(Tiếp theo)
Cụ thể: 1. Luận về âm dương:
Luận Long phải toàn Âm hoặc toàn Dương.
"Long" tức là Đốt tiết của long mạch nhập thủ, kết huyệt, (không phải tọa sơn). Trong phong thủy cần bổ Long, chứ không cấn bổ sơn, nhưng thường mượn "bổ sơn" để ám chỉ bổ long.
12 dương long: Kiền, Giáp, Khôn, Ất, Khảm, Quí, Thân, Thìn, Ly, Nhâm, Dần, Tuất. Nên lập dương hướng, dùng thời gian dương, là Thân Tý Thìn Dần Ngọ Tuất.
12 long thuộc Âm : Cấn Bính Tốn Tân Chấn (Mão) Canh Hợi Mùi Đoài (Dậu) Đinh Tị Sửu. Nên lập âm hướng, dùng kỳ hạn ngày âm, là Hợi Mão Mùi, Tị Dậu Sửu.
2. Luận về tam hợp.
Lấy tam hợp để bổ Long, để long có lực. Không nói long mà nói tọa hướng. Như Tốn long - Tị sơn Hợi hướng, dùng Mão Mùi để bổ Tốn là Mộc long.
( Hợi Mão Mùi mộc cục, có hướng Hợi trường sinh rồi không lấy nữa). Ngũ hành ở đây phải lấy chính Châm ngũ hành để luận.
Dùng Tứ trụ tam hợp với hướng thì không được dùng xung khắc với Sơn. Có 3 trường hợp sau:
- Như Hợi long. Là Tân Hợi sơn - Ất Tị hướng.
Chỉ dùng Dậu Sửu bán kim cục để sinh Hợi long là được, tuyệt đối không được dùng năm, tháng, ngày Tị, vì dùng Tị nó sẽ xung mất Hợi long là hỏng.
- Như Tị sơn. Là Tân Tị Sơn - Đinh Hợi hướng.
Dùng Mão Mùi bán cục mộc để sinh Tị hỏa, không được dùng Hợi
- Như Dấn sơn. Là Nhâm Dần sơn - Mậu Thân hướng
Chỉ được dùng Tý Thìn bán cục thủy để sinh mộc, không được dùng Thân.
3. Luận về nhật nguyệt trong thất chính.
Cấn Nhật Nguyệt trong thất chính đến hướng, tức là cần Thái dương đáo Sơn, đáo hướng hay tam hợp chiếu đều tốt, sau đó thứ cát là Thái Âm..
4. Luận về Tôn, Đế tinh
Tôn, Đế tinh đến sơn đến hướng lại càng tốt đẹp.
Bốn điểm trên được hoàn toàn là tốt thượng hạng, khuyết một cũng còn cát, khuyết hai là không được cát lắm.
..
Sát tại sơn đầu cánh nhược hà
Quí nhân Lộc Mã hỷ tương qua
Tam kỳ chư đức năng hàng sát
Cát chế hung thần phát phúc đa.
Nghĩa là:
Sát tại sơn đầu tại ra sao
Mừng gặp Quí nhân, Lộc Mã ghé qua nhau
Tam kỳ chư đức có tài hàng sát
Cát chế được hung thần thì phát phúc nhiều
Sơn đầu là tọa sơn. Khởi công tu tạo phạm năm tháng xấu gọi là phạm sát. Tất cần chân Lộc Mã Quí nhân của Niên mệnh cùng đến sơn phương với gia lộc Mã Quí nhân đến sơn là tốt đẹp.
Như năm Đinh Mão, sát tại Dậu, Mà năm Đinh,Thiên ất Quí nhân cũng tại Dậu. Ta dùng nhiều ngày giờ Dậu để tu tạo, tức là dùng Quí nhân chế sát.
Như người sinh năm Bính, dùng:
Năm Đinh Hợi,
Tháng Tân Hợi,
Ngày Ất Hợi,
Giờ Đinh Hợi
Để tu tạo, làm hướng Hợi. Chính là Quí nhân nhất khí, áp chế Thái tuế. Tam kỳ Ất Bính Đinh vậy.
Như năm Đinh Mão, Tam sát tại Dậu, Thiên ất Quí nhân cũng tại Dậu. Ta dùng tháng, ngày giờ Dậu để tu tạo tại phương Dậu là tốt.
(Sách nêu thế này, nhưng tôi thấy sai về Nguyên lý : Thái Tuế có thê Toạ, không thể Hướng- Không chế dược)
Hoặc dùng Bát tiết tam kỳ cũng nghiệm như chư đức, Tuế đức cùng với Thiên Nguyệt đức vậy.
Nhị vị Tôn tinh nên trực nhật
Nhất khí đôi can vi đệ nhất
Quyết lộc, quyết Quí hỷ đáo sơn
Phi Mã lân sơn, vi dũ cát
Tam nguyên hợp cách tối vi thượng
Tứ trụ hỷ kiến tài quan vượng
Dụng chi bất khả hữu tổn thương
Thủ can tối nghi phùng kiện vượng
Sinh vượng tương hợp hỷ đắc phùng
Tu kị khắc phá, dữ hình xung
Cát tinh hữu khí tiểu thành đại
Ác diệu hưu tù bất tắc hung
...
Hai vị Tôn tinh nên trực nhật
Một khí đắp lên can là đệ nhất
Mừng chọn Lộc, chọn Quí đến sơn
Phi mã ghé đến sơn lại càng thêm cát
Hợp cách Tam nguyên là tối thượng
Tứ trụ mừng thấy Tài Quan vượng
Dùng chi (Địa chi) không thể có tổn thương
Chọn can rất nên gặp kiện vượng
Sinh vượng hợp nhau mừng gặp được
Cần tránh khắc phá với hình xung
Cát tinh có khí, nhỏ thành lớn
Ác diệu hưu tù không tác hung
Tôn đế hai tinh đến ngày giờ
Phù trợ thêm vào càng thêm cát.
Một khí đắp lên can gọi là 4 can một dạng Như thế tất cấn cùng với can chi của mệnh chủ, sơn hướng tương hợp, không bị hình xung là đẹp
Chọn Giáp mệnh Lộc tại Dần. Lộc không được điền đầy, nếu điền đầy thời bất cát.Trong vấn đề này có 2 nội dung cần làm sáng tỏ:
a- Lộc của Thiên can.
Lộc của Thiên can ở ngôi Lâm quan trong bảng Trường sinh.
BẢNG TRƯỜNG SINH
Năm can Dương Năm Can Âm
Giáp Bính Mậu Canh Nhâm Ât Đinh Kỷ Tân Quí
Tr sinh Hợi Dần Tị Thân Ngọ Dậu Tý Mão
Mộc dục Tý Mão Ngọ Dậu Tị Thân Hợi Dần
Quan đới Sửu Thìn Mùi Tuất Thìn Mùi Tuất Sửu
Lâm quan Dần Tị Thân Hợi Mão Ngọ Dậu Tý
Đế vượng Mão Ngọ Dậu Tý Dần Tị Thân Hợi
Suy Thìn Mùi Tuất Sửu Sửu Thìn Mùi Tuất
Bệnh Tị Thân Hợi Dần Tý Mão Ngọ Dậu
Tử Ngọ Dậu Tý Mão Hợi Dần Tị Thân
Mộ Mùi Tuất Sửu Thìn Tuất Sửu Thìn Mùi
Tuyệt Thân Hợi Dần Tị Dậu Tý Mão Ngọ
Thai Dậu Tý Mão Ngọ Thân Hợi Dần Tị
Dưỡng Tuất Sửu Thìn Mùi Mùi Tuất Sửu Thìn
Ta biết: Người sinh năm Giáp, Lộc tại Dần
Sinh năm Bính Mậu Lộc tại Tị.v v. Nhưng cần đi vào cụ thể như sau:
• Giáp lộc tại Dần,
Gặp Binh Dần là lộc Phúc, tốt.
Gặp Mậu Dần là lộc Phục Mã, tốt.
Gặp Canh Dần là lộc Phá, xấu.
Gặp Nhâm Dần là chính lộc, tốt.
Gặp Giáp Dần là lộc Trường sinh, Đại cát.
• Ất lộc tại Mão,
Gặp Đinh Mão là lộc cắt ngang đường, hung
Gặp Kỷ Mão là lộc Tiến thần, tốt.
Gặp Tân Mão là lộc Phá, hung
Gặp Quí Mão là lộc Chết, sang nhưng nghèo hèn.
Gặp Ất Mão là lộc Hỷ thần, cát.
• Bính, Mậu lộc tại Tị ,
Gặp Kỷ Tị là lộc Kho trời, cát.
Gặp Tân Tị là lộc Đứt đường, hung.
Gặp Quí Tị là lộc Lộc phục Quí thần.
Gặp Ất Tị là lộc Mã, cát.
Gặp Đinh Tị là lộc Khố, cát.
• Đinh, Kỷ lộc tại Ngọ
Gặp Canh Ngọ là lộc Đứt đường, xấu.
Gặp Nhâm Ngọ là lộc Đức hợp, cát.
Gặp Giáp Ngọ là lộc Tiến thần, cát.
Gặp Bính Ngọ là Chính Lộc Thần, cát
Gặp Mậu Ngọ là lộc Kình dương, phần nhiều xấu.
• Canh lộc tại Thấn.
Gặp Nhâm Thân là lộc Đại bại, xấu.
Gặp Giáp Thân là lộc Đứt đường, hung.
Gặp Mậu Thân là lộc Phục Mã, trì trệ.
Gặp Canh Thân là lộc Trường sinh, đại cát.
Gặp Bính Thân là lộc hao, xấu.
• Tân lộc tại Dậu
Gặp Đinh Dậu là lộc Quí thần, nhưng không vong, nếu có cát thần thì cát.
Gặp Ất Dậu là lộc Phá, xấu
Gặp Kỷ Dậu là lộc Tiến thần, cát.
Gặp Tân Dậu là Chính lộc, cát
Gặp Quí Dậu là lộc Phục thần, xấu
• Quí lộc tại Tý
Gặp Giáp Tý là lộc Tiến thần, cát.
Gặp Bính Tý là lộc Hao, có cả tốt lẫn xấu.
Gặp Mậu Tý là lộc Phục, cả tốt lẫn xấu.
Gặp Nhâm Tý là lộc Chính lộc Khình dương, xấu
Gặp Canh Tý là lộc Ấn, cát.
Nên khi chọn Lộc ta cần lưu ý đến Thiên can của Năm, Tháng, Ngày Giờ mà sử dụng cho hợp lý.
* Đôi điều về cách nhớ bảng Trường sinh can âm.
Nhiều khi trong tay không có tài liệu, mà cần dùng bảng Trường sinh, nếu không biết cách tư duy thì khó mà nhớ được, bởi thực sự ta còn phải nhớ nhiều nội dung quan trọng khác. Sau đây là cách nhớ giản tiện:
Chúng ta thường quen với nội dung trường sinh của 5 Can dương, đó là:
Kim Trường sinh tại Tị
Hỏa, Thổ Trường sinh tại Dần
Mộc Trường sinh tại Hợi
Thủy Trường sinh tại Thân
Muốn biết Ngũ hành Can Âm Trường sinh tại đâu ? Chỉ việc từ cung Trường sinh của Ngũ hành Can Dương, đếm lùi lại 5 cung, cung đó chính là cung Trường sinh của ngũ hành Can Âm
Thí dụ: Dương Kim trường sinh tại Tị, ta lùi lại 5 cung đó là: Thìn, Mão, Dần, Sửu, Tý. Vậy Âm Kim Trường sinh tại Tý.
2- Lộc điền đầy thời bất cát.
Quí nhân, Lộc Mã, khi tu sơn nên đến sơn, tu hướng nên đến hướng
Phi mã gồm cả Lộc và Mã đến cùng cung, gọi là hoạt lộc, hoạt Quí, hoạt Mã vậy. Tùy Thái tuế năm dùng, để độn; Lấy Nguyệt kiến nhập cung trung phi cửu cung, phi đến sơn, hay đến hướng cần tu tạo mà được cát tinh đều là cát.
Tám chữ trong tứ trụ, Thiên can là Thiên nguyên, Địa chi là địa nguyên. Muốn đắp lên can, lên chi, hai can hai chi thành tam hợp cục, với 4 nạp âm, đều thuần túy, không tương khắc nhau mà cùng bổ Long, tương chủ mới thực sự là hợp cách.
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số