-
04-12-15, 18:47 #71
Trả lời: Sao không thấy mọi người tham gia giải quẻ Dịch vậy ? Hay tôi viết bài có lỗi với các vị chăng ? Nếu có hãy lưỡng thứ cho tôi nhé. Thú thực tôi cũng hơi nóng tính, hay nói thẳng, mà sự thật thì thường mất lòng, như ông cha thường nói. Bây giờ tôi xin giả quẻ trên nhé.
2 quẻ trên là do vợ chồng cháu ruôt, con anh cả của tôi,
Cả 2 chấu đều là giáo viên. Hôm đó đến nhờ chú xem vận hạn. Lắc được 2 quẻ như trên:
PHONG ĐỊA QUAN- biến thành BÁT THUẦN KIỀN
LỜI GIẢI LÀ:
Tuần Giáp Thân, Ngọ Mùi tuần không.
Phụ mẫu Mùi thổ trì thế, vượng tại năm, tháng, lại được Ngọ hỏa vượng sinh là thân vượng, quan vượng. Thân vượng quá cũng là có bệnh, thổ quá vượng nên kim bị chèn, Mùi là mộ của mộc, bệnh chỗ kín.
Cần uống thuốc thuộc Mộc, hay tiêm cũng tốt. Một thời gian sau sẽ khỏi (Tháng 7,8)
Vợ được quẻ: BÁT THUẦN KIỀN
Lời giải là:
Hào thế là Tuất thổ, gặp Phi xà là tượng có ám khí nhập vào, may mà đã có bề trên giữ hộ, nhưng chưa ra khỏi hẳn. Cần giải quyết triệt để.
Sau khi giải xong cho 2 cháu, thì các cháu mới nói rõ sự thật:
Số là đầu Xuân 2015, có một cô bạn đi nhờ xe xuống trường (cách Trường gần 100 Km, sau đó cô bạn vào nhà 2 cháu ở chơi) Sau đó khoảng 2 tháng, các cháu cảm thấy trong nhà mọi việc không được thuận lợi, chồng thường bị đau, không rõ nguyên nhân, vợ thì thay đổi tính nết thất thường. Khi về trên quê, ông bố (Anh trai tôi) hỏi rõ ngọn ngành mới dự đoán là mắc chứng “Phòng long” do cô bạn hôm vào nhà mới bị sẩy thai 3 hôm. Thế là cha con đi đến Điện nhờ thầy giải “Phòng Long”.
Giải xong, các cháu lại xuống trường công việc, và đến nhà tôi (Chú), nhờ xem lại kết quả thế nào, tôi đã trả lời như trong lời giải.
Cách giải quyết của tôi như thế nào, tin sau nói tiếp.
Chúc cả nhà vui vẻ.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
04-12-15, 21:03 #72
Bác Phùng cho cháu hỏi quẻ Phong Địa Quan sao biến được thành Thuần Kiền đươc ạ.
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
04-12-15, 21:33 #73
-
-
04-12-15, 21:45 #74
Cháu cầu xin bác Đậu. họ hàng cháu ở ngệ an- Nghi lộc- xã nghi xuân. có chuẩn bị bốc mộ cha. xin bác cho cháu số điện thoại . cháu xin đến gặp trực tiếp bác. Mong bác từ bi cho phép
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
05-12-15, 09:56 #75
-
-
05-12-15, 13:23 #76
Kính chào bác Phụng
Xuanvn_2014 sưu tầm được cái này trên mạng, thấy hay, nên gửi lên đây để bác nghiên cứu,nếu bác biết rồi thì anh em khác tìm hiểu.Cám ơn bác vì những bài viết hay
Dưới đây là bài sưu tầm được
Dịch có các cặp hào ứng hợp nhau, tức có liên quan mật thiết về động tĩnh, quyền lợi. Khi hào này động thì ảnh hưởng đến hào kia, sự việc liên quan đến cả hào ứng viện nữa. Các cặp đó là 1-4, 2-5, 3-6. Hào 1 là đàn bà, con nít ứng hợp với hào 4 quan quyền. Hào 2 dân trung tín ứng hợp với hào 5 vua. Hào 3 dân trưởng giả, có thực lực, có tham vọng ứng hợp hào 6 thời vận hoàn cảnh xã hội.
Hào 4 là quan chức lo cho vợ con, thu vén riêng tư, vợ con ảnh hưởng ngược lại ông quan theo kiểu lệnh ông không bằng cồng bà nên cặp 1-4 có quan hệ mật thiết, có sự ràng buộc chặt chẽ. Cặp 2-5 dân thường và vua, sự quan hệ này do khuôn khổ phép tắc, cả hai đều đắc trung phải giữ mình thuận theo luật pháp, làm tròn bổn phận nên là mối quan hệ hình thức, cho phải phép. Hào 3 là kẻ có thực lực, nhạy bén, vì dựa theo thời nên hào 3 dễ thay đổi, nhiều xung động. Trông vào trời chả bằng trông vào mình, dù có thuận lợi từ hoàn cảnh thì hào 3 vẫn phải tự mình giúp mình, cho nên mối quan hệ ứng hợp 3-6 là mối quan hệ lỏng lẻo, gần như không có ràng buộc nào cả. Hào 3 thậm chí có thể tự mình hành động, tạo ra thay đổi cho hoàn cảnh, đó chính là trường hợp anh hùng tạo thời thế!
Như vậy mối quan hệ ứng viện chặt chẽ nhất chính là cặp 1-4, có liên quan mật thiết về quyền lợi, tránh nhiệm, hưởng thụ. Mối quan hệ 2-5 yếu hơn, là mối quan hệ hình thức, theo nghĩa vụ. Còn 3-6 là mối quan hệ lỏng lẻo, nhiều tính động, dễ biến đổi bất kỳ.Từ kết quả này xem xét đến nạp giáp sẽ thấy nhiều ý nghĩa thú vị.
Nạp lục thân cho quẻ dịch để việc luận đoán được cụ thể. Lục thân là bản thân mình và huynh, phụ, thê, tử, quan. Trong nạp giáp lại định ra thế ứng cố định, thế là mình, ứng là sự việc, là đối phương. Việc nạp giáp, định thế ứng có qui luật chặt chẽ, không liên quan đến sự ứng viện của các hào, nhưng kết quả lại cho thấy những thông tin đáng chú ý từ các cặp hào thế ứng. Để làm rõ ta sẽ xét các quẻ lục xung và lục hợp.
Trong 64 quẻ có 10 quẻ lục xung, đó là 8 quẻ thuần Càn, Khôn, Khảm, Ly, Chấn, Cấn, Tốn, Đoài và hai quẻ Vô vọng, Đại tráng. Xem nạp giáp thế ứng thì tất cả các quẻ lục xung là quẻ thuần đều có hào thế vị hào 6, ứng vị hào 3. Điều này có ý nghĩa gì ?
Cặp 3-6 vốn dĩ có quan hệ lỏng lẻo nhất, vị 6 lại là vị trí cao quá, khi là người có nghĩa là có sự thái quá, quá đáng. Thế ở vị 6 là bản thân mình có sự thái quá, lệch lạc, nhầm lần, dẫn đến bất cập, không hợp lý, đối phương vị 3 bất trung vốn là kẻ mạnh bạo, manh động, luôn sẵn sàng thay đổi, vì thế mà việc quan hệ hợp tác có mâu thuẫn, đổ vỡ. Lục xung trong dự đoán thường ứng việc ly tán, đổ vỡ, phá hoại, bất hòa, tranh cãi, biến động bất ngờ. Đoán mưu sự, kết hôn mà gặp lục xung luôn hỏng. Chỉ đoán việc lo buồn, trở ngại gặp xung thì tán mất cái xấu, không bị dây dưa nữa nên thành tốt.
Xét đến các quẻ lục hợp, trong 64 quẻ có 8 quẻ lục hợp: Bĩ, Khốn, Lữ, Dự, Tiết, Bí, Phục, Thái, trong đó trừ hai quẻ Bĩ, Thái, tất cả 6 quẻ còn lại đều có thế ứng là cặp 1-4, điều này nói lên cái gì ?
Như đã biết, 1-4 là cặp ứng viện mạnh mẽ nhất, có dính mắc ràng buộc mạnh nhất. Dùng cặp 1-4 để nạp cho quẻ lục hợp có cái ý là để hợp tác ràng buộc, không gì mạnh hơn mối quan hệ quan lớn giúp đỡ vợ con mình !
Quẻ lục hợp thường để đoán cho mưu sự, kết hôn, các việc cần lâu dài. Sách nói: “Nếu được Tam hợp, Lục hợp, đều được lâu dài có thuỷ có chung.” Việc tốt gặp hợp thì dễ thành tựu, việc xấu gặp thì sự dây dưa không kết thúc được. Dây dưa chính vì mối quan hệ 1-4 nó bền chặt quá, nó có lưu tình ở đó nên dễ kéo dài, khó chấm dứt.
Hai quẻ Bĩ, Thái thế ứng là 3-6 nhưng lại lục hợp, điều này có ý gì? Một điểm đặc biệt trong Dịch đó là không có gì tuyệt đối, không có gì nhất nhất chỉ một kiểu. Dùng cặp 3-6 nạp cho 2 quẻ Bĩ Thái là phản lại cái ý lục hợp bền chặt lâu dài. Lúc này sự giải thích có thể là như sau: Bĩ Thái là hai thời đặc biệt, đối lập nhau, thế lâm hào 3 là chủ thể có thực lực, tham vọng. Trong thời Bĩ là bị hào 6 ứng hoàn cảnh níu kéo, dìm chặt không cho hành động. Kìm chế con người không gì mạnh hơn thời thế, bị thời xấu bóp nghẹt, không thoát ra được, đó chính là Bĩ vậy. Xem kỹ hơn thì hào thế Bĩ là Mão tuy hợp nhưng khắc hào ứng Tuất, thế tức là mình nghịch thời, chống lại đối tác, phá hoại hoàn cảnh, cái Bĩ từ đó sinh ra. Cặp 3-6 lúc này có ý là ta vốn chả thân thiết gì đối phương, ta khắc hại họ, chả muốn dích mắc, đáng lẽ dễ dàng dứt bỏ thì lại bị giữ chặt, sinh trái ý, đó chính là Bĩ vậy.
Xét quẻ Thái, vẫn là cặp 3-6 , nhưng lúc này lại có ý là vì ta có sự ứng hợp với thời thế mà thuận lợi, hào thế Thìn lại sinh cho hào ứng Dậu, vậy là ta tương thích với hoàn cảnh, ta làm lợi cho đối tác đối phương, vì thế mà tuy 3-6 lỏng lẻo nhưng lại thành thông suốt bền vững lâu dài. Vậy là cùng vị 3-6 mà khi ta khắc người, trái thời, bị giữ chặt mà thành Bĩ, còn khi ta lợi người, hợp thời, quyện chặt nhau thì thành Thái, đây quả là sự xếp đặt thú vị đầy ẩn ý của Dịch. Trời khắc ta có khi chả sao vì ta chỉ cần thuận theo là xong, còn ta khắc trời thì là tai vạ Bĩ cực đen tối. Điều này giống hệt như thần sát Thái tuế, Thái tuế khắc ta họa nhẹ, còn ta khắc lại Thái Tuế là họa nặng. Từ quẻ Thái cũng suy ra để thuận lợi thông suốt, đạt kết quả thì ta phải có thực lực, ta nên lợi cho người, sinh xuất cho hoàn cảnh. Còn nếu chỉ muốn người sinh lợi cho mình, thì còn xa mới vươn tới cảnh Thái được ! Dịch quả là giản dị mà đầy ý nghĩa thực tế !
Quay lại 2 quẻ lục xung Đại Tráng, Vô Vọng có thế ứng là cặp 1-4 thì thấy rằng bình thường 1-4 là bền chặt, nhưng cũng có khi 1-4 là mâu thuẫn xung đột. Đó là mâu thuẫn phát sinh trong cuộc sống gia đình, vì gần gũi thân thiết mà thành va chạm xung đột. Đó là quan tham bị tội khiến vợ con khốn khổ, chỉ muốn chạy trốn cho thật xa để tránh bị vạ lây. Đó là có quyền tiền rửng mỡ bao bồ nhí bị vợ đến tận cơ quan bôi bác ầm lên. Lúc đó thì 1-4 trở thành thù địch, chỉ muốn nhanh chóng dứt bỏ chia lìa cho xong nợ. Và thật ngẫu nhiên hoặc cố ý thì quẻ Vô Vọng có ý là vì làm bậy mà bị họa, còn quẻ Đại Tráng là lớn mạnh có uy thế, hào thế 4 là ngồi xe to tiến lên, như ngày xưa thì trong xe ắt có nội vụ, thê thiếp, đàn bà…
Như vậy trong 10 quẻ lục xung có 2 quẻ Vô vọng, Đại tráng vị trí thế ứng 1-4 như đa số quẻ lục hợp. Ngược lại trong 8 quẻ lục hợp có 2 quẻ Bĩ, Thái vị trí thế ứng là 3-6 như đa số quẻ lục xung. Đây là cái lẽ biến thông của Dịch lý, không có gì tuyệt đối, không có gì nhất định chỉ một kiểu, trong cái này có cái kia, trong âm có dương và trong dương cũng có âm, đó là sự cân bằng, hài hòa của Dịch vậy. Dịch luôn đề cao cái bất thường ở trong thường, cái biển đổi trong cái ổn định. Và cái sự đột nhiên khác lạ ấy luôn chứa nhiều ý nghĩa hơn hẳn bọn “cá mè một lứa” còn lại. Hai quẻ Bĩ Thái là hai sự bất thường,
cũng như hai quẻ Vô vọng, Đại tráng. Những sự bất thường này phản ánh được thông tin cá biệt trong cái chung, vì thế bao quát được toàn thể. Cho nên Dịch ở đâu cũng biết, tình lý nào cũng thông, cái gì cũng đã trong sự tiên liệu, đó không phải vì thánh nhân tài giỏi mà vì luật tự nhiên vốn thế. Tự nhiên đa dạng muôn sắc muôn màu, nếu Dịch không biến thông như thế thì làm sao phản ánh được!Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
05-12-15, 13:24 #77
Cách tìm Thế Ứng và nhận ra quẻ Mẹ qua các cặp hào trong quẻ
Ta ghép hào 1 và 4 thành 1 cặp, viết là cặp 1-4; hào 2 và 5 là cặp 2-5; hào 3 và 6 là cặp 3-6
- nếu trong quẻ chỉ có độc nhất cặp 1-4 là cặp âm dương (hào âm và hào dương) thì quẻ đó là quẻ biến 1 từ quẻ Mẹ Bát Thuần.
Hãy quan sát 3 cặp hào của quẻ Hỏa Sơn Lữ có phải chỉ có cặp 1-4 là cặp có hào âm dương, 2 cặp còn lại thì cùng âm và cùng dương. Từ quan sát trên ta có thể khẳng định quẻ Lữ là quẻ biến 1 vậy Thế ở hào 1 và Ứng ờ hào 4.
- nếu trong quẻ chỉ có độc nhất cặp 1-4 là cặp cùng âm hoặc cùng dương (không âm dương) thì quẻ đó là quẻ biến 4 từ quẻ Mẹ Bát Thuần.
Hãy quan sát 3 cặp hào của quẻ Thiên Lôi Vô Vọng, có phải chỉ có cặp 1-4 là cùng dương, 2 cặp còn lại đều là cặp âm dương. Từ quan sát trên ta có thể khẳng định quẻ Vô Vọng là quẻ biến 4 vậy Thế ờ hào 4 và Ứng ở hào 1.
- nếu trong quẻ chỉ có độc nhất cặp 2-5 là cặp âm dương (hào âm và hào dương) thì quẻ đó là quẻ biến 7 (quy hồn) từ quẻ Mẹ Bát Thuần.
Hãy quan sát 3 cặp hào của quẻ Địa Thủy Sư, có phải chỉ có cặp 2-5 là cặp có hào âm dương, 2 cặp còn lại thì cùng âm và cùng dương. Từ quan sát trên ta có thể khẳng định quẻ Sư là quẻ biến 7 (quy hồn) vậy Thế ở hào 3 và Ứng ờ hào 6.
- nếu trong quẻ chỉ có độc nhất cặp 2-5 là cặp cùng âm hoặc cùng dương (không âm dương) thì quẻ đó là quẻ biến 6 (du hồn) từ quẻ Mẹ Bát Thuần.
Hãy quan sát 3 cặp hào của quẻ Thủy Thiên Nhu, có phải chỉ có cặp 2-5 là cùng dương, 2 cặp còn lại đều là cặp âm dương. Từ quan sát trên ta có thể khẳng định quẻ Nhu là quẻ biến 6 (du hồn) vậy Thế ờ hào 4 và Ứng ở hào 1.
- nếu trong quẻ chỉ có độc nhất cặp 3-6 là cặp âm dương (hào âm và hào dương) thì quẻ đó là quẻ biến 5 từ quẻ Mẹ Bát Thuần.
Hãy quan sát 3 cặp hào của quẻ Sơn Địa Bác, có phải chỉ có cặp 3-6 là cặp có hào âm dương, 2 cặp còn lại thì cùng âm và cùng dương. Từ quan sát trên ta có thể khẳng định quẻ Bác là quẻ biến 5 vậy Thế ở hào 5 và Ứng ờ hào 2.
- nếu trong quẻ chỉ có độc nhất cặp 3-6 là cặp cùng âm hoặc cùng dương (không âm dương) thì quẻ đó là quẻ biến 2 từ quẻ Mẹ Bát Thuần.
Hãy quan sát 3 cặp hào của quẻ Địa Trạch Lâm, có phải chỉ có cặp 3-6 là cùng âm, 2 cặp còn lại đều là cặp âm dương. Từ quan sát trên ta có thể khẳng định quẻ Lâm là quẻ biến 2 vậy Thế ờ hào 2 và Ứng ở hào 5.
- nếu trong quẻ có cả 3 cặp cùng là cặp âm dương thì quẻ đó là quẻ biến 3 từ quẻ Mẹ Bát Thuần.
Hãy quan sát 3 cặp hào của quẻ Địa Thiên Thái, có phải cả 3 cặp đều là cặp có hào âm dương. Từ quan sát trên ta có thể khẳng định quẻ Thái là quẻ biến 3 vậy Thế ở hào 3 và Ứng ờ hào 6.
Sau khi đã dùng cách quan sát cặp hào để xác định quẻ chính là quẻ biến thứ mấy từ quẻ Mẹ Bát Thuần, bạn có thể áp dụng phần dưới đây để tìm quẻ Mẹ
- nếu quẻ chính là quẻ biến 1, 2, và 3 thì quẻ ngoại (thượng) của quẻ chính là quẻ Mẹ.
- nếu quẻ chính là quẻ biến 4, 5, và 6 thì đảo ngược âm dương của 3 hào quẻ nội (hạ) sẽ tìm ra quẻ Mẹ. Lấy quẻ Bác (biến 5) làm ví dụ, quẻ nội của quẻ Bác là quẻ Địa (Khôn) nếu đảo ngược âm dương của quẻ Địa ta sẽ có quẻ Càn. Vậy quẻ Bác là quẻ biến 5 từ họ quẻ Bát Thuần Càn.
- nếu quẻ chính là quẻ biến 7 (quy hồn) thì quẻ nội (hạ) của quẻ chính là quẻ Mẹ .Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
07-12-15, 12:03 #78
Trả lời: Giải 2 quẻ trên đây:
Sau đó tôi cùng 2 Cháu làm lễ "Giải phòng Long"
Năm Ất Mùi- Tháng Quý Mùi- Ngày Ất Mùi- Giờ Thân
Kết quả của Cồng là:(Địa Hỏa Minh Di)
ĐỊA
PM Dậu Huyền vũ
HĐ Hợi Bạch hổ
Q Sửu Thế (ám) Phi xà
HỎA
HĐ Hợi Câu trần
Q Sửu Chu tước
TÔN Mão ứng Thanh long
M. DI
Quan quỷ Sửu thổ là Hào Thế, lâm Phi xà, được Năm, Tháng, Ngày Mùi xung đó là tương Phi xà đã bị Bề trên phù trợ Xung Tán, nên bản thân đã được Bình yên. Quả nhiên sau đó một thời gian ngắn, chỉ cần uống thuốc điều dưỡng, người trở nên khỏe mạnh, làm việc Tốt.
Vợ là:(Lôi sơn Tiểu Quá)
LÔI
PM Tuất Huyền vũ
HĐ Thân Bạch hổ
Q Ngọ Thế Phi xà
SƠN
HĐ Thân Câu trần
Q Ngọ Chu tước
PM Thìn ứng Thanh long
T QUÁ
Quan quỷ Ngọ Hỏa là hào Thế, lâm Phi xà, bị Năm, Tháng, Ngày Mùi hợp chặt, tức là tượng Phi xà đã được khống chế, . Sau một thời gian ngắn, người trở lại bình thường, không khí trong nhà vui vẻ, bình yên như xưa.
Mong các anh chị cho ý kiến.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
07-12-15, 12:14 #79
Đề Nghị Tham gia giải:
Xem Ngôi Mộ có di chuyển được không ?
NĂM ẤT MÙI - LỆNH THÁNG CANH THÌN - NGÀY NHÂM TUẤT – GIỜ MẬU THÂN.
Gieo được quẻ: Lôi Phong Hằng.
Mời các anh chị tham gia giải nhé.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
09-12-15, 20:47 #80
Trả lời: Lại không thấy anh chị nào giải cả thế ?.
Tôi đành trả lời vậy.
Lôi Phong Hằng là quẻ thuộc cung Chấn, ta thấy PM Tý thủy phục dưới Tài Sửu thổ, có Tý hợp Sửu, tức là Phi thần hợp với Phục thần. Có nghĩa Ngôi mộ này là mộ kép, 2 hài cốt chôn sát nhau (2 tiểu gỗ đặt sát nhau, cùng đắp 1 nấm đất, 1 chỗ cắm hương)
Tại sao đoán 2 bộ hài cốt, đó là do có 2 hào Phụ Mẫu liên tiếp nhau.
Ta thấy năm Mùi thuộc Thổ, Tháng Thìn cũng thuộc Thổ, Ngày cũng Tuất Thổ, chỉ có giờ Thân kim sinh cho Hợi Tý thủy, nhưng Kim hưu tù, nên không thể sinh cho PM thủy được, đó là tượng hài cốt đã thoái hóa rất nghiêm trọng.
Dự đoán: Quẻ Chấn thuộc cung Dương, hào Tý cũng thuộc dương, nên mộ Tý thủy là hào cốt của Nam giới. Còn Hợi thủy đương nhiên là hài cốt của Nữ giới.
Do Tý hợp Sửu, mà Thổ vượng, nên đoán hài cốt này đã hóa Thổ gần hết.
Do Hợi hợp với Dần, mà Mộc đang còn dư khí, nên đoán hài cốt này đã bị ván tiểu gỗ ép chặt. Cả hai hài cốt đều màu đen.
Hơn nữa do Tý Sửu đang là Tuần không, nên số lượng của 2 bộ hài cốt còn rất quá ít ỏi.
Lôi phong Hằng là Vĩnh cửu, chứng tỏ mộ này đã được cát táng rất lâu rồi
Để đảm bảo bình yên cho hài cốt, là nên cát táng và chuyển vào sang tiểu sành sứ cho nó được tồn tại lâu dài.
Quan quỷ Thân kim là hào 5 về mùa Xuân bị tử tuyệt, nên chứng tỏ chưa có Bát hương.
Nếu chuyển thì khẩn trương chuyển ngay (Trong vòng 5 ngày), nếu để sau đó sẽ không chuyển được.
Kết quả: Tất cả mọi dự đoán đều khớp với thực tế. Và do người nhà chờ con cháu về đủ mới quyết định. Đồng thời gia chủ còn đi xem vài ba nơi nữa, nói là mãi đến ngày 24 âm lịch tháng đó mới chuyển, cuối cùng sau 8 hôm nữa, thì có tang mới trong họ xảy ra, nên đến nay vẫn chưa tiến hành di chuyển được.
Thân ái.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số