-
09-08-11, 02:29 #61
Đâu có chuyện gì khó, thì dùng mặt trời hoặc bắc cực để xem hướng . Làm một cái Nhật Ảnh La Kinh là dùng được rồi
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
09-08-11, 05:02 #62
Lòng vòng hoài...chắc Cao nhân sợ mất điểm không giáng lâm. Thôi thì Bác lypm "Chốt Hạ" đi.
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
09-08-11, 06:13 #63
Cực trường thay đổi thì kim chỉ nam củng xê dịch. Nếu thật từ trường là một yếu tố quan trọng trong phong thủy, thì mấy thầy Fengshui mới có nhiều việc làm đấy. Chắc củng vì lẻ này mà mấy anh Hoàng Đế chọn đất phong thủy bậc đế vương tưởng đâu đời đời con cháu hưởng phú quý, ai nhè lâu lâu ông trời chuyển dịch cái cực trường làm cho con cháu nhà đế ta xuống làm lê dân, khahahah.
Nếu như vậy thì mấy anh Đế nhà ta phải xây cái mộ, tự biết chuyển hướng xê dịch theo La bàn là xong:-)))
Như vậy thì mấy thầy Fengshui lại có thêm hợp đồng dài hạn rồi đấy.
Mỗi 3-5 năm phải xem lại. Có thể nói với gia chủ như vầy nè:
Cái cực la bàn lâu lâu nó bị dời chổ, nên mỗi vài năm tui phải đến xem lại mới chắc ăn, làm ơn ký vào tờ hợp đồng vài hạn này. Khahahah.
Chuyện này hoàng toàn hợp lý thôi các huynh, đâu có gì cố định mãi mãi đâu chớ.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
10-08-11, 11:04 #64
Ngày xưa mấy thầy phong thủy đều biết nhìn mặt trời và bắc cực hay bắc đẩu để xem hướng không phải chỉ dựa vào la bàn đâu
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
10-08-11, 18:45 #65
Nếu thầy phong thủy đều biết nhìn mặt trời và bắc cực hay bắc đẩu để xem hướng, đều này cần kinh nghiệm, cần nghiệm chứng, theo khả năng từng thầy. Gì sáu tháng này mặt trời ngã bên nam, sáu tháng sau mặt trời ngã bên bắc. Còn đối với nam bán cầu mặt trời ngã về phương bắc, nếu dùng bắc đẩu định hướng bắc thì nam bán cầu làm gì thấy được bắc đẩu. Chắc phải dùng nam đẩu thôi. Hi Hi
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
12-08-11, 18:01 #66
Xin chào mọi người.
Xin hỏi một cái, mọi người có biết người xưa dùng cây sào cắm xuống đất để làm gì không vậy?.Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
12-08-11, 18:44 #67
Việc xem hướng theo mặt trời, bắc cực, thậm chí 28 tú là do sự hiểu biết về thiên văn, không hiểu thiên văn thì cho dù có kinh nghiệm cùng mình cũng chẳng biết . Cho nên người xưa dùng "kham dư" để chỉ thầy phong thủy . Xem hướng theo mặt trời không có phân biệt nam hay bắc, đứng bất cứ nơi nào trên trái đất cũng xem được .
Việc cấm xào chỉ là cơ bản trong việc coi giờ, xem hướng phứt tạp hơn nhiềuChào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
24-10-11, 08:16 #68
Chào các bạn
Cái mục Âm dương trên 24 sơn của Phi Tinh này nguội lạnh và hoang tàng quá, nay VinhL xin khơi lại chút ngọn nửa hồng, mà thêm một lần nửa thử giải thích nó rỏ ngọn cành gốc rể.
Trước hết xin nói đến thuyết Chi tàng Can, theo quyển Tam Nguyên Ai Tinh Kinh Điển “Dịch Cổ Hàm Kỳ” Cổ Bản,
[IMG]http://img600.imageshack.us/img600/9664/ngumaunguky.jpg[/IMG]
Ngũ Mậu Dương:
Càn Hợi Nhâm, Cấn Dần Giáp, Tốn Tỵ Bính, Khôn Thân Canh:
Ngũ Kỷ Âm:
Tý Quý Sửu, Mão Ất Thìn, Ngọ Đinh Mùi, Dậu Tân Tuất:
Tại sao lại có Ngũ Mậu Dương và Ngũ Kỷ Âm???
Sau khi nghiên cứu điều tra các sách mới biết được nó lại liên quan đến Nguyên Lý Chi Tàng Can.
Nguyên lý của Chi Tàng Can chính là căn cứ vào vòng Trường Sinh của Ngũ Hành.
Nguyên Lý như sau:
1) Hai vị Trường Sinh và Lâm Quan tàng Dương Can vì Ngũ Hành ở vị trí hữu lực.
2) Vượng Suy Mộ tàng Âm Can vì Ngũ Hành bắt đầu suy yếu, thối vị.
3) Dương Thổ: Dần Thân Tỵ Hợi đều là Sinh địa nên tàng Mậu Thổ, cùng với Thìn Tuất (bản thân nó là Mậu Thổ)
4) Âm Thổ: Tý Ngọ Mão Dậu đều là Tử địa nên tàng Kỷ Thổ, cùng với Sửu Mùi (bản thân nó là Kỷ Thổ)
Nay xin liệt diễn vòng Ngũ hành trên 12 chi:
-------Mộc--------- Hỏa---------- Kim---------- Thủy------------ Thổ
-------Giáp,Ất----- Bính, Đinh--- Canh, Tân---- Nhâm, Quý------- Mậu, Kỷ
------------------------------------------------------------------------
Tý --- Dục--------- Thai--------- Tử----------- Vượng, Quý------ Kỷ----- : Quý, Kỷ
Sửu -- Đới--------- Dưỡng-------- Mộ, Tân------ Suy, Quý-------- Kỷ----- : Tân Quý Kỷ
Dần -- Lộc, Giáp--- Sinh, Bính--- Tuyệt-------- Bệnh------------ Mậu---- : Giáp Bính Mậu
Mão -- Vượng, Ất--- Dục---------- Thai--------- Tử-------------- Kỷ----- : Ất Kỷ
Thìn - Suy, Ất----- Đới---------- Dường-------- Mộ, Quý--------- Mậu---- : Ất Quý Mậu
Tỵ --- Bệnh-------- Lộc, Bính---- Sinh, Canh -- Tuyệt----------- Mậu---- : Bính Canh Mậu
Ngọ -- Tử---------- Vượng, Đinh-- Dục --------- Thai------------ Kỷ----- : Đinh Kỷ
Mùi -- Mộ, Ất------ Suy, Đinh---- Đới---------- Dưỡng----------- Kỷ----- : Ất Đinh Kỷ
Thân - Tuyệt------- Bệnh--------- Lộc, Canh---- Sinh, Nhâm------ Mậu---- : Canh Nhâm Mậu
Dậu –- Thai-------- Tử----------- Vượng, Tân--- Dục------------- Kỷ----- : Tân Kỷ
Tuất - Dưỡng------- Mộ, Đinh----- Suy, Tân----- Đới------------- Mậu---- : Đinh Tân Mậu
Hợi--- Sinh Giáp--- Tuyệt-------- Bệnh--------- Lộc, Nhâm------- Mậu---- : Giáp Nhâm Mậu
Theo bản trên ta thấy:
Tý tàng Quý Kỷ
Sửu tàng Tân Quý Kỷ
Dần tàng Giáp Bính Mậu
Mão tàng Ất Kỷ
Thìn tàng Ất Quý Mậu
Tỵ tàng Bính Canh Mậu
Ngọ tàng Đinh Kỷ
Mùi tàng Ất Đinh Kỷ
Thân tàng Canh Nhâm Mậu
Dậu tàng Tân Kỷ
Tuất tàng Đinh Tân Mậu
Hợi tàng Giáp Nhâm Mậu.
Vì vậy
6 Mậu Dương là
Dần Thìn Tỵ Thân Tuất Hợi.
6 Kỷ Âm là
Tý Sửu Mão Ngọ Mùi Dậu.
Nếu ta sắp xếp lại sẻ thấy như sau:
Mậu Dương: Dần Thân Tỵ Hợi, Thìn Tuất (Tứ Duy đều là Dương)
Kỷ Âm: Tý Ngọ Mão Dậu, Sũu Mùi (Tứ Chính đều là Âm).
Tra xét lại với bản Chi Tàng Can của thuyết Tử Bình, ta thấy 3 Kỷ bị loại bỏ ở chi Tý, Mão, và Dậu. Do nguyên nhân gì? Dấu nghề chăng, tam sao thất bản chăng?
Thanh Nang Tự viết:
先天罗经十二支,後天再用干与维,
Tiên Thiên La Kinh 12 chi, hậu thiên tái dụng Can cùng Duy
八干四维辅支位,子母公孙同此推;
Bát Can tứ Duy phụ Chi vị, Tử Mẩu Công Tôn đồng thử thôi;
Qua Bốc Phệ (Bốc Phệ Chính Tông), ta biết 12 Chi và 10 Can ký vào Cửu Cung như sau:
12 chi ký Cửu cung (Hậu Thiên Bát Quái):
Tý Khãm, Sửu Dần Cấn, Mão Chấn, Thìn Tỵ Tốn, Ngọ Ly, Mùi Thân Khôn, Dậu Đoài, Tuất Hợi Càn.
Đây chính là Tiên Thiên La Kinh 12 Chi
Hậu Thiên tái dụng Can cùng Duy
10 Can ký Cửu Cung (Hậu Thiên Bát Quái và Hà Đồ Ngũ Hành)
Giáp Ất Chấn Mộc, Bính Đinh Ly Hỏa, Mậu Kỷ Trung Thổ, Canh Tân Đoài Kim, Nhâm Quý Khãm Thũy.
Tại sao sách lại nói Tái Dụng, bỡi vì Can là Ngũ Hành số của Hà Đồ, có trước Hậu Thiên, Duy là bốn gốc của Hậu Thiên Bát Quái, nay tái dụng để phụ vào 12 Chi.
Vậy trước hết ta lập 12 địa chi vào Cửu cung, sau đó ghép 8 Can vào:
Khãm: Nhâm Tý Quý
Cấn: Sửu Dần
Chấn: GiápMão Ất
Tốn: Thìn Tỵ
Ly: Bính Ngọ Đinh
Khôn: Mùi Thân
Đoài: Canh Dậu Tân
Càn: Tuất Hợi
Tý Ngọ Mão Dậu là Tứ chính, tứ duy là Cấn Tốn Khôn Càn điền vào ở 4 cung tứ duy.
Cấn: Sửu Cấn Dần
Tốn: Thìn Tốn Tỵ
Khôn: Mùi Khôn Thân
Càn: Tuất Càn Hợi.
Như vậy ta có 24 sơn như sau:
Khãm: Nhâm Tý Quý
Cấn: Sữu Cấn Dần
Chấn: Giáp Mão Ất
Tốn: Thìn Tốn Tỵ
Ly: Bính Ngọ Đinh
Khôn: Mùi Khôn Thân
Đoài: Canh Dậu Tân
Càn: Tuất Càn Hợi
Y như đồ hình này trong trang 363 của quyển Hà Lạc Tinh Uẩn
[IMG]http://img195.imageshack.us/img195/8507/halactinhuanpage374.jpg[/IMG]
Nay liệt Can Tàng vào ta có:
Khãm: Nhâm, Tý (Quý Kỷ), Quý
Cấn: Sửu (Tân Quý Kỷ), Cấn, Dần (Giáp Bính Mậu)
Chấn: Giáp, Mão (Ất Kỷ), Ất
Tốn: Thìn (Ất Quý Mậu), Tốn, Tỵ (Bính Canh Mậu)
Ly: Bính, Ngọ (Đinh Kỷ), Đinh
Khôn: Mùi (Ất Đinh Kỷ), Khôn, Thân (Canh Nhâm Mậu)
Đoài: Canh, Dậu (Tân Kỷ), Tân
Càn: Tuất (Đinh Tân Mậu), Càn, Hợi (Giáp Nhâm Mậu)
So sánh vòng 12 địa chi và vòng Hậu Thiên Bát Quái, tên gọi tứ duy tuy có khác (chi và quái) nhưng đều là một phương vị, cho nên Dần Cấn, Tỵ Tốn, Thân Khôn, Hợi Càn, đều cùng một thể, cho nên đều tàng cùng Can.
Dương khí khởi từ Tý, Âm khí khởi từ Ngọ, cho nên lấy Tý Ngọ làm giới, nay ta liệt vòng 24 sơn khởi từ Tý
Tý (Quý Kỷ), Quý, Sửu (Tân Quý Kỷ)
Cấn (Giáp Bính Mậu), Dần (Giáp Bính Mậu), Giáp
Mão (Ất Kỷ), Ất, Thìn (Ất Quý Mậu)
Tốn (Bính Canh Mậu), Tỵ (Bính Canh Mậu), Bính
Ngọ (Đinh Kỷ), Đinh, Mùi (Ất Đinh Kỷ)
Khôn (Canh Nhâm Mậu), Thân (Canh Nhâm Mậu), Canh
Dậu (Tân Kỷ), Tân, Tuất (Đinh Tân Mậu)
Càn (Giáp Nhâm Mậu), Hợi (Giáp Nhâm Mậu), Nhâm
Ta thấy:
Tý Quý Sửu đều có Quý, nên các sơn này đều là Âm (Quý Âm Can)
Cấn Dần Giáp đều có Giáp, nên các sơn này đều là Dương (Giáp Dương Can)
Mão Ất Thìn đều có Ất, nên các sơn này đều là Âm
Tốn Tỵ Bính đều có Bính, nên các sơn này đều là Dương
Ngọ Đinh Mùi đều có Đinh, nên các sơn này đều là Âm
Khôn Thân Canh đều có Canh, nên các sơn này đều là Dương
Dậu Tân Tuất đều có Tân, nên các sơn này đều là Âm
Càn Hợi Nhâm đều có Nhâm, nên các sơn này đều là Dương.
Ta thấy Càn Hợi Nhâm, Cấn Dần Giáp, Tốn Tỵ Bính, Khôn Thân Canh đều tàng Mậu
Càn (Giáp Nhâm Mậu), Hợi (Giáp Nhâm Mậu), Nhâm
Cấn (Giáp Bính Mậu), Dần (Giáp Bính Mậu), Giáp
Tốn (Bính Canh Mậu), Tỵ (Bính Canh Mậu), Bính
Khôn (Canh Nhâm Mậu), Thân (Canh Nhâm Mậu), Canh
Tý Quý Sửu, Mão Ất Thìn, Ngọ Đinh Mùi, Dậu Tân Tuất đều tàng Kỷ
Tý (Quý Kỷ), Quý, Sửu (Tân Quý Kỷ)
Mão (Ất Kỷ), Ất, Thìn (Ất Quý Mậu)
Ngọ (Đinh Kỷ), Đinh, Mùi (Ất Đinh Kỷ)
Dậu (Tân Kỷ), Tân, Tuất (Đinh Tân Mậu)
Cho nên sách Tam Nguyên Ai Tinh Kinh Điển “Dịch Cổ Hàm Kỳ” Cổ Bản, mới nói
Ngũ Mậu Dương:
Càn Hợi Nhâm, Cấn Dần Giáp, Tốn Tỵ Bính, Khôn Thân Canh:
Ngũ Kỷ Âm:
Tý Quý Sửu, Mão Ất Thìn, Ngọ Đinh Mùi, Dậu Tân Tuất:
[IMG]http://img600.imageshack.us/img600/9664/ngumaunguky.jpg[/IMG]
Theo VinhL nghỉ đây chính là chân lý của sự phân Âm Dương của 24 Sơn trong Huyên Không vậy!!!thay đổi nội dung bởi: VinhL, 24-10-11 lúc 13:25
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số
-
-
11-03-17, 15:19 #69
-
Phi tinh 2-24 sơn âm dương đồ giải
By namphong in forum Phong thủy IITrả lời: 6Bài mới: 13-08-13, 23:43 -
Thư nhận định và đánh giá lý thuyết vòng thái tuế
By vuivui in forum Tử viTrả lời: 86Bài mới: 18-06-13, 15:20 -
Âm Dương trong Phong Thuỷ
By vân từ in forum Phong Thủy ITrả lời: 0Bài mới: 07-03-11, 06:50 -
Một sự kiện nhiều giải trình!
By vân từ in forum Phong Thủy ITrả lời: 7Bài mới: 03-11-10, 21:30