Nguyên văn bởi
htruongdinh
Tiết khí là một đơn vị thời gian. Mỗi tiết 15 ngày, chia làm 3 hậu, vậy mỗi hậu chia làm 5 ngày. Quy đổi ra 12*5=60 giờ âm lịch. Trong một tiết hậu đầu gọi là thượng nguyên là khí lúc bắt đầu sinh. Hậu thứ 2 gọi là trung nguyên là lúc khí đang thịnh đã trưởng thành. hậu thứ 3 hạ nguyên, khí đã suy tàn.
một năm có 4 mùa Xuân, hạ , Thu, Đông, mỗi mùa có 6 tiết, mỗi tháng có 2 tiết khí. Một năm có 24 tiết khí chia ra 12 tiết thuộc dương, 12 tiết thuộc âm.
12 tiết thuộc dương bắt đầu từ đông chí là lúc bắt đầu khí dương sinh, cho đến ngày trước của tiết hạ chí
Tiết Đông chí, Tiểu Hàn, Đại Hàn, 3 tiết này phối quẻ Khảm.
Tiết lập xuân, Thanh Minh, cốc vũ thuộc Chấn
Tiết Lập Hạ, Tiểu mãn, Mang chủng thuộc Tốn.
12 Tiết thuộc âm bắt đầu từ Hạ chí là lúc khí âm bắt đầu sinh đến ngày trước tiết Đông chí.
Tiết hạ chí , Tiểu thử, Đại thử thuộc Ly.
Tiết lập thu, Xử thử, Bạch lộ thuộc Đoài.
Tiết lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết thuộc Càn.
Chú ý: thực ra một tháng âm lịch có 2 tiết khí, Phần đầu gọi là tiết, phần sau gọi là khí. Tháng nhuận là tháng không có trung khí, Trung khí thì dương bắt đầu sinh. Tuỳ từng môn trong phương đông ngưòi ta quy định khởi đầu của tháng Dần trong năm,
ví dụ như trong Độn giáp ứng tháng Dần Tiết Lập xuân, khí vũ thuỷ.
Ví dụ trong lục nhâm đại độn tháng dần Khởi Khí Vũ thuỷ, tiết Kinh chập.Những thần sát của Lục nhâm lại vẫn xử dụng Dần là tiết Lập xuân, khí Vũ thuỷ.
Nếu tiết khí có đủ 15 ngày thì có thể chia làm 3 hậu thương, trung, hạ nguyên.
Trong trường hợp các tiết không đủ 15 ngày hoặc quá 15 ngày, thì người chiêm độn khi lập cục phải nắm 2 điều quan trọng.
1, Tiết Lập xuân đến trước hay sau ngày mông 1 âm lịch.
2,Các tiết có quá 15 ngày hay không đủ 15 ngày.
TH 1: Tiết khí lập xuân đến trước hay sau ngày mồng một âm lịch thì phải căn cứ vào ngày , giwò Lập xuân để quyết định.
TH 2: Các tiết khí không đủ 15 ngày hoặc quá 15 ngày. Thường thì các tiết khí có đủ 15 ngày chia làm thượng, trung, hạ nguyên, mỗi nguyên 5 ngày.
Trong trường hợp mỗi tiết khí chỉ có 13, 14 ngày hoặc 16, 17 ngày, thì cần phải biết những ngày thiếu hoặc thừa thuộc nguyên nào.
Các nhà lịch pháp đặt phép tính "Tam nguyên phù đầu" để giải quyết vấn đề trên.
Pháp như sau:
1, Các can Giáp, kỷ gia với Tý, ngọ, mão , Dậu là thượng nguyên.
2, Các can Giáp, kỷ gia với Dân, thân, tị, hợi là trung nguyên.
3, Các can giáp, kỷ gia với Thìn, tuất , sửu, mùi là Hạ nguyên.
Cách dùng: Trong trường hợp tiết khí thừa hay thiếu ngày , xem Can chi của ngày thừa , thiếu để biết ngày đó thuộc vào nguyên nào.
Ví dụ Kỷ mão thuộc thượng nguyên.
Muốn lập được phương trình độn giáp, phải biết ngày chiêm thuộc cục nào, như vậy phải biết ngày đó thuộc tiết khí nào.
12 tiết khí từ Đông chí đến mang chủng là dương độn, 12 tiết từ hạ chí đến Đại tuyết là âm độn. Tức " Dương tiết ứng dương độn, âm tiết ứng âm độn".
Sau khi xác định được ngày đó thuộc dương, âm độn phải xem ngày đó thuộc tiết khí nào, sẽ biết ngày chiêm thuộc cục nào.
Tiết khí của một tháng âm lịch có thời gian bình quân chính xác là 30 ngày lẻ 5 giờ 2 khắc. Trong 24 tiết khí, khí dài nhất có 15 ngày le 16 giờ .
30 Ngày lẻ 5 giờ 2 khắc chia 6 cục độn giáp thừa 5 giờ 2 khắc là sai số.
Để giải quyết vấn đề này người xưa dùng "Siêu thần", "Tiếp khí", Trí nhuận " pháp.
Thời gian một cục bình quân 5 ngày , nhật can của ngày đầu mỗi cục nhất định là can kỷ hoặc giáp. Khi định cục bắt đầu là can giáp tiếp đến ất, bính, đinh, mậu cả thảy 5 ngày. Cục tiếp theo kỷ, canh, tân, nhâm, quý 5 ngày . Cục tiếp theo lại từ giáp...
Đối với địa chi có quy luật tính cứ bất kỳ tiết khí nào cục có tý , ngọ, mão, dậu thuộc thượng nguyên.
Đối với địa chi có quy luật tính cứ bất kỳ tiết khí nào cục có Dần, thân, tị, hợi thuộc trung nguyên.
Đối với địa chi có quy luật tính cứ bất kỳ tiết khí nào cục có Thìn, Tuất, sửu, Mùi thuộc hạ nguyên.
Phối thiên can địa chi ta có quy luật sau:
Trong mỗi tiết khí thiên can địa chi của thượng nguyên là Giáp tý, Giáp ngọ, kỷ mão,Kỷ dậu.
Trong mỗi tiết khí thiên can địa chi của thượng nguyên là Giáp dần, Giáp thân, kỷ tị,Kỷ hợi.
Trong mỗi tiết khí thiên can địa chi của thượng nguyên là Giáp thìn, Giáp tuất, kỷ sửu,Kỷ mùi.
Thông thường ngày đầu của thượng nguyên trong mỗi tiết không phải là ngày đầu của của tiết khí. Có khi tới trước tiết, có khi đến sau tiết, hãn hữu chúng mới trùng nhau.
Ta gọi ngày đầu của thượng nguyên trong tiết là "Phù đầu".
Thì người xưa định nghĩa:
"Chính thụ": Phù đầu và tiết khí cùng ngày.
"Siêu thần": Phù đầu đến trước tiết khí.
"Tiếp khí" :Phù đầu đến sau tiết khí
"trí nhuận": Phù đầu đến sớm 9,10,11 ngày chỉ xảy ra ở hai tiết Mang chủng và Đại tuyết ( là hai tiết chuẩn bị chuyển hoá âm, dương cục).
TH đó ta tính cục từ ngày phù đầu có tính thượng trung hạ. Nhưng đây là siêu cục và tính ở tiết đại tuyết hoặc mang chủng. Đến ngày giáp kỷ đầu của tiết mang chủng, đại tuyết ta lại tính thượng trung hạ bình thường. Như vậy phần ngày dư ra thuộc về tiết trước mang chủng, đại tuyết đươc tính cho tiết đại tiết mang chủng ở dạng siêu cục.
nguyenvu