên cho dù thực tế cho biết qua 4 vận “Vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp“, tức là can chi đều theo phương Thủy Mộc nên có theo trường phái Can trọng hay Chi trọng đều phải kết luận Thủy và Mộc của Tứ Trụ này phải là hỷ dụng thần, tức Tứ Trụ này Thân phải nhược. Chính vì vậy tác giả không còn cách nào khác đành phải “Đẽo, Gọt“ cho nó phù hợp với Thân Vượng như sau:
Đầu tiên tác giả cho rằng : “Nhật Nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy“, có nghĩa tác giả cho rằng Thân vượng mà có Thực Thương thì Thân càng vượng càng đẹp, tức là theo tác giả thì Tứ Trụ này có Thân vượng vẫn có thể lấy Tỷ Kiếp làm hỷ dụng thần cho dù Tứ Trụ này không phải ngoại cách, rõ ràng đây là một điều ngụy tạo Trắng Trợn. Chưa hết tác giả còn cho rằng: “Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí Hỏa tiết…“ trong khi Hỏa nắm lệnh còn có Bính thấu và được Mộc sinh. Nói chung chúng ta thấy tác giả thỏa sức “Đẽo, Gọt“ cứ như xung quanh không có ai cả ấy.
Điều này đủ để chứng minh câu “3 can không bằng 1 chi Lộc Nhân“ là sai. Vậy thì “Phương Pháp Xác Định Thân Vượng hay nhược và dụng thần“ của tôi liệu có thể giải đáp để cho thực tế phù hợp với ví dụ này hay không?
Theo phương pháp của tôi thì sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này như sau:
[img]http://farm3.staticflickr.com/2873/12092667416_6b01150094_o.png[/img]
Theo sơ đồ trên thì Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Thân Mộc lớn hơn Hỏa trên 1 điểm vượng). Nếu điểm vượng trong vùng tâm của Hỏa chỉ cần tăng thêm 0,09 đv thì Tứ Trụ này sẽ trở thành Thân Nhược, vì lúc đó Mộc có 19,04 đv không lớn hơn Hỏa 1 đv (Hỏa có 17,96 + 0,09 = 18,05 đv).
Chỉ cần dừng ở đây cũng đủ để chứng minh Tứ Trụ này có Thân chỉ hơi vượng chứ không như sách đã kết luận “Nhật Nguyên quá vượng“. Theo lý thuyết của tôi thì Chi ở trạng thái Lộc hay Nhận chỉ được thêm 4,05 hay 4,3 đv nên nếu can ở trạng thái Tử, Mộ hay Tuyệt thì chi Lộc hay Nhận của nó cũng không thể gấp 3 lần can được còn nếu can được lệnh hoặc ở trạng thái suy hay bệnh thì chi Lộc hay Nhận không thể gấp 2 lần can được.
Nhưng còn để cho Tứ Trụ này phù hợp với thực tế thì ta cũng phải “Đẽo, Gọt“ như thế nào để cho Thân phải nhược một cách hợp lý chứ không thể “Gọt, Đẽo“ mà lại “Trắng Trợn“ như sách này được.
Từ trước tới nay tôi mới tìm thấy các ví dụ chứng minh được can chi cùng trụ trong một số trường hợp có thể sinh được cho nhau cũng như điểm vượng của Kiêu Ấn trong vùng tâm có thể sinh được ½ đv của nó cho Thân chứ chưa tìm được một ví dụ nào có thể chứng minh được Chi sinh được cho Chi cũng như Can có thể sinh được cho Can.
Tương tự như can chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau thì ở ví dụ này ta thấy Dần trụ ngày có Dần bên cạnh là trụ giờ trợ giúp nên ta có thể đưa ra giả thiết nó cũng có thể sinh được cho Tị là trụ tháng ở ngay bên cạnh một số đv nào đó là hợp lý.
Để đơn giản ta đưa ra giả thiết :
Nếu 1 chi A trong Tứ Trụ có chi bên cạnh là B mang hành sinh cho nó hay giống nó (cho dù chi B ở trong hợp hóa hay không hóa, nếu đã hóa thì hành mới và hành cũ đều có tính chất giống nhau) mà chi A lại có thể sinh được cho chi C bên cạnh nó thì điểm vượng trong vùng tâm của hành chi C sẽ được thêm ít nhất 0,09 đv (để đơn giản ta lấy 0,1 đv) chỉ khi chi A và C không bị khắc gần hay trực tiếp hay ở trong hợp (trừ khi Chi chủ khắc trực tiếp ở trong hợp).
(Vì ở đây mà lấy điểm vượng của chi Dần trụ ngày sinh cho điểm vượng của Tị trụ tháng thì phức tạp mà chưa chắc đã đúng.)
Nếu sử dụng giả thiết này thì Hỏa có 17,96 đv + 0,09 đv = 18,05 đv. Theo lý thuyết của tôi thì với số điểm này Thân chỉ có 19,04 không lớn hơn Hỏa 1 đv nên Thân không thể được coi là vượng được và dĩ nhiên như vậy thì Kiêu Ấn, Tỷ Kiếp phải là hỷ dụng thần của Tứ Trụ này nên nó phù hợp với thực tế của ví dụ này.thay đổi nội dung bởi: VULONG, 23-01-14 lúc 06:50
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
cưu an (01-04-14),thucnguyen (05-09-17)
-
27-01-14, 21:00 #49
Tứ Trụ này không thể thuộc ngoại cách vì:
1 - Nếu là cách Mộc độc vượng thì Mộc phải nắm lệnh và Mộc phải là hành thống trị trong Tứ trụ, đằng này Mộc không nắm lệnh và chỉ ngang ngửa với Tài. Vậy thì làm sao có thể thành cách Mộc độc vượng được.
2 - Nếu là cách Tòng Nhi (tức Tòng Thực Thương) thì hành vận Kiêu Ấn là Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất phải xấu, đằng này cả 4 vận đều đẹp.
3 - Nếu cho là Tòng Tài thì lại càng sai vì Thân và Tài ngang ngửa với nhau (mỗi bên đều có 3 can chi và cùng không nắm lệnh, Thổ có ưu thế hơn Mộc do được lệnh nhưng lại bị khắc bởi Mộc nên thành hòa).
Kết hợp với tác giả đã cho biết tất cả 4 vận Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi và Nhâm Tuất) đều rất đẹp đã khẳng định Thân của Tứ Trụ này phải nhược. Bởi vì Thân nhược thì mới cần đến sự sinh trợ của Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (khi nó không phải là ngoại cách).
Hoàn toàn tương tự như lý thuyết của tôi đã tìm ra là Can Chi cùng trụ trong một số trường hợp có thể sinh cho nhau được. Cụ thể như ví dụ này thì Dần trụ giờ có Dần bên cạnh là trụ ngày cùng hành nên Dần trụ giờ có thể sinh được cho Bính cùng trụ 1/3 đv của nó (còn nếu chi bên cạnh mà mang hành sinh cho nó thì nó có thể sinh được cho Bính cùng trụ ½ đv của nó) chỉ khi Dần và Bính trụ giờ không bị khắc gần hay cùng bị hợp. Do vậy chúng ta không có lý do gì mà không thể ứng dụng lý thuyết này cho Chi sinh cho Chi.
Nếu ứng dụng giả thiết này cho Chi thì ta thấy Dần trụ ngày có Dần trụ giờ cùng hành ở bên cạnh nên nó có thể sinh được 1/3 đv của nó cho Tị trụ tháng cũng ở bên cạnh nó vì Dần trụ ngày và Tị trụ tháng không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.
Nếu như vậy thì Dần trụ ngày sinh được cho Tị trụ tháng (4,05 + 4,83).1/3 đv = 2,96 đv. Do vậy Tị có 10 đv được nhận thêm 2,96 đv thành 12,96 đv. Tị không bị can chi nào khắc nên khi đi vào vùng tâm chỉ bị giảm 2/5 đv còn 12,96.3/5 đv = 7,78 đv. Như vậy hành Hỏa trong vùng tâm có tới (11,96 + 7,78) đv = 19,74 đv.
Dĩ nhiên Tị trụ tháng có Dần trụ ngày mang hành sinh cho nó thì nó cũng có thể sinh được ½ đv của nó cho Mùi trụ năm vì Tị và Mùi không bị khắc gần, trực tiếp hay ở trong hợp (Mùi chỉ bị khắc xa bởi 2 Dần). Mùi có 10 đv nhận được ½ đv của Tị là (10 + 2,96).1/2 đv = 6,48 đv thành 16,48 đv. Điểm vượng của Mùi bị giảm 1/5 đv do Dần khắc cách 1 ngôi, 1/10 đv do Dần trụ giờ khắc cách 2 ngôi và khi đi vào vùng tâm bị giảm thêm ½ đv nữa còn 16,48.4/5 . 9/10 . 1/2 đv = 5,93 đv. Do vậy điểm vượng trong vùng tâm của Thổ là (5,93 + 5,13 +6,67) đv = 17,73 đv.
Thân Mộc có 19,04 đv, Hỏa có 19,74 đv. Thân của Tứ Trụ này là nhược vì nó không lớn Hỏa 1 đv, do vậy nó đã hoàn toàn phù hợp với thực tế của ví dụ này.
Để kiểm tra giả thiết này tôi đã Lọ Mọ tính lại gần 300 ví dụ mẫu trong sách của tôi thì thấy không một ví dụ nào trong các ví dụ này mà Thân hay dụng thần của chúng thay đổi. Do vậy tôi có thể nói rằng đây là ví dụ đầu tiên đã chứng minh được Chi có thể sinh được cho Chi như Can và Chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau.
Còn Can có thể sinh được cho Can hay không thì ta đành phải chờ đợi và hy vọng sẽ lại may mắn tìm được 1 ví dụ tương tự như ví dụ này.
Đừng có ai Ngớ Ngẩn mà tin rằng khi tác giả đã khẳng định “Nhật Nguyên quá cường vượng …cần được tiết tú….“ , lại cho rằng tác giả lấy Kiêu Ấn là Thủy để điều hầu nên 4 vận Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mới đẹp như vậy. Ở đây Thân quá cường vượng mà Thủy là Kiêu Ấn mà lấy Thủy điều hầu thì không phải ngũ hành sinh hóa hữu tình nữa mà thành ngũ hành sinh hóa Thất Tình (tức càng xấu hơn là không điều hầu). Bởi vì khi đó Tứ Trụ không còn nóng nữa mà mát mẻ nên ngũ hành thoải mái sinh phù và khắc nhau (nếu sinh hóa dẫn đến những điều đẹp thì gọi là Hữu Tình còn sinh hóa dẫn đến những sự xấu thì nói cho là Vô Tình hay Thất Tình). Do vậy nếu Thân nhược thì vô cùng tốt đẹp vì Kêu Ấn (Thủy) áp chế Hỏa để sinh cho Thân, Thân trở nên vượng hơn sẽ thắng được Tài (tức kiếm được tiền, vợ…) rồi Tài nhiều sẽ sinh Quan, tức là đẹp đủ đường trong khi nếu Thân vượng thì hoàn toàn ngược lại. Kiêu Ấn (Thủy) chế ngự Hỏa để sinh Thân, Thân đã vượng không được xì hơi lại còn được sinh nên càng vượng hơn sẽ kiếp Tài, dẫn đến hao tài tốn của, hình khắc vợ con (vì Thân quá cường vượng thì Tỷ Kiếp lúc này không cần phải liên kết với Thân mới thắng được Tài nữa mà mạnh ai người đó tranh đoạt Tài với nhau và với Thân nên cực xấu là như vậy).thay đổi nội dung bởi: VULONG, 27-01-14 lúc 21:37
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 2 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
kell.Nguyen (28-03-14),minhman1970 (03-05-14)
-
30-01-14, 20:35 #50
Với ví dụ trên là ví dụ đầu tiên đã khẳng định Chi có thể sinh cho Chi ít nhất (Min) 0,09 đv trong vùng tâm. Sau đó cũng ví dụ này tôi đã thử cho Chi sinh cho Chi cũng theo tỷ lệ ½ và 1/3 giống như Can Chi cùng trụ sinh cho nhau và thấy tỷ lệ này đã đúng cho một số ví dụ nhưng chưa thể khẳng định là tỷ lệ sinh này có phải là cao nhất (Max) hay không?
Sau đây là ví dụ số 154 trong cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ ở “Chương 27 : Luận phân biệt hỷ kị của can và chi“ như sau:
“154 – Mậu Ngọ / Ất Mão / Nhâm Tý / Canh Tý
Bính Thìn - Đinh Tị -Mậu Ngọ -Kỷ Mùi - Canh Thân -Tân Dậu -Nhâm Tuất
Sinh năm Thanh - Hàm Phong thứ 8, ngày 6 tháng 2 giờ Tý, là mệnh của Khương Hữu Vi
(1858-1927). Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù, có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần. Ngọ vận xung Tý, chỉ nhất xung mà tạo ra lưỡng xung, Hỉ thần xung kị, danh tiếng nổi như cồn. Kỷ Mùi can chi đều thổ, đúng là Kỷ có tác dụng trợ Sát chế Nhận, nhưng Mùi vận hội Mão hóa mộc, hỷ hóa thành kị, Thươngượng. B quan động thành chế Sát. Chính biến Mậu Tuất (1898) **, 41 tuổi nhập ngay Mùi vận, may mắn lưu niên Mậu Tuất cát nên tưởng chết mà lại chạy thoát“.
Vì mục đích là muốn xác định chính xác tỷ lệ sinh của Chi cho Chi nên ở đây ta chỉ cần biết Tứ Trụ này Thân vượng hay nhược cái nào phù hợp với thực tế đã diễn ra với ví dụ này là đủ.
Ta thấy Thân mang hành Thủy mà vận Mậu Ngọ người này “…danh tiếng nổi như cồn…“ đủ để ta xác định Tứ Trụ này phải có Thân vượng. Bởi vì can chi Mậu và Ngọ của đại vận mang hành của Tài Quan (tức các hành áp chế Thân) khi tác động tới các can chi trong Tứ Trụ không hề có sự hợp hóa gì cả nên nó vẫn giữ nguyên hành của chúng.
Khi đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng rồi thì bước tiếp theo ta xác định điểm hạn và điểm vượng của các hành trong vùng tâm.
Sau đây là sơ đồ xác định điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm của tôi:
[img]http://farm4.staticflickr.com/3799/12220366083_aed67ca662_o.png[/img]
Theo sơ đồ trên nếu ta lấy tỷ lệ sinh của Chi sinh cho Chi là 1/2 và 1/3 thì ta thấy Thân (Thủy) có 14,28 đv không lớn hơn Thực Thương (Mộc) 1 đv nên Thân là nhược, do vậy nó không phù hợp với thực tế của ví dụ này.
Ta thấy Mộc chỉ cần giảm đi 0,05 đv còn 13,33 đv - 0,05 đv = 13,28 đv thì Thân lớn hơn Mộc đúng 1 đv nên Thân đã trở thành vượng (theo lý thuyết của tôi).
Như vậy thì rõ ràng tỷ lệ sinh 1/2 và 1/3 không đúng, do vậy nó không thể là 1/2 và 1/3 mà còn phải giảm nữa thành 1/3 và 1/5 hay 1/4 và 1/7… chẳng hạn (theo tỷ lệ số sau bằng số trước nhân với 2 rồi trừ đi 1 như: 3 bằng 2.2 -1; 5 bằng 3.2 – 1; 7 bằng 4.2 -1).
Vì tính chất đối xứng trong Vũ Trụ và trong Tử Bình nên ta có thể khẳng định rằng nếu Chi sinh được cho Chi thì Can cũng phải sinh được cho Can.
Do vậy ta thử áp dụng tỷ lệ sinh là 1/3 và 1/5 cho cả can và chi xem sao:
1 - Tý trụ ngày có 7,05 đv sinh được cho Mão trụ tháng 1/5 đv của nó là 7,05.1/5 đv = 1,41 đv. Mão trụ tháng có 9 đv nhận thêm 1,41 đv thành 10,41 đv nhưng số đv này bị giảm 1/9 vì bị Canh trụ giờ khắc cách 2 ngôi và khi đi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10,41.9/10 .3/5 đv = 5,62 đv.
2 - Nhâm trụ ngày có Canh trụ giờ mang hành sinh cho nó nên nó sinh được cho Ất trụ tháng 1/3 đv của nó là 3.1/3 đv = 1 đv. Do vậy Ất trụ tháng có 9 đv được thêm 1 đv thành 10 đv nhưng bị giảm 1/5 đv do bị Canh trụ giờ khắc cách 1 ngôi còn 10.4/5 đv = 8 đv.
(Chú ý: Chi hay Can chủ sinh và Chi hay Can được sinh ở đây không được bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp).
Vậy thì điểm vượng trong vùng tâm của Mộc là 5,62 đv + 8 đv = 13,62 đv. Ta thấy Thân vẫn nhược nên tỷ lệ sinh này vẫn chưa đúng.
Ta thử tiếp cho tỷ lệ sinh là 1/4 và 1/7 xem sao:
Sau khi tính toán tương tự như trên ta thấy điểm vượng của Mộc trong vùng tâm là 5,4 đv + 7,8 đv = 13,2 đv. Số điểm này đã làm cho Thân trở thành vượng phù hợp với thực tế.
Do vậy với ví dụ này đã chứng minh được khả năng của Chi sinh cho Chi và Can sinh cho Can cao nhất (Max) là 1/4 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó và 1/7 đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó cùng hành với nó chỉ khi Can hay Chi sinh và được sinh không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.
Tỷ lệ này theo tôi có thể còn được giảm hơn nữa nếu ta lại tìm thấy một ví dụ nào đó có thể chứng minh được như ví dụ này.
Nhân tiện đây ta thử phân tích xem tác giả luận ví dụ này đúng sai ra sao:
Tác giả viết:
“Thủy mộc Thương quan, song thủy vượng mộc phù, có Mậu thổ chế thủy vì thế mộc được sinh, do đó thủ Sát chế Nhận làm Dụng thần.“
Rõ ràng ý của tác giả đã khẳng định Mậu (Thổ) là dụng thần nên mới phải luận như vậy để cho Mâu dụng thần không bị thương tổn thì mới có thể đúng cho vận Mậu Ngọ “danh tiếng nổi như cồn“. Nhưng thực chất có đúng như vậy không? Ở đây rõ ràng ta thấy Mậu bị khắc gần bởi Ất nên Mậu làm sao chế được Thủy nữa, với lại Ất Mộc nắm lệnh quá đủ vượng thì làm sao bị trôi dạt do Thủy nhiều mà cần đến Thổ để chế Thủy.
Theo phương pháp của tôi thì ở đây Thực Thương (là nhiều) ngang ngửa với Thân nên Sát không có tác dụng khi làm dụng thần mà dụng thần phải là Tài thì mới chính xác. Do vậy vào vận Mậu Ngọ Hỏa và Thổ đều cường vượng đủ sức áp chế Thân vượng nên mới “danh tiếng nổi như cồn“ như vậy.
Nói chung tất cả các sách cổ và ngay cả hầu hết các cao thủ Tử Bình bây giờ đều mắc sai lầm như tác giả này.
Để chứng minh thêm cho nhận định này ta xét thêm ví dụ số 8 trong “Chương 8 : Luận dụng thần“ trong cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú" mà Hjmama đã đưa ra như sau:
“Mậu tuất - Kỷ mùi - Bính tý - Canh dần
Hành vận: Canh thân / tân dậu / nhâm tuất / quý hợi / giáp tý / ất sửu
Bính hỏa sanh tháng 6, lửa còn chút sáng, giờ gặp Dần mộc, Tý thủy quan tinh sanh Ấn, nhật nguyên tưởng nhược mà thành không nhược. Nguyệt lệnh Kỷ thổ Thương quan thấu ra, bát tự liên tiếp 4 thổ, tiết khí thái quá, lấy tài tiết thương làm dụng, cũng là để ức chế cái mạnh thái quá. Là trụ của Lý Quân ở Hợp Phì“.
Sau đây là sơ đồ xác định thân vượng hay nhược và dụng thần của tôi:
[img]http://farm8.staticflickr.com/7359/12134810804_636b4d477d_o.png[/img]
Tác giả viết: “Tý thủy quan tinh sanh Ấn, nhật nguyên tưởng nhược mà thành không nhược“. Ta thấy nếu Tý thủy sinh được cho Ấn là Dần trụ giờ thì Tý không khắc được Bính Nhật can và Canh không khắc được Dần cùng trụ hay sao? Vậy thì Dần làm sao sinh được cho Bính?
Ở đây rõ ràng tác giả dựa vào câu “3 Can không bằng 1 Chi Lộc Nhận“ làm bùa chú cho mình. Do vậy khi thấy Nhật can Bính có chi Dần là kết luận luôn Thân vượng và dĩ nhiên khi đã kết luận như vậy thì tác giả phải “Đẽo, Gọt“ cho nó phải đúng như kết luận của mình mà thôi.
Thực chất của vấn đề là Tý bị Mùi khắc gần nên Tý không thể sinh được cho Dần và Tý cũng không thể khắc được Bính cùng trụ. Do vậy Bính nhật can không bị khắc nên khắc được Canh trụ giờ. Canh trụ giờ bị khắc gần nên nó không thể khắc được Dần cùng trụ. Nhưng mặc dù Bính và Dần không bị thương tổn (đó là điểm cực đẹp của ví dụ này – vì hỷ dụng thần không bị thương tổn) nhưng điểm vượng trong vùng tâm của nó thấp nhiều so với Thổ nên Thân phải là nhược. Do vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn là Ất tàng trong Mùi trụ tháng (vì Ất vượng hơn Giáp).
(Cho dù Mùi ở đây là Sửu thì cũng đừng có nghĩ rằng Sửu là đất ướt nên không chế ngự được Tý thủy bởi vì thực tế đất của các con đê có chứa nước bên trong hay không mà nó vẫn chế ngự được các dòng sông hung dữ?)
Vì tác giả không cho biết tốt xấu của các vận nên đành phải dừng ở đây.thay đổi nội dung bởi: VULONG, 30-01-14 lúc 22:19
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
Có 3 Hội viên đã cảm ơn đến "VULONG" về bài viết có ích này:
cưu an (01-04-14),kell.Nguyen (28-03-14),thucnguyen (05-09-17)
-
Những khám phá thú vị về con người
By kiwitc in forum Xã Hội - Con NgườiTrả lời: 0Bài mới: 11-12-11, 11:54 -
Danh ngôn về Đàn Bà
By thulankl in forum Thư Giãn - Giao LưuTrả lời: 1Bài mới: 03-05-11, 09:18 -
Ma y thần tướng diễn thi
By hoa mai in forum Nhân tướng họcTrả lời: 1Bài mới: 14-03-11, 04:38 -
Người Việt và tiếng Việt tại Úc
By hoa mai in forum Xã Hội - Con NgườiTrả lời: 0Bài mới: 21-01-11, 13:21