Cháu cảm ơn cô đã chỉ dạy
Tuy nhiên cháu nhận thấy:
- Khi xét tứ trụ gốc đầu tiên ta dùng lệnh tháng để đo vượng suy
- Sau đó xem xét tiếp các quan hệ sinh khắc hợp hình xung hại phá...
- Tổng hợp lại để kết luận về vượng suy cường nhược của các thần. Rõ ràng nếu Thân qđới, Sát suy thì tương quan sẽ khác với Thân suy, Sát qđới,...
==> Do vậy khi đánh giá vượng suy cường nhược của các thần, ta cần sử dụng đồng thời: vòng trường sinh & các quan hệ sinh khắc hại phá,...Bỏ 1 trong 2 yếu tố này, việc đánh giá vượng suy sẽ bị lệch lạc. Vì vậy ta cần có 1 quan điểm rõ ràng về vòng trường sinh, cụ thể là lấy Chi nào để đo.
Ta bàn về vòng trường sinh:
Khi xem mệnh, ta cần có 1 chuẩn (ở đây là lệnh tháng) để đo vượng suy (theo quan điểm vòng trường sinh, chưa xét đến hình xung hại phá...). Suy ra, khi xem hạn chúng ta vẫn nên có 1 chuẩn (1 chi) để đo vượng suy của các thần?
Theo quan điểm mệnh vận bất phân ta có 2 cách hiểu:
- Cách hiểu thứ nhất: vì mệnh vận bất phân nên ta cần 1 chuẩn chung để đo vượng suy.Do tính thống nhất (vì ban đầu ta đã dùng lệnh tháng) nên ta sẽ dùng lệnh tháng làm chuẩn chung này?
- Các hiểu thứ hai: mệnh có vượng suy của mệnh, vận có vượng suy của vận. Đặt mệnh vào vận để xem vận ảnh hưởng đến mệnh như thế nào tức là đã thỏa điều kiện mệnh vận bất phân. Do vậy, xét mệnh thì ta dùng lệnh tháng. Xét vận thì ta dùng chi của đại vận?
Nếu đọc sách "Tôi học đoán mệnh" của Trúc Lâm Tự và quan sát bảng tính tứ trụ của ông (ở những trang cuối của cuốn sách) ta sẽ thấy ông rất cẩn thận: ghi ra rất 4, 5 hàng vượng suy: của can-chi tứ trụ; của can tàng địa chi; của can-chi đại vận;can tàng đại vận, của can-chi lưu niên. Tuy nhiên cách ghi có vẻ không thống nhất nên hiện chưa xác định chính xác là ông đã lấy chi nào để so.
thay đổi nội dung bởi: G-R-E-E-N, 23-04-11 lúc 17:44
Chào mừng bạn đến với huyền không lý số