Nguyên văn bởi
dauvanphung
Còn một số thần sát quan trọng nữa các ban tự đọc trong sách nhé.
(Tiếp theo)
PHÉP TỨ TRỤ
Tứ trụ lấy Năm làm Quân, Tháng làm Tướng, Ngày làm Quan, Giờ là Tư lại.Chỗ quí của Tứ trụ là: Can chi thuần túy, Thành cách, thành cục, phù Long, tương chủ. Đó là phúc vậy.
Năm là Quân, nên nhất thiết kỵ xung đột với Thái tuế.
Tháng là Tướng, đương vượng một thời, vì vậy phải phù cho Long sơn, tương chủ mệnh. Tất cần chọn tháng để Long, Sơn và Chủ mệnh vượng tướng. Khi chế sát tu phương, cần chọn tháng Thần sát hưu tù.
Ngày là Quan lại, dựa vào Đức của Quân, Tướng để thừa tiếp, tuyên bố ra. Vì vậy cát hung của Ngày, so với Năm, Tháng đặc biệt cấp thiết hơn.
Phép dùng Ngày lại lấy Thiên can của Ngày là Quân, Địa chi làm Thần, nên Thiên can quan trọng hơn Địa chi.
Thiên can của Ngày tất cần vượng tướng, nhất thiết kỵ hưu tù. Tóm lại xem Nguyệt lệnh để biện suy hay vượng.
Như tháng Dần Mão, dùng ngày Giáp, Ất là vượng, Ngày Bính Đinh là tướng, đều cát. Nếu dùng ngày Canh Tân là phế, ngày Nhâm Quí là tiết (xì hơi) ngày Mậu Kỷ là chịu khắc, đều là bất cát.
Nếu 3 trong 4 can nhất khí, coi như trợ cho "Thân cường". Như tháng 2 chọn 4 Tân Mão, như thế 8 chữ lớn khó gặp được tốt, thời chọn 8 chữ nhỏ (tiểu bát tự).
Như Năm Hợi, tu sủa phương Mão.
Là gặp Địa quan phù. Dùng tứ trụ:
Quí Hợi - Mậu Ngọ - Giáp Ngọ - Bính Dần
Ta thấy: Ngày Giáp trường sinh tại Hợi (năm); Lộc tại Dần (Giờ), lại có Thiên can năm là Quí thủy sinh trợ cho Giáp mộc. Gọi là "Tiểu bát tự" tức là lấy Can, Chi tứ trụ không thuần, chọn dùng vậy.
Tóm lại: Chọn Can rất cần kiện vượng. Khi chọn hưu tù, không có tựa vai, ấn thụ, lập tức thoái bại.
Dùng Giờ có 2 phép:
* Cùng loại can chi của Ngày
* Giờ của Lộc can, tam hợp, lục hợp, Quí nhân...
• Tứ trụ tối kỵ Địa chi xung nhau
• Xung Long, xung sơn, xung Chủ mệnh Đại hung.
• Thiên can khắc sơn, khắc long cũng hung.
• Duy Thìn, Tuất, Sửu Mùi có thể xung, nhưng xung Chủ mệnh vẫn hung.
Phàm Tứ trụ được Thiên can nhất khí, hay Địa chi nhất khí, hay 2 can 2 chi không tạp, hoặc Tam thai, Tam kỳ, Tam đức gọi là thành "Cách". Tam hợp cục gọi là thành "Cục" đều là cát cách vậy.
Phàm phù Long, phù sơn, tương chủ mệnh là cát.Như thế gọi là "Thể" của tuyển chọn đã dựng lên rồi. Lại còn được Nhật nguyệt, Tam kỳ, Tử bạch, chiếu vào sơn, hướng, cùng với tứ trụ Lộc Mã, Quí nhân đến sơn đến hướng, tức là "Thể " kiêm "Dụng" là Thượng cát.
Tuyển chọn cần lợi cái Đại cuộc, bỏ Đại cuộc lấy Tiểu kỷ là sai
Nguyên tắc: "Thể" là cái quyết định, "Dụng" là cái hỗ trợ cho "Thể", nhất thiết không chạy xô vào Dụng mà để mất Thể.
PHÉP DÙNG NGÀY
Ngày quí ở chỗ được thời lệnh vượng tướng, kị hưu tù vô khí.
Cát hung của ngày xem ở sự vượng hay suy.
Sự vượng suy của Ngày xem ở thời Lệnh tháng.
Được thời lệnh tháng, lệnh tháng sinh là vượng tướng, là đại cát.
Khắc nguyệt lệnh là Tù, bị nguyệt lệnh khắc là Tử. Là hung.
Ngày sinh Tháng là Hưu, không cát. (Do đó ngày Mẫn thương không phải là thượng cát).
Tháng Mộc: Giáp Dần Ất Mão là vượng
Mùa Xuân: Mộc vượng, Hỏa tướng.
Mùa Hạ: Hỏa vượng, Thổ tướng.
Mùa Thu: Kim vượng, Thủy tướng
Mùa Đông: Thủy vượng, Mộc tướng.
Chú ý các tháng 3, 6, 9, 12 có 18 ngày sau là Thổ vượng, Kim tướng.
Như vậy chỉ có các ngày Mậu Kỷ là kị động thổ và kị tu tạo trung cung.
Thiên can vượng tướng là ngày cát, chi ngày vượng tướng là chuyển sát.
Tháng 2 có Mão, tháng 5 có Ngọ tháng 8 có Dậu, tháng 11 có Tý là các ngày chuyển sát. Cổ nhâ ngày xưa, dùng bốn Tý, bốn Ngọ, bốn Mão hoặc 4 Dậu táng không phải kỵ.
Như Dương Công dùng: Tháng Ngọ, ngày Giáp Ngọ, tu sửa phương Quan phù, là không kỵ tạo vậy.
Như dùng Tứ trụ có Tứ trụ là bốn Tân Mão, dù tứ phế nhưng 4 Tân tương phù nên không kỵ vậy.
Thiên can của ngày hưu tù, tứ trụ lại không có Ấn thụ, tựa vai, là cách bần tiện, tuyệt đối không dùng.
Tháng Dần, ngày Giáp.
Tháng Mão ngày Ất,
Tháng Tị ngày Bính,
Tháng Ngọ ngày Đinh,
Tháng Thân ngày Canh,
Tháng Dậu ngày Tân,
Tháng Hợi ngày Nhâm,
Tháng Tý ngày Quí,
Vừa được lệnh tháng đồng thời được Lộc, cát lại càng cát vậy.
Tháng Thìn Tuất ngày Mậu
Tháng Sửu Mùi ngày Kỷ, tuy không được Lộc nhưng được lệnh.Trung cát.
Can ngày là Quân, chi ngày là thần, đồng khí cùng với nguyệt lệnh, hoặc cùng với tháng Tam hợp, hoặc Nguyệt kiến tương sinh, với thiên đức, tuế đức là thượng cát. Ngày Tam đức hợp, ngày Thiên ân, Thiên xá là thứ cát.
Thông thư kỵ ngày Thiên lại, giông như năm kị Cứu thoái:
Tháng Hỏa cục kỵ ngày Dậu
Tháng Thủy cục kỵ ngày Mão
Tháng Mộc cục kỵ ngày Ngọ
Tháng Kim cục kỵ ngày Tý
Tức là Tam hợp cục Tử địa vậy
Ngày và tháng xung nhau, đại hung.
Ngày và Tuế xung cũng đại hung.
Chính Tứ phế đại hung, bàng Tứ phế cát nhiều có thể dùng.
Ngày Hoang vu là thứ hung, như :
Xuân: Tị Dậu Sửu
Hạ : Thân Tý Thìn.
Thu: Hợi Mão Mùi
Đông Dần Ngọ Tuất.
Tứ phế Hoang vu kiêm nhau ở Ngày đặc biệt hung:
Xuân Tân Dậu, Hạ Nhâm Tý, Thu Ất Mão, Đông: Bính Ngọ là đó.
Ngày Trực Kiến, Bình Thu là chỗ tục kỵ. Riêng ngày Trực Phá đặc biệt hung, không dùng. Ngày Bình rất cát, ngày Thu cát nhiều thời không ngại, ngày Thu có Hoàng đạo, Thiên, Nguyệt đức có thể dùng.
Phàm tu tác cung trung, quyết không dùng ngày Mậu Kỷ. Đại để do cung trung là Thổ, tháng tứ quí cũng Thổ, tất không thể cát.
Phàm phép dùng ngày chuyên dùng ngày vượng tướng, nhưng cũng cần lưu ý: Như tháng Thổ kị dùng ngày Thổ để đông thổ, tu tạo trung cung là đúng lý, Bàng tứ phế cũng hung là chưa chuẩn mực, ngày Ngũ hư là ngày Hoang vu kị trăm việc là sai. Một tháng chỉ kị một chữ cũng không phải như thế.
Đại để người xưa tạo táng, khi dùng tứ trụ kim cục, nên cần kị năm tháng ngày giờ Mùa Xuân, và canh tân thân dậu, như tháng Mão thì có Dậu xung nên đặc biệt kị. Vì vậy không phải hễ thấy một chữ Hoang phế đã lo.
Lại còn phép dùng tựa vai tương phù, cũng không phải nhất loạt chi Hoang phế là hung. Như Tý Ngọ Mão Dậu là chuyển sát, mà người xưa có khi không kị là bằng cớ rõ ràng.
Tóm lại Nhật thần cát hung đều lấy sinh vượng làm chủ, bốn mùa ngũ hành biến hóa linh hoạt, nên đối chiếu với chương "Nghi kị" để xem xét là khinh hay trọng ?, mà dùng hay bỏ rất rõ ràng. Cần thông thạo thêm cách tính Độ vượng của Nhật chủ theo "Tứ trụ" thì ta mới vững tay khi cầm bút viết.